LỜI MỞ ĐẦU1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VỐN2
1. Các luồng vốn nước ngoài: . 2
1.1Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA . 2
1.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI2
1.3 Nguồn vốn đầu tư gián tiếp FII . 4
2. Tự do hoá tài khoản vốn:5
2.1 Khái niệm . 5
2.2 Vì sao phải tự do hóa tài khoản vốn5
2.3Hạn chế của việc tự do hóa tài khoản vốn . 5
3. Kiểm soát vốn (controlled capital). 7
3.1Khái niệm . 7
3.2 Các biện pháp kiểm soát vốn của chính phủ7
3.3 Hạn chế của kiểm soát vốn . 10
CHƯƠNG II: NHỮNG TRANH LUẬN VỀ CÁC QUAN ĐIỂM KIỂM SOÁT VỐN :12
1/ Những quan điểm trái ngược nhau nên hay không nên kiểm soát vốn :12
1.1/ Về lý thuyết . 12
1.2/ Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn . trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 199713
vThái Lan : . 13
v Maylaisia : . 15
2/ Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn ở Việt Nam hiện nay :17
2.1 Sơ lược luồng vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam17
2.2 Vì sao phải kiểm soát vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ?18
2.3 Các quan điểm về kiểm soát vốn ở Viêt Nam19
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHỨNG CỨ THỰC NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT VỐN VÀ BÀI HỌC CHO KIỂM SOÁT VỐN Ở VIỆT NAM23
1/ Kiểm soát vốn ở Thái Lan : . 23
1.1/ Tình hình kinh tế Thái lan trước khủng hoảng tài chính 1997 23
1.2/ Chính sách kiểm soát vốn khi khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra 24
1.3/ Một số chính sách kinh tế mới ở Thái Lan . 25
2/Kiểm soát vốn ở Malaysia : . 29
2.1/ Tình hình kinh tế của Malaysia trước khủng hoảng tài chính 1997 . 29
2.2/ Chính sách kiểm soát vốn khi khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra29
3/ Kiểm soát vốn ở Việt Nam : . 30
3.1/ Chính sách kiểm soát vốn của Việt Nam 30
v Việt Nam đã và đang Kiểm soát vốn như thế nào?31
Ä Việt Nam sẽ kiểm soát vốn như thế nào trong tương lai?33
3.2/ Bài học cho kiểm soát vốn tại Việt Nam 34
KẾT LUẬN35
PHỤ LỤC . 36
Kiểm soát vốn ở Trung Quốc 36
Kiểm soát vốn ở Hàn Quốc . 41
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3288 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm soát vốn, thậm chí phải đối mặt với việc vốn bị rút ra nhanh chóng. Nhưng hiện nay, khi dòng vốn ngoại đổ vào Việt Nam quá nhiều IMF cũng lo ngại khi đưa ra những biện pháp kiểm soát vốn phù hợp cho Việt Nam. Điều này cho thấy IMF đang ngày càng tiến gần đến quan điểm của Stiglitz.
v Maylaisia :
Một quốc gia cũng chịu ảnh hưởng mạnh từ cuộc khủng hoảng. Thủ tướng Mahathir Mohamad đã nhận thấy rằng thay vì thả nổi đồng tiền (trong thời gian dài trước đây, Chính phủ Malaysia đã thực hiện chính sách tự do hóa) và cầu cứu IMF thì đã sử dụng biện pháp kiểm soát vốn gắt gao như :
- Ấn định tỷ giá ở mức 3,8 Ringgit/USD.
- Tập trung thị trường thứ cấp vào thị trường chứng khoán Kuala Lumpur.
- Hạn chế các giao dịch tiền tệ và vốn của người không thường trú.
- Hạn chế và đi tới cấm sử dụng đồng Ringgit bên ngoài lãnh thổ Malaysia; chỉ cho phép chuyển đổi ngoại tệ trong hoạt động xuất nhập khẩu, FDI và chuyển lợi nhuận về nước.
- Cấm chuyển vốn ra nước ngoài trong một thời gian nhất định, kiểm soát nguồn vốn đầu tư ngắn hạn.
è bản chất tách rời lãi suất với tỷ giá, chủ động hạ lãi suất
§ Thoạt đầu, đại đa số các nhà kinh tế theo học thuyết thị trường tự do phản đối kịch liệt và coi là một bước thụt lùi trong tiến trình phát triển kinh tế Malaysia. Song theo thời gian, một số nhà kinh tế kể cả Paul Krugman cũng đã tán thành thậm chí cho rằng việc kiểm soát vốn mang đến cho các chính phủ thời gian điều chỉnh chính sách của họ trước khi nó trở thành quá trễ để làm bất kỳ điều gì. Ông kết luận kiểm soát vốn được coi là lựa chọn khi một quốc gia đang chìm sâu trong khủng hoảng.
§ Athukorala cũng chia sẻ ý kiến của Krugman, đã chỉ ra rằng các chính sách kiểm soát vốn năm 1998 là rất quan trọng đối với Malaysia.
§ Ngay cả Dornbusch, người luôn hoài nghi về các biện pháp của Malaysia, cũng phải thừa nhận rằng kiểm soát vốn đầu tư nếu được áp dụng trong giai đoạn khủng hoảng, bất ngờ, và tạm thời sẽ làm giảm áp lực về lãi suất và hối đoái. Điều này giúp một nền kinh tế tránh được một sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống tài chính.
§ Edison và Reinhart đã đưa ra một vài tóm tắt về các lợi ích và cũng như chi phí để kiểm soát vốn trong thời kỳ khủng hoảng. Có hai lợi ích :
+ Trước tiên, việc hạn chế dòng vốn chảy ra nước ngoài sẽ giúp ngân hàng trung ương cắt giảm được sự sụt giảm trong dự trữ ngoại tệ và duy trì ổn định tỷ giá hối đoái.
+ Thứ hai, việc ngăn không cho phép vốn chảy ra nước ngoài sẽ làm cho chính phủ duy trì được lãi suất thấp, có nghĩa là, để khôi phục lại quyền lực trong chính sách tiền tệ là điều rất quan trọng cho việc phục hồi của nền kinh tế. Mặc dù vẫn còn tồn tại những chi phí di động vốn không hoàn hảo. Tính không lỏng trên thị trường sẽ làm giảm sự tin cậy của các quốc gia này đối với các nước chủ nợ nước ngoài. Thêm nữa, nếu dòng vốn đầu tư bị giới hạn, thì sau đó gánh nặng về điều chỉnh trong các thị trường tài sản phụ thuộc nhiều hơn về giá cả. Do đó, giá tài sản có thể trở nên bất ổn định.
2. Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn ở Việt Nam hiện nay :
2.1 Sơ lược về luồng vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam:
Từ năm 2001 dòng vốn FDI có xu hướng phục hồi chậm và bắt đầu từ năm 2004 đến nay dòng vốn FDI lại bắt đầu tăng trở lại.
- Vốn đăng ký năm 2001 là 2,592 tỷ USD, bằng 128% năm 2000.
- Hai năm tiếp theo vốn đăng ký giảm sút, năm 2002 là 1,621 tỷ USD, bằng 62,5% năm 2001.
- Năm 2003 là 1,914 tỷ USD, xấp xỉ năm 2000.
- Vốn đăng ký năm 2005 là 6,8 tỷ USD, bằng 261% năm 2001.
- Đến năm 2006, vốn FDI đã tăng ngoạn mục và đạt 10 tỷ USD, tức tăng 149,1% so với năm 2005. Nguyên nhân của dòng vốn FDI tăng mạnh tại Việt Nam là do Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO với những điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI như: cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thuế suất thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ và xoá bỏ phân biệt đối xử quốc gia.
- Năm 2007 là 13 tỷ USD, thế nhưng số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa được công bố cho thấy, 12 tháng qua, cả nước đã thu hút được 20,3 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký bao gồm cả cấp mới và tăng vốn, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm trước, vượt 56% kế hoạch dự kiến.
Tổng vốn thực hiện cũng đạt kết quả khả quan là 4,6 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, vượt 2,2% kế hoạch năm đề ra (4,5 tỷ USD).
Trong 12 tháng, cả nước đã có 1.406 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký lên 17,6 tỷ USD, tăng 68,8% về số dự án và 94% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Số lượt dự án tăng vốn trong 12 tháng qua cũng đạt 361 lượt dự án với tổng vốn tăng thêm hơn 2,65 tỷ USD, bằng 74,3% về số dự án và 91,2% về vốn bổ sung so với cùng kỳ năm 2006
- Năm 2008 được xem là điểm nhấn đánh dấu thành công lớn nhất trong lịch sử hơn 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với nhiều dự án quy mô vốn đặc biệt lớn, thu hút FDI 2008 đã tăng đột biến, đạt kỷ lục chưa từng có: hơn 64 tỷ USD ( là vốn đăng ký ), gấp 3 lần mức FDI thu hút được trong năm 2007 và gấp hơn 2 lần so với con số của các năm 2006 và 2007 cộng lại.
Một con số quan trọng hơn, vốn FDI thực hiện trong năm 2008 cũng xác lập kỷ lục, đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007, cao gấp 5,3 lần mức giải ngân bình quân năm trong giai đoạn 20 năm trước. Đây là một kỷ lục rất đáng ghi nhận bởi tổng mức vốn FDI thực hiện trong suốt 20 năm đó (1988-2007) chỉ là 43 tỷ USD, trung bình đạt 2,15 tỷ USD/năm.
2.2 Vì sao phải kiểm soát vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ?
Các nhà ĐTNN chuyển vốn dưới dạng ngoại tệ vào để đầu tư và phải bán lấy VND để mua chứng khoán (CK). Kết thúc qui trình kinh doanh, nhà ĐTNN phải mua lại ngoại tệ để chuyển vốn và lãi (nếu có) về nước. Tuy nhiên vấn đề không có gì đáng nói nếu không xảy ra cùng lúc các nhà đầu tư nước ngoài (thường là các nhà đầu tư ngắn hạn) đồng loạt đổi ngoại tệ mang về nước làm cho cầu ngoại tệ tăng đột biến gây áp lực lớn lên tỷ giá.
Trong trường hợp có quá nhiều nhà ĐTNN đầu tư theo kiểu ngắn hạn, cùng lúc bán CK thu hồi vốn và mua ngoại tệ để chuyển về nước làm nhu cầu về ngoại tệ tăng đột biến, gây áp lực lớn lên tỉ giá. Tức là nếu dòng vốn này đỗ vào 1 cách ổ ạt lập tức gây nền những sóng gió cho tỷ giá hối đoái, bong bóng trên thị trường chứng khoán và bất động sản. Còn nếu dòng vốn này rút ra một cách ồ ạt thì cũng gây nên sóng gió cho tỷ giá và sụp đổ của TTCK và nhà đất, khủng hoảng cán cân thanh khoản. Vì vậy, một số nước đã có những biện pháp quản lý để hạn chế luồng vốn đầu tư vào TTCK mang tính ngắn hạn, khuyến khích các dòng vốn đầu tư dài hạn.
2.3 Các quan điểm về kiểm soát vốn ở Viêt Nam:
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về vấn đề nên hay không nên kiểm soát vốn, các quan điểm “đối đầu nhau” kịch liệt.
§ Đại diện cho nhóm lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài thì lấy lý do chúng ta đã gia nhập WTO, phải theo thông lệ chung của thế giới, phải tự do hóa dòng vốn, phải để thị trường tự điều tiết, bất cứ sự can thiệp nào từ phía nhà nước cũng là không tốt. Nhóm này tiêu biểu cho quan điểm ủng hộ tự do hóa vốn.
§ Đại diện cho quan điểm chính phủ thì cho rằng, cần thiết phải kiểm soát vốn để nhằm ổn định thị trường, đưa thị trường phát triển lành mạnh, tránh những cú sốc từ các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ồ ạt, gây náo loạn thị trường, gây khủng hoảng nền kinh tế.
§ Dragon Capital - một trong những quỹ đầu tư lớn nhất tại thị trường Việt Nam. Năm 2006, tài sản của Dragon Capital ở Việt Nam tăng gần 1,5 tỷ USD. Dragon Capital hoàn toàn có thể trông đợi việc kiểm soát vốn sẽ không xảy ra. Nhưng trên thực tế, ông Dominic Scriven – Giám đốc quản lý của Dragon Capital lại ủng hộ điều này một cách thận trọng. Scriven thấy rằng không cần thiết phải hạn chế vốn ngay trong lúc này mà có thể đợi một thời gian thích hợp. Ông nói: “Không một quốc gia nào ở châu Á phát triển thị trường vốn mà không có biện pháp để kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu Việt Nam không đưa ra biện pháp kiểm soát sẽ là một ngoại lệ trong khu vực. Ngay những quốc gia có thị trường vốn phát triển cũng có biện pháp giám sát luồng vốn nước ngoài”. Do đó ông nghĩ : “Sẽ là hợp lý nếu một quốc gia có cơ chế vừa kiểm soát vừa khuyến khích dòng vốn”.
Ngoài ra ông còn nhận định rằng “tỉ lệ vốn đầu tư ngắn hạn của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường Chứng khoán Việt Nam hiện nay cao hơn tỉ lệ vốn đầu tư trung và dài hạn. Không nên khuyến khích xu hướng này vì cái mà Việt Nam cần là những đồng vốn trung và dài hạn. Việt Nam cần có những biện pháp quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Chứng khoán trong tầm nhìn tổng thể và dài hạn của nền kinh tế. Các biện pháp kiểm soát, nếu có, cần phải nghiên cứu kỹ dựa trên những nguyên tắc kinh tế chứ không dựa vào những công cụ hành chính. Có nhiều biện pháp kiểm soát, chẳng hạn như giữ vốn lại một thời gian, đăng ký qua trung gian, đánh một khoản lệ phí trên vốn ngắn hạn... Điều quan trọng là phải có sự trao đổi trước, đối thoại với thị trường, tránh đưa ra những chính sách mà chưa có sự đối thoại sẽ khiến nhà đầu tư bị sốc, tác động không hay đến thị trường.”
àĐiều này cho thấy những giám đốc các quỹ đầu tư như Scriven đều biết rõ sự bất ổn định của những thị trường mới nổi tại châu Á ra sao để đưa ra quyết định nên đầu tư vào hay ko?
§ Nhà kinh tế học Joseph Stiglitz- người từng đoạt giải Nobel- cựu Chủ tịch Hội đồng Tư vấn kinh tế dưới thời Tổng thống Bill Clinton, giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) trong thời gian xảy ra khủng hoảng cũng đồng tình. Ông đã trả lời báo chí: “Kiểm soát vốn đang hiện đang phổ biến tại những thị trường mới nổi, và trong nhiều trường hợp thì nó lại là một điều tốt”.
§ Các chuyên gia của Citigroup cũng khuyến cáo, việc dư thừa vốn ngắn hạn trong hệ thống ngân hàng sẽ gây kích thích tăng trưởng tín dụng nhanh (đặc biệt là vay liên quan đến chứng khoán) và làm tăng cao tỷ lệ lạm phát cũng như nguy cơ hội chứng bong bóng trong thị trường chứng khoán.
§ Theo ông Supachai, người từng giữ chức vụ Phó Thủ tướng Thái Lan, tổng thư ký Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) mặc dù không dẫn đến suy thoái kinh tế, nhưng Việt Nam cũng giống như những quốc gia khác trong khu vực, nơi mức tăng trưởng trung bình chỉ đạt 6% trong năm nay. “Trong năm 2009, nếu vẫn giữ được ở mức này còn là một thành công lớn,” ông Supachai nói.
Ông Supachai còn nói thêm rằng “việc hạ mức tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam sẽ không gây ảnh hưởng đến những thành quả mà Chính phủ Việt Nam đạt được trong nhiều năm qua, đồng thời khuyến nghị Việt Nam cần củng cố các nền tảng cơ bản của nền kinh tế như ổn định kinh tế vĩ mô và khắc phục thâm hụt tài khoản vãng lai. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện dựa một phần chủ yếu vào xuất khẩu sang các thị trường truyền thống trong đó có châu Âu và Mỹ, bởi vậy để xây dựng được một nền tảng kinh tế trong nước tốt Việt Nam cần thúc đẩy việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, từ đó tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu”.
àTheo ông Supachai, việc thắt chặt chính sách tiền tệ không nên thực hiện một cách thái quá và việc này phải tiến hành song song với các chính sách khác như chính sách tài khóa, chính sách tăng thu nhập cho người dân.
Vì vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách cải cách, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước; giữ ổn định tỷ giá của đồng nội tệ và kiểm soát thị trường vốn một cách linh hoạt
Dựa vào các phân tích trên, các ưu và nhược điểm của kiểm soát vốn, chúng ta không thể kết luận được kiểm soát vốn là tốt hay xấu. Tuỳ vào tình hình tài chính của từng nước vào từng thời kỳ khác nhau sẽ áp dụng các hình thức kiểm soát vốn khác nhau và sẽ quyết định nên hay không nên kiểm soát vốn.
Ä Sau những tranh luận của các nhà kinh tế học, chính phủ …về chính sách kiểm soát vốn khi khủng hoảng tài chính Châu Á bùng nổ thì nhóm ấn tượng nhất câu nói của nhà kinh tế học Joseph Stiglitz: “Kiểm soát vốn đang hiện đang phổ biến tại những thị trường mới nổi, và trong nhiều trường hợp thì nó lại là một điều tốt”. Điều này cũng thích hợp ở thị trường Việt Nam vì cơ sở hạ tầng tài chính của các nước đang phát triển như Việt Nam còn yếu kém nên khả năng hấp thụ dòng vốn kém bởi vì các nước này quá nhỏ để hấp thụ được nguồn vốn khổng lồ từ bên ngoài. Khi dòng vốn đổ vào ồ ạt mà không hấp thụ được thì rát dễ xảy tình trạng đảo ngược dòng vốn gây ảnh hưởng nghiêm trọng và khủng hoảng tài chính là rất khó tránh khỏi.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHỨNG CỨ THỰC NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT VỐN VÀ BÀI HỌC CHO KIỂM SOÁT VỐN Ở VIỆT NAM:
1/ Kiểm soát vốn ở Thái Lan :
1.1/ Tình hình kinh tế Thái lan trước khủng hoảng tài chính 1997 :
Ở Thái Lan, khi tài khoản vốn được tự do cộng với kỳ vọng quá lớn của các nhà đầu tư và sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã làm cho dòng vốn ồ ạt chảy vào. Từ năm 1987 đến năm 1996, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Chỉ trong 10 năm đã có đến 100 tỷ đôla được đổ vào Thái Lan. Nghiêm trọng hơn, trên 70% số tiền này là vốn vay với hơn nửa là vay ngắn hạn do các tổ chức tài chính, nhất là các công ty tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản chiếm một tỷ trọng không nhỏ . Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và “bong bóng kinh tế” có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Những chỉ số kinh tế vĩ mô đẹp mắt tồn tại trong thời gian dài như: tốc độ tăng trưởng bình quân 9,5%, thất nghiệp được giữ ở con số dưới 2%, dữ trữ ngoại hối tăng bình quân 26,2% với 35 tỷ đôla được mua thêm, trong khi tốc độ tăng cung tiền chỉ là 18,7% và tỉ lệ lạm phát bình quân 4,7%, năm cao nhất chỉ là 6%..., dường như đã đánh lừa được mọi người.
Tuy nhiên, điều gì phải đến đã đến. Áp lực của những khoản nợ đến hạn, áp lực của thâm hụt ngoại thương liên tục đã vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế, nhu cầu ngoại tệ gia tăng đột biến. Mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ đôla trong gần 40 tỷ dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không đủ sức giữ được tỷ giá. Đồng Baht bị phá giá và khủng hoảng xảy ra với những hậu quả khôn lường.
1.2/Chính sách kiểm soát vốn khi khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra :
Năm 1997 tại Thái Lan, các nhà đầu tư nước ngoài ào ạt rút vốn, làm giá đồng Bath giảm mạnh. Chính phủ nước này đã nỗ lực cứu vãn khi tung dự trữ ngoại tệ ra thị trường nhưng quá trình rút vốn vẫn không dừng lại. Ngân Hàng Trung Ương phải bán khoản dự trữ ngoại tệ để chống đỡ các cuộc tấn công đầu cơ. Tuy nhiên số dự trữ ngoại tệ của một nước nhỏ như Thái Lan không đủ để làm điều này. Dự trữ ngoại tệ ròng (dự trữ ngoại tệ đã trừ đi số tiền cam kết sẽ bán ra vào thời gian tới) tụt xuống 2.9 tỷ USD vào thời điểm cuối tháng 6 năm 1997. Cùng lúc đó nước này nợ 36.5 tỷ USD nợ nước ngoài ngắn hạn. Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng 1 tỷ USD mỗi tháng. Ngày 2 tháng 7, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố thả nổi đồng Baht và ngay lập tức nó bị mất giá gần 50%. Đồng baht đang ở mức 30 baht/USD, tụt xuống 32 ngày 28/7/1997 khi chính phủ loan báo sẽ nhờ IMF trợ giúp. Sau khi công bố các biện pháp của IMF, đồng baht tụt giá xuống 35 vào ngày 11/9/1997, và xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ vào tháng 1 năm 1998. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Sau khi Thái Lan thực hiện chính sách thả nổi đồng Bath và IMF cho vay 16.7 tỷ USD với thời hạn 3 năm. Đồng thời thực hiện các điều kiện khắc nghiệt của IMF, kết quả Tháng 9 năm 1997, lãi suất ngắn hạn tăng 10% so với mức trước khi thả nổi đồng Bath, và tiếp tục đứng ở mức cao cho tới quý 3 năm 1998. Lãi suất liên ngân hàng tháng 9 năm 1997 là 23.87% so với 8.75% tháng 4. Lãi suất mua bán trái phiếu (repurchase rate) tăng từ 9.06% tháng 4 lên 23.28% tháng 9.
ÄTuy nhiên sau đó Thái Lan phục hồi nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Đồng baht tụt giảm xuống mức kỷ lục khiến hàng xuất khẩu vào Thái Lan có sức cạnh tranh. Xuất khẩu đem về ngoại tệ và cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai sang thặng dư. Ở đây chính sách của IMF gần như không đóng vai trò gì. Thậm chí nhiều nhà phân tích nhận xét rằng lẽ ra nền kinh tế Thái đã không chịu một tổn thất lớn đến thế - tăng trưởng kinh tế thực tế đã giảm kể từ quý 2 năm 1997, và GDP ước tính giảm 8.4% năm 1998 - nếu IMF đưa ra những chính sách thỏa đáng hơn.
1.3 Một số chính sách kinh tế mới ở Thái Lan :
Năm 2007 được Chính phủ Thái Lan xem là “một năm của những cải cách lớn” với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững hơn, thể hiện ở việc áp dụng các biện pháp như chính sách kiểm soát vốn, giới hạn tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài trong một số ngành nhất định, và thực hiện khái niệm “nền kinh tế hiệu quả” do nhà vua Bhumibol Adulyadej đưa ra.
- Vào giữa tháng 12/2006, chính quyền Thái Lan bắt đầu áp dụng biện pháp kiểm soát vốn. Điều này đã gây ra xáo trộn lớn đối với thị trường chứng khoán Thái Lan, giảm 18% chỉ trong vòng 1 ngày. Tuy nhiên, ngay sau khi các nhà đầu tư cổ phiếu được miễn áp dụng chính sách này, thị trường chứng khoán cơ bản đã hồi phục và hiện nhiều quỹ tự bảo hiểm của nước ngoài đang đổ xô vào Thái Lan nhằm tìm kiếm những cơ hội kinh doanh tiềm năng bắt nguồn từ sự thay đổi trong chính sách.
- Chính sách kiểm soát vốn của Thái Lan được xem như một hành động nhằm đối phó với những chuyển biến lớn của nền kinh tế toàn cầu: Sự sụt giảm trong dài hạn của đồng USD và nền kinh tế Mỹ đang đi xuống. Chính sách này còn nhằm kiềm chế sự tăng giá của đồng bạt trước đồng USD, duy trì sức cạnh tranh của hàng hóa Thái Lan trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, đồng bạt tiếp tục tăng giá so với đồng USD. Tỷ giá gần đây ở mức cao là 33 bạt/USD bất chấp việc kiểm soát vốn được áp dụng đối với giao dịch tiền tệ. Ngoài ra, xuất khẩu của Thái Lan đã tăng 17% trong năm 2006, cao hơn con số dự báo, bất chấp việc đồng bạt tăng giá 15% so với đồng USD.
- Chính sách kiểm soát vốn được đưa ra còn nhằm mục đích bảo vệ số tài sản bằng đồng USD ngày càng tăng nhanh trước xu hướng giảm giá của đồng USD. Việc bảo vệ tài sản bằng đồng USD là vấn đề lớn đối với những nước phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu như Malaixia, Xingapo, Thái Lan và Trung Quốc - những nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP tương ứng là 108%, 197%, 70% và 42%. Việc Thái Lan chuyển hướng chính sách báo trước một bước chuyển, theo đó nền kinh tế sẽ giảm sự phụ thuộc vào luồng vốn của phương Tây và các thị trường xuất khẩu, từng bước hướng vào thị trường trong nước, thậm chí áp dụng các chính sách kinh tế có mục đích bảo hộ.
Đây không phải là lần đầu tiên Thái Lan đi đầu trong việc thay đổi chính sách kinh tế. Trong thập kỷ 80 và 90 thế kỷ trước, Thái Lan đã nổi lên là nền kinh tế tăng trưởng nhờ xuất khẩu ở châu Á. Thái Lan cũng là nơi khơi nguồn của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Vào thời điểm đó, các nền kinh tế đang phát triển phải đối mặt với nhiều vấn đề khi phát triển kinh tế dựa vào vốn vay và có nhiều rủi ro khi không kiểm soát được các luồng vốn ngắn hạn.
Hướng phát triển mới của Thái Lan có thể được xem là rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Mặc dù Thái Lan vẫn tiếp tục cam kết phát triển nền kinh tế mở và hội nhập nhưng việc Thái Lan áp dụng chính sách kiểm soát vốn và có những điều chỉnh trong Luật kinh doanh nước ngoài theo hướng bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài đã gây tâm lý hoang mang, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài vào trong nước.
Xuất khẩu đã giúp nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng nhanh và giúp Chính phủ cân bằng tài khoản quốc gia kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, cho phép Thái Lan trả nợ cho Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) sớm 2 năm so với kế hoạch, giảm tỷ lệ nợ nước ngoài từ 90% GDP xuống 34% GDP hiện nay.
Tuy nhiên, hiện trong nền kinh tế Thái Lan đang có một lượng ngoại tệ lớn. Lý do là vì các khoản nợ đã được trả và nhiều kế hoạch chi phát triển cơ sở hạ tầng của chính quyền trước bị trì hoãn, xuất khẩu tăng mạnh. Lượng ngoại tệ này được xem là vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Tình hình này tương tự như việc các dòng vốn nước ngoài đổ dồn vào Thái Lan, tạo nên bong bóng tài chính năm 1997. Tuy nhiên, điều khác biệt là dòng ngoại tệ hiện do hoạt động xuất khẩu đem lại chứ không phải là các dòng vốn vay.
Nhà kinh tế Thái Lan, Supavud Saicheua, cho rằng hiện Thái Lan gặp khó khăn trong việc sử dụng hiệu quả lượng USD thu được từ hoạt động xuất khẩu. Ông cho rằng với tỷ trọng xuất khẩu/GDP là 70%, gấp đôi tỷ lệ 34% của Trung Quốc và cao hơn rất nhiều so với mức trung bình 24% trên thế giới, Thái Lan cần phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Đáng chú ý là trong khi áp dụng các biện pháp kiểm soát với một số loại hình vốn nước ngoài vào trong nước từ tháng 1/2007, Ngân hàng trung ương Thái Lan đã giảm bớt hạn chế đối với việc đầu tư ra nước ngoài của công dân Thái, vốn được áp dụng từ lâu. Hiện các quỹ tương hỗ và các công ty chứng khoán có thể đầu tư tới 50 triệu USD ra nước ngoài mà không cần có sự cho phép của Ngân hàng trung ương Thái Lan. Nếu chính sách này được thực hiện tới cùng, Thái Lan có thể sớm trở thành một nước xuất khẩu vốn ròng.
Việc kết hợp đồng thời biện pháp kiểm soát vốn và sửa đổi Luật kinh doanh nước ngoài rõ ràng sẽ khiến một số nhà đầu tư phải cân nhắc lại việc đầu tư vào Thái Lan, theo đó sẽ hạn chế luồng vốn ngắn hạn chảy vào trong nước. Điều này sẽ giúp nền kinh tế phát triển bền vững hơn và bảo vệ đất nước khỏi những bất ổn kinh tế có thể xảy ra trong thời gian tới.
z Ngày thứ 3 đen tối với chứng khoán Thái Lan :
Chỉ số chứng khoán Thái Lan (SET Index) giảm gần 15%, các nhà đầu tư nước ngoài tháo chạy, nhiều sàn giao dịch quốc tế cũng chịu ảnh hưởng dây chuyền. Khủng hoảng diễn ra hôm qua, sau khi chính phủ quyền Bangkok quyết định kiểm soát thị trường chứng khoán và ra tay chặn đà tăng giá nội tệ.
Cuối chiều 18/12, Ngân hàng Trung ương Thái Lan yêu cầu các nhà băng tư nhân phong tỏa tối thiểu 30% trị giá các tài khoản tiền gửi ngoại tệ được lập để đầu tư tài chính. Việc phong tỏa này có hiệu lực từ 19/12 và kéo dài trong vòng 1 năm. Nếu nhà đầu tư muốn rút trước hạn quy định, chỉ được giải ngân tối đa 2/3 khoản tiền bị giữ lại đồng thời chịu phạt 10% tổng số tiền gửi ban đầu.
Bên cạnh đó, chính phủ quân sự Thái Lan yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép dùng tối đa 70% tiền trong tài khoản của mình để đầu tư chứng khoán, các giấy tờ có giá và bất động sản. Trước đó, các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại đã được khuyến cáo không bán những khoản nợ ngắn hạn bằng đồng baht cho nhà đầu tư nước ngoài.
Các biện pháp trên đây được đưa ra nhằm chặn đà tăng giá của đồng baht so với đôla Mỹ. Từ đầu năm tới nay, baht Thái tăng 16% và đạt mức cao nhất trong 9 năm qua vào cuối phiên giao dịch hôm thứ 2.
Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu tiên quy định kiểm soát tiện tệ có hiệu lực, thị trường chứng khoán Thái Lan rơi vào thế hoảng loạn. Chỉ số chuẩn SET mở cửa với mức thấp hơn 20% so với thứ 2 và đến cuối phiên chốt 622,14 điểm, giảm 14,8%. 622,14 điểm là mức chốt thấp nhất kể từ 29/10/2004. Mức giảm gần 15% cũng được xem là lớn nhất kể từ 1975. Cú mất điểm này khiến giá trị thị trường chứng khoán Thái Lan sụt 23 tỷ USD.
Tác nhân chính là cơn tháo chạy hoảng loạn của các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ nội phiên hôm qua, họ bán ra tới 25,1 tỷ baht, tương đương 699 triệu USD, mức bán ra lớn nhất kể từ 4/1/1999.
Hiệu ứng ngày thứ ba đen tối ở Thái Lan nhanh chóng lan rộng sang các thị trường khu vực. Chỉ số Jakarta Composite của Indonesia giảm 2,9%, trong khi Kuala Lumpur Composite Index ở Malaysia mất 2%. Chỉ số Hang Seng ở Hong Kong sụt 1,2% và Sensex ở Bombay (Ấn Độ) giảm 2,5%. Dow Jones tại Mỹ cũng chịu ảnh hưởng đôi chút dù đang trong thời gian thăng hoa.
Lo sợ trước đà tháo chạy của các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ Thái Lan ngay lập tức có sự điều chỉnh. Cuối chiều qua, Bangkok tuyên bố sẽ dỡ bỏ quy định hạn chế đối với việc đầu tư cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Song tỷ lệ trần 70% với việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các giấy tờ có giá vẫn được duy trì, bởi Thái Lan coi đây là biện pháp quan trọng ngăn đà tăng giá đồng nội tệ.
2. Kiểm soát vốn ở Malaysia :
2.1. Tình hình kinh tế của Malaysia trước khủng hoảng tài chính 1997:
Trong thập kỷ 1970, Malaysia bắt đầu bắt chước Những con Hổ Châu Á và bắt đầu quá trình chuyển tiếp từ nền kinh tế phụ thuộc vào công nghiệp mỏ và nông nghiệp sang nền kinh tế chế tạo. Với đầu tư từ Nhật Bản, các ngành công nghiệp nặng nhanh chóng phát triển trong vài năm. Xuất khẩu của Malaysia trở thành khu vực mang lại tăng trưởng chủ yếu. Malaysia liên tục đạt mức tăng trưởng GDP hơn 7% với tỷ lệ lạm phát thấp trong thập niên 1980 và 1990.
Cùng trong giai đoạn này, chính phủ đã tìm cách xóa bỏ nghèo đói với Chính sách Kinh tế Mới (NEP) gây nhiều tranh cãi, sau vụ nổi loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Mục tiêu chính của nước này là xóa bỏ sự liên hệ sắc tộc với chức năng kinh tế, và kế hoạch năm năm đầu tiên áp dụng Chính sách Kinh tế Mới là Kế hoạch Malaysia lần Hai. Thành công hay thất bại của Chính sách Kinh tế mới là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận, dù nó đã bị chính thức bãi bỏ năm 1990 và được thay thế bởi Chính sách Phát triển Quốc gia (NDP).
2.2/ Chính sách kiểm soát vốn khi khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra:
Nếu như Thái Lan ứng xử với khủng hoảng bằng cách kêu gọi sự giúp đỡ của IMF và tiến hành các biện pháp được IMF khuyến khích thì Malaysia lại hành động không theo thông lệ. Khi khủng hoảng bắt đầu lan ra, Malaysia là một trong những nước bị hiệu ứng "lây lan" . Thị trường chứng khoán Kham Lumpur giảm từ 1300 điểm xuống còn 400 điểm chỉ trong vài tuần, trong khi đồng ringgit của Malaysia cũng sụt giá từ mức 2,5 ringgit một đôla xuống mức 4,8 ringgit một đôla. Thay vì thả nổi đồng tiền như ở Thái Lan thì Malaysia quyết định cố định đồng ringgit với đồng đôla theo tỷ giá 3,8 ringgit cho một đôla, đồng thời cấm chuyển vốn ra nước ngoài trong một thời hạn nhất định, tất cả đồng Ringgit ở ngoài nước không được phép quay về trong nước, bởi họ sợ điều này gây áp lực cho tỷ giá và từ chối viện trợ của IMF... Các hiện pháp này có lẽ đã giúp Malaysia tránh rơi vào tình trạng tụt dốc không phanh như ở các nước láng giềng. Tuy vậy GDP của Malaysia cũng giảm mạnh 7,% vào năm 1998 dù trong năm 1999, tăng trưởng đã trở lại với mức 5,6%. Cùng với các biện pháp kiểm soát vốn và cố định tỷ giá, chính phủ Malaysia tiến hành những chương trình chi tiêu rất lớn trong các năm sau đấy để khuyến khích hồi phục kinh tế. Malaysia cũng tiến hành cải cách doanh nghiệp và hệ thống lài chính, tăng cường giám sát các Ngân hàng. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Cho tới năm 2005, Malaysia bãi bỏ chính sách tỷ giá cố định để theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý. Trước đó các chính sách kiểm soát vốn cũng đã được dỡ bỏ. Tới thời điểm hiện nay, kinh tế Malaysia tỏ ra khá ổn định và lành mạnh trong việc hấp thụ các khó khăn của nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua.
3/ Kiểm soát vốn ở Việt Nam :
3.1/ Chính sách kiểm soát vốn của Việt Nam :
Qua kiểm soát vốn ở Thái Lan và Malaysia thì việc kiểm soát vốn Việt Nam là một điều cần thiết. Vấn đề còn lại là thực hiện như thế nào đề không gây sốc đối với nhà đầu tư và thị trường. Làm sao để thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước là những vấn đề nên được cân nhắc cẩn thận.
Dựa trên cơ sở những quan sát và nghiên cứu về nền kinh tế Việt Nam, ta thấy : trong khi các lợi ích từ việc tự do hóa vốn đầu tư chưa rõ ràng, thì sự các định chế tài chính ngân hàng của Việt Nam lại quá mong manh để có thể đấu tranh chống lại những sự tấn công sắp tới (tấn công do đầu cơ). Do đó, Việt Nam có thể không muốn nới lỏng sự kiểm soát vốn của mình trong một thời gian ngắn.
v Việt Nam đã và đang Kiểm soát vốn như thế nào?
§ Chế độ kiểm soát vốn của VN đã có nhiều đổi mới trong những năm gần đây. Trong suốt thời kỳ mở cửa cho đến nay, VN chủ yếu thực hiện phương pháp khuyến khích dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, dòng vốn FDI đã tăng trở lại, tuy vẫn đứng ở mức thấp so với tổng số đầu tư FDI vào VN: 1,2% năm 2002, 2,3% năm 2003 và 3,7% năm 2004. Trong khi đó tỉ lệ này ở Thái Lan, Malaysia & Trung Quốc là từ 30-40%. Xu hướng này tăng mạnh lên khi chính phủ phát hành loạt trái phíếu quốc tế đầu tiên vào tháng 10 năm 2005 và kéo theo hàng hoạt phương án phát hành trái phiếu quốc tế của các tổng công ty lớn như Vinashin, EVN và hàng loạt công ty khác. Dòng vốn này cùng với dòng vốn FDI, theo dự đoán, sẽ tăng lên trong những năm sắp đến và tạo sức ép lên VND.
è Để đối phó với dòng vốn này, thường là các cơ quan chức năng sẽ thực hiện các phương pháp nới lỏng thị trường đối với các dòng chu chuyển vốn ra nước ngoài. Trong thực tế, Nhật Bản cũng đã từng thực hiện các phương pháp tương tự như vậy trước khi tự do hóa hoàn toàn cán cân tài khoản vốn vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
Những đổi mới trong kiểm soát vốn được tiến hành nhanh và hiệu quả như thế nào rất khó có thể nhận biết được, nếu chỉ bằng cách tiếp cận thông qua các thay đổi trong các luật lệ và các chính sách mà các cơ quan chức năng công bố. Hoặc chỉ bằng cách so sánh các chỉ số kinh tế trước và sau khi đổi mới kiểm soát vốn. Chúng ta hay có quan niệm (thường là sai lầm) là chỉ cần nhìn vào những quy định nới lỏng kiểm soát vốn, ví dụ: như chính phủ nới lỏng tỷ lệ sở hữu cho người nước ngoài nắm giữ lên đến 49%, là đã kết luận được về tính hiệu quả kiểm soát vốn. Trong thực tế, chỉ bằng cách tiếp cận thông qua các luật lệ và những chính sách, hầu như không thể nào biết được những thay đổi trong luật và các chính sách này đã tác động đến những khó khăn phát sinh trong quá trình quản lý các giao dịch tài chính như thế nào. Những phức tạp này chủ yếu là do có quá nhiều nhân tố tác động, chẳng hạn như nhân tố rủi ro quốc gia, các ưu đãi thuế, rủi ro tỷ giá v.v.
§ Đối với dòng vốn ngoại :
Những bài học khủng hoảng từ các nước châu Á năm 1997 đã cho thấy, khi vốn ngoại vào nhiều, nếu tiếp tục gia tăng tự do hóa tài khoản vốn, không kiểm soát chặt ngoại hối trong khi thiếu biện pháp đối phó với gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất, sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ những cuộc di chuyển vốn ồ ạt. àRút kinh nghiệm từ các nước Đông Nam Á, Việt Nam đã thực hiện tự do hóa vãng lai nhưng còn dè dặt tự do hóa giao dịch vốn bên cạnh sự kiểm soát chặt chẽ ngoại hối. Vì : Trên thực tế, Việt Nam mới chỉ cam kết gia nhập WTO tự do hóa giao dịch vãng lai còn tự do hóa giao dịch vốn mới chỉ cam kết từng khía cạnh, chưa phải cam kết toàn bộ. Nhưng dù sao, trong xu thế độ mở nền kinh tế ngày càng rộng, Việt Nam nên có biện pháp kiểm soát, tối thiểu là theo dõi số liệu ra vào của dòng vốn này một cách chính xác. Việc này thực hiện không khó vì khi đưa vốn vào Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản tại ngân hàng, sau đó chuyển đổi và mới đem đi đầu tư và quá trình này cũng tương tự đối với mang vốn ra. Bên cạnh đó, củng cố thị trường tài chính trong nước bằng cách từng bước áp dụng các chuẩn mực giám sát tài chính quốc tế như thỏa ước Basel về an toàn vốn, các nguyên tắc quản lý chứng khoán IOSCO, các tiêu chuẩn giám sát công ty của OECD cùng với các chuẩn mực quốc tế về công khai hóa tài chính, kế toán và kiểm toán . Tuy nhiên, nếu chúng ta thực hiện theo cách này, thì độ mở nền kinh tế sẽ lớn hơn, quá trình tự do hóa giao dịch vốn sẽ diễn ra nhanh hơn nhưng sự chu chuyển của dòng vốn rất dễ nằm ngoài tầm kiểm soát.
à Trong bối cảnh đang hình thành hệ thống tài chính quốc tế mới hiện nay, các nhà hoạch định chính sách đều cố gắng theo đuổi ba mục tiêu: duy trì chính sách tiền tệ độc lập; ổn định tỷ giá hối đoái và tăng tự do hóa các luồng vốn. Tiếc rằng, cả lý thuyết lẫn thực tế đều chứng minh rằng chẳng có nước nào vừa tăng tự do hóa luồng vốn, vừa ổn định được tỷ giá trong khi vẫn giữ được chính sách tiền tệ độc lập.
VND của Việt Nam chưa thực hiện tự do hóa chuyển đổi như đồng Ringgit của Malaysia và chúng ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình tự do hóa luân chuyển vốn nên càng có lý do để cẩn trọng, theo dõi và từng bước thực hiện tự do hóa tài khoản vốn để không phải trả một cái giá quá đắt. Vì sự nguy hiểm của dòng vốn ngoại chính là khả năng đảo chiều. (Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, họ mang ngoại tệ vào và chuyển đổi sang VND. Khi rời Việt Nam, theo Pháp lệnh Quản lý ngoại hối, họ được phép chuyển đổi VND ra ngoại tệ và chuyển ra. Quy định này áp dụng với cả dòng vốn FDI và FII. Dòng vốn ngoại sẽ đảo chiều khi lượng nhà đầu tư chuyển tiền ra khỏi Việt Nam cao hơn mang vào (do thu được nhiều lợi nhuận trong quá trình đầu tư trước đó) và sẽ hút một lượng lớn ngoại tệ của Việt Nam ra nước ngoài.)
Ä Việt Nam sẽ kiểm soát vốn như thế nào trong tương lai???
Việt Nam được đánh giá là một thị trường rất tiềm năng và lượng vốn đầu tư vào Việt Nam cũng rất lớn nhưng Việt Nam là một nước nhỏ và đang phát triển, cơ sở hạ tầng tài chính còn yếu chưa đủ khả năng hấp thụ các luồng vốn khổng lồ từ bên ngoài, do đó trong tương lai gần Việt Nam nên áp dụng chính sách kiểm soát vốn để tránh nguy cơ đảo ngược dòng vốn. Đến khi nào tình hình tài chính Việt Nam đủ mạnh, cơ sở hạ tầng tài chính Việt Nam đủ tốt thì Việt Nam có thể nghĩ đến tự do hoá có kiểm soát vì so với những nước khác thì Việt Nam vẫn là một nước nhỏ, nếu Việt Nam thực hiện tự do hoá hoàn tòan tài khoản vốn thì Việt Nam rất dễ bị các nước khác tấn công.
3.2 Bài học cho kiểm soát vốn tại Việt Nam :
§ Trước tiên là về chính sách tỷ giá. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, chính sách tỷ giá linh hoạt và hợp lý sẽ đóng vai trò như một tấm đệm, giúp giảm thiểu nhiều khả năng xảy ra khủng hoảng..
Chúng ta cần nhớ lại bài học điều hành tỷ giá kém linh hoạt của Thái Lan và một số nước Đông Nam Á trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-1998. Một điều quan trọng nữa là chính sách tỷ giá linh hoạt phải đi kèm với các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá thì như vậy mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định.
§ Thứ hai phải quan tâm là chính sách kiểm soát vốn. Vì việc để dòng vốn tư nhân nước ngoài tự do vào và ra là một nguyên nhân quan trọng khiến cho nhiều quốc gia đang phát triển lâm vào khủng hoảng tài chính nên vấn đề kiểm soát vốn cũng phải được đặt ra. Malaysia đã thực hiện một chính sách kiểm soát vốn chặt chẽ và có thể nhờ đó mà nước này đã thoát khỏi khủng hoảng tài chính nhanh chóng.
§ Thứ ba lựa chọn biện pháp quản lý vốn phù hợp với mục tiêu phát triển Việt Nam và trình độ của thị trường tài chính trong nước, để không chỉ khơi thông các dòng chảy mà còn biết đắp đập đúng chỗ, đúng lúc trước khi bơi ra biển cả tài chính toàn cầu.
§ Thứ tư chính sách tiền tệ của Việt Nam phải có độc lập nhất định và phải có khả năng đáp ứng được phát triển kinh tế cũng như có thể điều tiết được thị trường trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
§ Thứ năm chính phủ cần phải có tiếng nói trước những cảnh báo, phải minh bạch trong hoạch định và điều hành chính sách của mình.
KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu, phân tích các tình hình cụ thể trong thực tiễn, chúng ta cũng thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau về “nên hay không nên kiểm soát vốn”. Mỗi chính sách đều có ưu và nhược điểm, thành tựu và cái giá phải trả phía sau đó. Do đó, Chính phủ các nước phải linh hoạt trong từng tình huống cụ thể và tuỳ từng mục tiêu mà Chính phủ hướng đến để lựa chọn chính sách cho phù hợp. Hiện nay, mặc dù các nước đang bước vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới rất cần các nguồn vốn tự do chu chuyển vào các nước để đáp ứng nhu cầu phát triển nhưng các dòng vốn vào và các dòng vốn ra cũng phải nằm trong tầm kiểm soát được, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng tài chính hiện nay thì nên áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn hơn là tự do hoá tài khoản vốn. Khi nguồn tài chính của một quốc gia đủ mạnh, cơ sở hạ tầng kinh tế tốt thì có thể mạnh dạn áp dụng “tự do hóa tài khoản vốn”. Nhưng đây cũng không phải là một vấn đề đơn giản, thậm chí đối với những cường quốc như Mỹ.
PHỤ LỤC
zKIỂM SOÁT VỐN Ở TRUNG QUỐC
* Chính sách kiểm soát vốn của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998 :
Năm 1994, Trung Quốc đã cố định tỷ giá 8,28 Nhân dân tệ đổi 1 đôla Mỹ. Với tỷ giá này, đồng Nhân dân tệ đã bị định giá thấp, nhưng tạo được lợi thế xuất khẩu gia tăng.
Năm 1997, sau khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại châu Á, Trung Quốc tuyên bố đồng Nhân dân tệ không mất giá, đã ổn định được toàn bộ tình hình châu Á. Điều này cho thấy hình ảnh trách nhiệm của Trung Quốc, được quốc tế đánh giá cao.
Khi đó, có người cho rằng mô hình “4 con rồng nhỏ châu Á” chưa đúng, con đường cải cách mở cửa của Trung Quốc cũng đã sai lầm, nhưng Chính phủ Trung Quốc không hề quan tâm đến lời nhận định đó, trái lại còn nhanh chóng đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong thời gian đó, Trung Quốc còn tích cực thực thi các chính sách tài chính, mở rộng nhu cầu nội địa, tăng cường đầu tư.
Còn đối với các khoản nợ của các SOE và các tổ chức nhà nước khác như các công ty đầu tư và ủy thác theo vùng. Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ khó thanh toán của họ cũng giống như đối với những khoản nợ của ngân hàng. Những khoản nợ nước ngoài của SOE và các tổ chức khác của Nhà nước có thể được xử lý khác với những khoản nợ trong nước vì mối quan tâm lớn của Chính Phủ là liệu Trung Quốc có thể tiếp tục tiếp vận với các thị trường tài chính quốc tế với một tỷ lệ lãi suất thuận lợi không. Nếu tính cả số nợ nước ngoài của các tổ chức thì tỷ lệ nợ Nhà nước cao nhất /GDP là 50,1% trong năm 1996 và 55,1% năm 1997.
So với tỷ lệ nợ liên bang/GDP của Mỹ là 7,1% trong năm 1996 (thấp nhất trong số các nước G7) thì có thể nói Trung Quốc vẫn có thể tăng những khoản vay để tài trợ cho chính sách tài chính mở rộng mà không gây ra những vấn đề nghiêm trọng về nợ.
w Chính sách tiền tệ dễ dàng hơn. Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc cắt giảm tỷ lệ lãi suất một số lần. Tỷ lệ cho vay dài hạn (3-5 năm) giảm từ 11,7% xuống còn 9,9% trong năm 1997; xuống 9,72% trong tháng 3 năm 1998, tới tháng 7/98 và 7,65% và gần đây nhất tháng 12/98 chỉ còn 7,15%.
Trong suốt năm 1998, nhiều quan chức cấp cao đã kêu gọi các ngân hàng trong nước mở rộng các khoản cho vay và ngược lại, ngân hàng có sự cam kết tăng các khoản tín dụng cho nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, cho tới nửa cuối năm 1998, sự tăng trưởng của tiền tệ vẫn thấp, và ngay lập tức một số nhà kinh tế Trung Quốc đã nghĩ tới tình huống thiếu tiền mặt. Vì vậy giải pháp trước mắt cho tình trạng này là Chính phủ cam kết chi tiền cho các cơ sở hạ tầng mới, mà nguồn tiền là từ các ngân hàng Nhà nước hoặc từ những quỹ dự trữ của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, chỉ có thể duy trì sự gia tăng những khoản tín dụng khi các ngân hàng thương mại Nhà nước sử dụng các khoản tín dụng mới Ngân hàng chỉ tự nguyện cho vay khi nhận thấy rõ khả năng kinh tế của dự án. Chính phủ cần tìm cách tạo ra những cơ hội cho vay an toàn cho các ngân hàng.
*Một số chính sách kiểm soát vốn của Trung Quốc trong thời gian gần đây:
§ Trung Quốc nới lỏng kiểm soát năm 2007. Chính phủ Trung Quốc vừa tuyên bố sẽ cho phép người dân ở lục địa đầu tư vào thị trường chứng khoán (TTCK) Hồng Công, một bước đi mạnh mẽ nhất của nước này trong việc tháo dỡ bớt các rào cản ngăn chặn người Trung Quốc trong các hoạt động đầu tư quốc tế.
Theo chính sách mới, người dân Trung Quốc trong lục địa được phép mở các tài khoản ở chi nhánh của ngân hàng Bank of China (BoC) ở Tianjin để bán đồng nhân dân tệ và mua không giới hạn dollar Hồng Công.
Công dân Trung Quốc cũng được phép dùng tiết kiệm ngoại tệ của mình để mua cổ phiếu ở Hồng Công, thông qua chi nhánh BoC ở Tianjin. Ủy ban Ngoại tệ Quốc gia (SAFE), cơ quan quản lý 1,33 nghìn tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc, giải thích: “Với nền kinh tế đang thăng hoa của Trung Quốc, thu nhập của nhân dân ngày càng cao và nhu cầu đầu tư cũng mở rộng. Bằng cách nới lỏng kiểm soát đầu tư ra ngoài lục địa, chính phủ hy vọng sẽ điều hòa được lượng tiền khổng lồ đổ vào thông qua đầu tư công nghiệp của nước ngoài và thặng dư mậu dịch”.
SAFE còn lưu ý chính sách mới chỉ có tính thử nghiệm, nhưng không nói rõ chính sách đó sẽ bắt đầu khi nào và kéo dài bao lâu. Việc này sẽ giúp nhà nước dễ dàng hủy bỏ chính sách mới một khi cảm thấy không thành công.
Những chính sách trước đây cho phép cá nhân chuyển khoản tối đa 50.000 USD trong một ngày đến Hồng Công. Nhưng việc chuyển khoản đến các công ty chứng khoán ở Hồng Công bị nghiêm cấm và những giao dịch chuyển khoản trong ngày sẽ bị soi rất kỹ nếu gần hoặc chạm giá trị tối đa.
Trung Quốc vẫn còn nhiều điều luật ngăn cản sự chuyển động của tiền tệ ra hoặc vào lục địa trừ các khoản thu chi đi kèm với hoạt động xuất nhập khẩu. Trái với Hồng Công, nơi cho phép tiền vào ra thị trường tài chính một cách tự do, trừ những kiểm soát phải có đối với hoạt động rửa tiền và các hoạt động tội phạm khác.
Ngay sau khi tin tức về chính sách mới này được công bố, TTCK tại Hồng Kông và Thượng Hải cùng tăng cao, hòa nhịp vào sự gia tăng trở lại của khu vực châu Á sau khi tin tức về việc cắt giảm lãi suất cho vay của Fed (Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ) hôm 17-8-2007 được loan truyền.
Chỉ số Hang Seng ở Hồng Kông tăng 5,93%, là mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm, trong khi chỉ số Hang Seng China Enterprises, tăng 8,74%. Cổ phiếu loại A ở Thượng Hải tăng 5,34%. Tuy nhiên, David Webb, một chuyên gia công nghiệp của chính phủ kiêm giám đốc phi điều hành của TTGDCK Hồng Kông, nói rằng “chính sách mới có thể không tốt cho TTCK ở Hồng Kông và Thượng Hải trong tương lai”.
Với sự gia tăng quá nhanh tại TTCK Thượng Hải trong 2 năm qua, các cổ phiếu cơ bản của các công ty ở lục địa được bán ra ở Thượng Hải nhiều hơn Hồng Kông và một số nhà đầu tư ở lục địa có thể chọn mua cổ phiếu ít đắt hơn ở Hồng Kông. “Nếu điều này khiến TTCK Thượng Hải rớt giá, TTCK Hồng Kông cũng sẽ rớt theo vì ăn theo sự định giá cao ở Thượng Hải” -Webb cảnh báo.
Cũng liên quan đến thị trường tài chính, ngày 21-8-2007, ngân hàng trung ương Trung Quốc tuyên bố tăng lãi suất ký gửi ở ngân hàng (trong 1 năm) lên 27 điểm cơ bản, đạt 3,60%, trong khi tăng lãi suất cho vay lên 18 điểm cơ bản, đạt 7,02%. Những sự thay đổi này được áp dụng kể từ 22-8-2007.
Đây là đợt tăng lãi suất lần thứ 4 của ngân hàng trung ương Trung Quốc kể từ đầu năm đến nay và là lần thứ 2 lãi suất tiển gửi tăng nhiều hơn lãi suất tiền vay, nhằm khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
§ Trung Quốc thắt chặt kiểm soát hoạt động luân chuyển vốn năm 2008. Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) tuyên bố cơ quan hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc này sẽ thắt chặt kiểm soát việc phê chuẩn các dự án đầu tư nước ngoài, bao gồm tất cả các hình thức sở hữu doanh nghiệp, tái đầu tư, mua bán và sáp nhập.
Biện pháp này được công bố chỉ hai tuần sau khi Tổng cục ngoại hối quốc gia (SAFE) đẩy mạnh nỗ lực kiểm soát luồng tiền "nóng" đổ vào nước này.
Việc kiểm soát chặt chẽ hơn của NDRC đối với thủ tục phê chuẩn FDI là nhằm xử lý các lỗ hổng trong tài khoản vốn nhằm giảm luồng tiền nghi vấn. NDRC cũng sẽ tước quyền phê chuẩn của các chi nhánh địa phương nhằm tránh xung đột giữa các biện pháp thắt chặt mà các chi nhánh này áp đặt với các biện pháp khuyến khích nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của chính quyền địa phương.
Để thực hiện thắt chặt kiểm soát luân chuyển vốn, NDRC sẽ xem xét chặt chẽ hơn tính thực chất của các dự án đầu tư nước ngoài và việc ngăn chặn dòng chảy của nguồn vốn không dựa trên đầu tư thực sự. Khi cần thiết, NDRC sẽ thuê các cơ sở tham vấn để đánh giá về dự án đầu tư nhằm đảm bảo rằng việc đầu tư này là không có nghi vấn.
Bất cứ dự án nào mà tổng đầu tư vượt 100 triệu USD và nằm trong danh mục ưu tiên đều cần thiết phải có sự phê chuẩn của NDRC. Những dự án mà tiền đầu tư vượt 50 triệu USD và nằm trong danh mục hạn chế đầu tư cũng cần phải có sự thông qua của NDRC.
NDRC cũng sẽ tiêu chuẩn hóa việc quản lý những dự án đầu tư mới. Đơn xin đầu tư phải bao gồm những văn bản phê chuẩn liên quan. Bên cạnh đó, các dự án đang diễn ra có thể bị hủy nếu dòng vốn luân chuyển có dấu hiệu được sử dụng cho dự án khác.
Theo thống kê, trong 5 tháng đầu năm 2008, dòng chảy vốn nước ngoài vào Trung Quốc đạt mức kỷ lục 6 triệu USD/phút và được hấp dẫn bởi mức chênh lệch lãi suất hơn 2% giữa lãi suất ở Trung Quốc và Mỹ, cùng với sự trông đợi rằng đồng nhân dân tệ sẽ tăng giá mạnh so với đồng USD. Việc tăng nguồn tiền nóng ngắn hạn không chỉ thổi bùng lạm phát, mà còn tạo ra khó khăn cho Ngân hàng Trung ương Trung Quốc trong việc ngăn chặn dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài, vì rủi ro đối với hệ thống tài chính là rất cao nếu nguồn tiền này bất ngờ rút khỏi thị trường Trung Quốc.
zKIỂM SOÁT VỐN Ở HÀN QUỐC
* Chính sách kiểm soát vốn của Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998 :
Hàn Quốc là nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng tài chính và đã nhờ sự giúp đỡ của IMF(IMF bắt đóng 14 trong số 30 ngân hàng đầu tư). Nhưng khác với Thái Lan, các nền tảng kinh tế của Hàn Quốc khá vững chắc và không xảy ra hiện tượng bong bóng bất động sản với các khoản đầu cơ ngắn hạn như ở Thái Lan. Hàn Quốc cũng có những khó khăn của riêng mình đó là ở sự thiếu hiệu quả và đầu tư tràn lan sang nhiều ngành nghề khác nhau của các các Tập đoàn công nghiệp tài chính ( chaebol ) dẫn tới tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu không xảy ra khủng hoảng ở Thái Lan và ảnh hưởng lan tràn tới khu vực thì có lẽ Hàn Quốc đã không rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề như vậy. Khi xảy ra khủng hoảng, tại Hàn Quốc thị trường chứng khoán sụt thê thảm, giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11/1997 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính và IMF bắt đóng 14 trong số 30 ngân hàng đầu tư. Chính phủ Hàn Quốc đối phó với khủng hoảng bằng cách để đồng Won xuống giá một nửa (từ 800 won cho một đôla xuống còn 1700 won cho một đôla) và chấp nhận gói viện trợ gần 60 tỷ đôla của IMF.
Chính quyền của Tổng thống Kim Dae Jung lên cầm quyền năm 1998 trong thời điểm khủng hoảng và đã tiến hành các cải cách kinh tế mạnh mẽ hướng tới một nền kinh tế mở, có tính thị trường, cắt bỏ các khoản trợ cấp dưới một hình thức cho các Tập đoàn chaebol. Quan trọng trong các hệ thống chính sách này có thể kể đến việc tái cấu trúc các Tập đoàn này theo hướng lập trung vào những ngành kinh doanh hiệu quả và bán lại các lĩnh vực kinh doanh thiếu hiệu quả cho các Công ty khác cả trong nước và nước ngoài, giải thể các Tập đoàn làm ăn thua lỗ (trong đó có cả Tập đoàn lớn thứ hai Hàn Quốc là Daewoo), đóng cửa các Ngân hàng thiếu hiệu quả. Sự uyển chuyển trong việc phối hợp hành động với các tổ chức quốc tế đồng thời khuyến khích nhân dân cùng chịu đựng khó khăn như các thỏa thuận với công đoàn cho phép giới chủ thải hồi bớt lao động… cũng góp phần đưa nước này nhanh chóng hồi phục.
Hai năm sau khi khủng hoảng xảy ra, Tổng thống Kim Dae-Jung tuyên bố khủng hoảng đã kết thúc vào tháng 12/1999. Tăng trưởng kinh tế đạt 10% năm 1999 và 9% năm 2000 và ở mức ổn định đáng kể 5 - 6% trong thời gian gần đây. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc đã tăng gấp ba lần so với thời điểm năm 1997. àTrong vài chục năm trước đây, khủng hoảng tài chính thường ở dưới hình thức khủng hoảng hệ thống Ngân hàng . Tuy nhiên, kể từ khi hệ thống tỉ giá hối đoái cố định giữa các nước phát triển theo hiệp ước Bretton-Wood không còn được áp dụng thì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra dưới hình thức khủng hoảng tiền tệ , trong đó có sự suy giảm nghiêm trọng giá trị đồng nội tệ, ví dụ Mexico 1994, Đông và Đông Nam Á 1997-1998. Cách thức các quốc gia đối phó với khủng hoảng và suy thoái không phải lúc nào cũng như nhau, và với cùng một tập hợp biện pháp, hiệu quả có thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
*Chính sách kiểm soát vốn của Hàn Quốc trong thời gian gần đây :
Do Hàn Quốc sốt đôla trầm trọng nhất kể từ khủng hoảng 1997 do các ngân hàng và các công ty tăng cường gom đồng bạc xanh vì lo ngại về cuộc khủng hoảng tài chính sau khi ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ. Nên Bộ Tài chính Hàn Quốc mới đây thông báo sẽ bơm vào thị trường 10 tỷ USD để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng và làm giảm tình trạng tín dụng căng thẳng. Và cung cấp thêm 5 tỷ USD cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa, để ổn định tỷ giá đồng won, do đồng nội tệ đang bị mất giá mạnh nhất, (đã mất giá 26% kể từ cuối năm 2007 kể từ cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đến nay.
Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc Kang Man-soo vừa kêu gọi các ngân hàng bán bớt tài sản ở nước ngoài, để ngăn chặn tình trạng thiếu thanh khoản trong nước. Ông cũng đề nghị các nhà băng chuyển ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài về nước để tăng lượng dự trữ ngoại hối.
"Gần đây các ngân hàng của chúng tôi bắt đầu có khó khăn về ngoại hối", ông Kang nói. Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc cho biết thêm, chính phủ nước này đang chuẩn bị cho tình hình huống xấu nhất.
Chủ tịch Ủy ban dịch vụ tài chính Hàn Quốc (FSC) - ông Jun Kwang-woo, cũng vừa phải kêu gọi các ngân hàng tạm hoãn thu hồi vốn từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp khó khăn về tài chính.
Theo Ngân hàng trung ương Hàn Quốc, dự trữ ngoại hối của nước này vào thời điểm cuối tháng 9 /2007 là 239,7 tỷ USD, giảm 3,5 tỷ USD so với trước đó một tháng. Dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc sụt giảm chủ yếu do cơ quan quản lý phải tung đôla ra để hỗ trợ đồng nội tệ đang yếu đi trông thấy và để giảm áp lực lạm phát.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những tranh luận về quan điểm kiểm soát vốn.doc