MỤC LỤC
Lời tựa. 2
Chương I: Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán việt nam2
1.Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. 3
2.Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán. 4
2.1Bản chất của thị trường chứng khoán. 4
2.2Chức năng của thị trường chứng khoán. 4
3.Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. 5
3.1.Nhà phát hành. 5
3.2.Nhà đầu tư. 5
3.3.Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán. 5
4.Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 6
4.1.Nguyên tắc công khai6
4.2.Nguyên tắc trung gian. 7
5.Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán. 7
5.1.Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 8
Thị trường sơ cấp. 8
Thị trường thứ cấp. 8
5.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC)8
5.3.Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường, thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. 9
6.Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán. 10
6.1.Khái niệm và sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán10
6.2.Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán. 10
Chương 2: tình hình thực trạng của thị trường chứng khoán, nguyên nhân những yếu kém khuyết điểm12
1.1.Phỏc họa một bức tranh toàn cảnh!12
1.2.Tăng trưởng về số lượng và quy mô của các Cty CK14
1.3.Nâng cao chất lượng hoạt động. 15
1.4.Năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu khởi sắc:22
1.5.Đến năm nay thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng và rơi vào tỡnh trạng ảm đạm:23
2.1.Những nhà đầu tư chưa có kiến thức về thị trường chứng khoán:23
2.2.Do chớnh sỏch kinh tế vĩ mụ:23
2.3.Những công ty chưa có báo cáo trung thực:23
2.4.Tỡnh trạng đầu cơ cổ phiếu diễn ra mạnh:24
2.5.Nguyên nhân thị trường chưa là kênh huy động vốn:24
Chương III Phát triển thị trường chứng khoán. 25
1.Kinh tế vĩ mô. 25
1.1.Chính trị25
1.2.Uỷ ban chứng khoán. 26
2.Các công ty chứng khoán. 26
3.Tâm lý và kiến thức của nhà đầu tư. 28
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5164 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI TỰA
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường mới, không chỉ mới với lịch sử chứng khoán thế giới( gần 400 năm) mà còn mới với người dân Việt Nam. Vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau: có ý kiến cho rằng đây là canh bạc lớn là trò chơi mạo hiểm nhưng theo các chuyên gia chứng khoán đây là một trò chơi trí tụê và phải đầu tư rất nhiều thời gian và thị trường này rất có tiêm năng ở Việt Nam, nhưng để phát triển nó ở Việt Nam là một vấn đề rất khó khăn. Đây cũng là bài toán đựơc đặt ra với rất nhiều chuyên gia.
Đề tài này cũng không nằm ngoài câu hỏi trên.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoáng ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Giữa thế kỷ XV ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hoá....lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành thị trường với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy ước có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”.
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ gọi là “Sở giao dịch”.
Giữa thế kỷ XVI một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và thiết lập một mậu dịch thị trường tại London( Anh), nơi mà sau này được gọi là Sở Giao Dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức, và Bắc Âu.
Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Băc Âu, các nước Tây Âu khác và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diến ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921, ở Mỹ khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập.
Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoảng trên 160 sở giao dịch chứng khoán phân tán trên khắp các châu lục, bao gồm cả các nước phát triển trong khu vự Đông Nam á vào những năm 1960-1970 và những nước như Ba Lan, Hungary, Sec, Nga, Trung Quốc vào những năm 1990...
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới cho thấy giai đoạn đầu thị trường phát triển một cách tự phát với sự tham gia của các công chúng đầu tư. Khi phát truển đến một mức độ nhất định thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan quản lý nhà nước và hònh thành hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường.
Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán
Bản chất của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn.
- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm.
- Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động cỉa tư bản tiền tệ.
Có thể nói thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
Chức năng của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho ngành kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội.
Cung cấp môi trường cho nhà đầu tư
Thị trường chưng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú.
Tạo tính thanh toán cho các chứng khoán
Khả năng thanh khoản( khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng quát và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện.
Tạo môi trường giúp cho chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứngkhoán có thể được chia thành 3 nhóm sau:
Nhà phát hành
Nhà đầu tư
Các tổ chức có liên quan đến chứng khoán
Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia làm 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý nhà nước:
Đầu tiên thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý.Để bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định của thị trường chứng khoán, nên cần có sự quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý giám sát thị trường chứng khoán ra đời.
Sở giao dich chứng khoán:
Sở giao dịch thị trường chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ hoạt động trên cơ sở giao dich.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán:
Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán:
Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức tài trợ chứng khoán:
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay tiền để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng.
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm:
Là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin liên quan. Việc công bố thông tin về thị trường chứng khoán phải thoả mãn các yêu cầu:
Chính xác
Kịp thời
Dễ tiếp cận
Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung là các công ty chứng khoán.
Nguyên tắc đấu giá:
Mọi việc mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá.
Đấu giá trực tiếp
Đấu giá gián tiếp
Đấu giá tự động
Đấu giá định kỳ
Đấu giá liên tục
Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm).
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp
Thị trướng sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành..
A. Vai trò của thị trường sơ cấp:
Vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán.
Trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư.
B. Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành.
Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc, ngân hàng nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành...
Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán.
Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành
Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành
Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do.
Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC)
Trong thị trường đấu giá, các nhà tạo thị trường đưa ra giá đặt mua và giá chào bán loại chứng khoán được ấn định của họ.
Trong thị trường đấu lệnh, lệnh của các nhà đầu tư được ghép với nhau không có sự tham gia của các nhà tạo thị trường.
Hình thức sở hữu:
Lịch sử phát triển sở giao dịch chứng khoán các nước đã và đang trải qua các hình thức sở hữu sau đây:
Là một tổ chức do các thành viên ( là công ty chứng khoán) sở hữu.
Là một công ty cổ phần do các công ty thành viên, ngân hàng và cả các tổ chức không phải thành viên sở hữu.
Là một tổ chức do chính phủ sở hữu.
Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường, thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch mua và bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phát sinh:
Bên cạnh các giao dịch truyền thống về cổ phiếu và trái phiếu, các giao dịch mua bán chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện. gốc chứng khoán, hay chứng khoán phát sinh.
Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Khái niệm và sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Điều hành thị trường chứng khoán là hoạt động được tiến hành nhằm duy trì sự vận hành bình thường của thị trường, hoạt động này thường được tiến hành bởi các chủ thể có quyền lực nhất định
Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Tại mỗi nước, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường chứng khoán gồm 2 nhóm: Các cơ quan quản lý của chính phủ và các tổ chức tự quản.
Các cơ quan quản lý của chính phủ.
Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán.
Các tổ chức tự quản
Các tổ chức tự quản là các tổ chức hình thành cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện quản lý và giám sát thị trường trên cơ sở tuân thủ các quy định của các tổ chức quản lý và giám sát thị trường của chính phủ.
Một tổ chức tự quản hoạt động dựa trên 2 nguyên tắc:
Các quyết định điều hành đưa ra phải đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh thực tế, hoạt động giám sát thị trường phải có hiệu quả.
Chi phí điều hành, giám sát thị trường phải thu được từ các hoạt động trên thị trường chứ không phải do ngân sách cấp.
Các tổ chức tự quản gồm có: sở giao dịch và hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Sở giao dịch là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán thực hiện trên sở. Sở giao dịch thực hiện một số chức năng sau:
Điều hành các hoạt động giao dịch
Giám sát, theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và các khách hàng của họ.
Hoạt động điều hành và giám sát của sở giao dịch
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh chứng khoán và đảm bảo các lợi ích chung của thị trường chứng khoán.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, NGUYÊN NHÂN NHỮNG YẾU KÉM KHUYẾT ĐIỂM
Tỡnh hỡnh thị trường chứng khoỏn Việt Nam
Phỏc họa một bức tranh toàn cảnh!
Đến nay đó cú 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đó cú tổng cộng 73 loại chửng khoỏn với tổng mức vốn húa khoảng 6.6oo tỷ đồng, gần l,6% GDP.
Tính đến 30/6/2003 đó cú 570 phiờn giao dịch được tố chức với tổng trị giá giao dịch đạt gần 3.700 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%, Có 12 Công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chửng khoán, có 7 tố chức kiểm toán độc lập được UBCKNN chấp thuận trong đó có 01 đơn vị nước ngoài, có 5 ngân hàng lưu ký, 3 trong nước và 02 nước ngoài, và có 01 ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việc Nam.
Hơn 14.000 tài khoan giao dịch được mở tại các Công ty chửng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư tổ chức, chiếm 0,6%, và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường này đó hỡnh thành tương đối đầy đủ.
Diễn biến chính của giá cổ phiếu và chỉ số Vn-lndex trong ba năm qua được thể hiện qua đồ thị sau:
Trong thời gian đầu, các nhà đầu tư cũn đang mong chờ có nhưng điều kỳ diệu xảy ra như những gỡ họ dó được học, được biết đến. Tâm lý này làm cho số lượng nhà đầu tư rất cao và nhu cầu mua cổ phiếu rất lớn, chỉ số Vn-lndex tăng mạnh từ 150 điểm tới 260 điểm, giá các loại cố phiếu như HAP, REE, TMS, SAM tăng liên tục trong nhiều tháng liền, giá cố phiếu HAP đó từng lờn đến mức khoảng 150.000đ/cổ phiếu.
Tuy nhiên, thời gian này, lượng cố phiếu bán ra thị trường lại rất ít cho có 2 loại, sau đó là 4 loại. Giá cổ phiếu tăng và vượt quá xa giá trị thực của nó. Hiện tượng "bong bóng tài chính" đó xuất hiện. Vỡ vậy để bảo vệ các nhà đầu tư, UBCKNN đó dưa ra một loạt các biện pháp, trong đó đáng kế nhất là tăng cung chứng khoán, giảm biên độ giao dịch, quy định khối lượng giao dịch tối đa cho một loại chứng khoán...
Như một đứa bé bị uống thuốc quá liều lượng, những tác động đó đó làm cho giỏ cổ phiếu giảm dần, sau đó giảm mạnh. UBCKNN và nhiều bộ, ngành có liên quan đó đưa ngay ra nhiều biện pháp, chính sách ưu đói nhưng kể từ đó, thị trường không thể hồi sinh. Giá cổ phiếu đó giam xuống mức thấp nhất vào giữa năm 2003 chỉ số VN- lndex dao động dưới mức 150.
Chưa thực sự là một kênh huy động vốn TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ rất chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Đến ngày 30/6/2003 nếu tính cả vốn huy động ngân sách Nhà nước thông qua dấu thầu và bảo lónh phỏt hành, đó cú 5.400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển niêm yết trên thị trường. Có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cố phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng.
Như vậy, thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Tăng trưởng về số lượng và quy mô của các CtyCK
Tính đến 30/8/2007, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đó cấp phộp hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lónh phỏt hành chứng khoỏn.
Mặc dù số lượng CtyCK đi vào hoạt động từ năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 của nhiều CtyCK vẫn khá tốt, điển hỡnh là cỏc CtyCK đó cú thời gian hoạt động lâu như CtyCK Sài Gũn (SSI) - lợi nhuận sau thuế đạt 668,5 tỷ đồng, CtyCK ACB (ACBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 141 tỷ đồng, CtyCK Bảo Việt (BVSC) - lợi nhuận sau thuế đạt 156,8 tỷ đồng... và một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng không chịu lép vế trước các CtyCK đàn anh như: CtyCK Ngân hàng Sài Gũn Thương tín (SBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 125,2 tỷ đồng, CtyCK Đại Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 39,4 tỷ đồng, CtyCK Quốc Tế Việt Nam - lợi nhuận sau thuế đạt 23,7 tỷ đồng.
Trong quỏ trỡnh hoạt động, các CtyCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phũng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phũng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CtyCK đó thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trong 6 tháng đầu năm 2007, 4 CtyCK gồm Sao Việt (tăng từ 20 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng), CtyCK An Bỡnh – ABS (tăng từ 50 tỷ đồng lên 330 tỷ đồng), CtyCK Hà Thành (tăng từ 18 tỷ đồng lên 60 tỷ đồng), CtyCK Kim Long (tăng từ 18 tỷ đồng lên 315 tỷ đồng).
Nâng cao chất lượng hoạt động
- Về hoạt động môi giới
Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những CtyCK đó cú bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như: VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường; BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; CtyCK Sài Gũn (SSI) cú 26.746 tài khoản, chiếm 10,48%; CtyCK Ngõn hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Bên cạnh đó, một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng đó thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần, ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần, CtyCK Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2.04% thị phần...
Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các CtyCK đạt 25.196 tỷ đồng. Những CtyCK có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số là những công ty đó cú nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản (xem bảng dưới đây).
Cụng ty chứng khoỏn
Doanh số giao dịch thỏng 6/2007
Thị phần giao dịch thỏng 6/2007
VCBS
6.362,5
25,25%
ACBS
3.361
13,34%
SSI
3.253
12,91%
BVSC
2.182
8,66%
BSC
1.313
5,21%
Đơn vị: tỷ đồng
-Về hoạt động tự doanh
Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CtyCK đó hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao.
Đối với khối CtyCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vỡ cụng ty chưa triển khai hoạt động thỡ đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CtyCK). Một số công ty đó đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: cty ck ngân hag sacombak (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CtyCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoỏn tự doanh đạt 458 tỷ đồng).
-Hoạt động bảo lónh phỏt hành, đại lý phát hành
Hoạt động bảo lónh phỏt hành của cỏc CtyCK 6 thỏng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lónh phỏt hành cỏc loại trỏi phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây).
Cụng ty
Khối lượng bảo lónh
Giỏ bảo lónh (đồng)
Vốn chủ sở hữu của CtyCK (tỷ đồng)
Hỡnh thức bảo lónh
Số hợp đồng bảo lónh
Giỏ trị bảo lónh (triệu đồng)
BVSC
5.314
33.500
150
Chắc chắn
1
178
ACBS
880.000
67.000
250
Chắc chắn
1
58.960
Cty CK
Thăng Long
108.758
451.000
120
Chắc chắn
2
49.050
Như vậy, các CtyCK đó thực hiện 4 hợp đồng bảo lónh phỏt hành với hỡnh thức bảo lónh cam kết chắc chắn. Cỏc hợp đồng bảo lónh núi trờn đó thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đó được bảo lónh khụng vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lónh phỏt hành và cỏc cụng ty chưa chú trọng đầu tư tỡm kiếm khỏch hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trỡnh chuẩn để triển khai nghiệp vụ này.
-Hoạt động tư vấn
Tư vấn đầu tư chứng khoán. Mảng hoạt động này nhỡn chung đó bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CtyCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CtyCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CtyCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CtyCK An Bỡnh hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng).
Tư vấn niờm yết
Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CtyCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Những CtyCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CtyCK Sài Gũn (30 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á.
Tư vấn khác
Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng).
Nhỡn chung, hoạt động tư vấn đó cú những phỏt triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CtyCK đó chỳ trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đó hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đó triển khai hoạt động này khá tốt.
-Những thách thức đối với các CtyCK
Với kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 khá vượt trội của nhiều CtyCK trong bối cảnh thị trường rơi vào xu thế trầm lắng, kéo dài sang các tháng của quý III/2007, đó phần nào phản ảnh rừ nột những bước đi vững chắc của các khối CtyCK. Sự ra đời của hàng loạt các CtyCK đó gúp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng, đồng thời tạo ra áp lực cạnh tranh buộc các CtyCK phải tự hoàn thiện mỡnh, nõng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
Mặc dù vậy, do hiện nay tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư chứng khoán vẫn cũn rất nhỏ, nờn việc số lượng các CtyCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đó dẫn đến một số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính và kinh nghiệm cũn hạn chế, vỡ mục tiờu lợi nhuận của mỡnh một số CtyCK đó sử dụng những biện phỏp cạnh tranh khụng lành mạnh, gõy ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý lo ngại cho cỏc nhà đầu tư. Trên thực tế, hiện nay với số lượng trên 60 CtyCK được cấp phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000 khách hàng (là các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân, trong khi đó các CtyCK lớn và hoạt động lâu năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đó thõu túm khoảng 85% lượng khách hàng, những CtyCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật chia nhau 15% thị phần cũn lại (chưa kể số CtyCK mới đang nộp hồ sơ chờ cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CtyCK đó phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị, thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động trong thời gian gần đây số lượng khách hàng đến đầu tư không đáng kể, khiến nhiều CtyCK bị thâm hụt vốn sở hữu.
Để hút khách trên thị trường, nhiều công ty đó mở rộng dịch vụ repo và hạ phớ... Tuy nhiờn, núng bỏng hơn cả là cuộc đua hạ phí. Theo quy định, phí giao dịch thu từ các nhà đầu tư là 0,5% trên giá trị giao dịch. Nhưng hiện nay đó bị một số CtyCK hạ đến mức thấp nhất, thậm chí có CtyCK không thu phí trong 3 tháng đầu hoạt động. Đặc biệt, nhiều CtyCK mới thành lập đó sử dụng chiờu khuyến mại bằng cỏch tặng tiền cho khỏch hàng mở tài khoản giao dịch tại cụng ty và trừ dần vào phớ giao dịch. Trờn thực tế trong thời gian gần đây, thông tin về việc giảm, miễn phí giao dịch của các CtyCK liên tục được công bố trên thị trường. Trong đó, tất cả các CtyCK lớn nhỏ lần lượt vào cuộc, dù đây là nguồn thu đáng kể, nhất là với những thành viên mới hoạt động. Cuộc cạnh tranh phí giao dịch được giới chuyên môn nhận định là đang ở hồi căng thẳng. Đỉnh điểm của cuộc đua giảm phí giao dịch giữa các CtyCK tập trung từ đầu tháng 9 này, nhân dịp kỷ niệm ngày Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9. Mức giảm phổ biến từ 1/2 phí giao dịch hiện hành; một số miễn phí 100%. Với CtyCK, đây là một hỡnh thức khuyến mói, kộo nhà đầu tư đến sàn giao dịch... Nhưng với nhiều công ty nhỏ, mới tham gia thị trường, kinh doanh đang lỗ thỡ việc giảm phớ sẽ là một gỏnh nặng lớn.
Ngoài việc khó khăn về chiếm lĩnh thị phần, sự thiếu hụt nguồn nhân lực cũng đặt các CtyCK vào những tỡnh thế khú khăn. Tính đến thời điểm 30/6/2007, số nhân viên được UBCKNN cấp Chứng chỉ hành nghề chứng khoán đạt khoảng 650 người. Tuy nhiên, do có nhiều CtyCK được cấp phép trong những tháng cuối năm 2006 và có khoảng trên 80 Hồ sơ đề nghị thành lập CtyCK đó được gửi UBCKNN nên số người hành nghề chứng khoán đó được cấp Chứng chỉ hành nghề chứng khoán tại các công ty lại càng thiếu hụt. Mặt khác, do Quy chế hành nghề chứng khoán chưa chính thức ban hành nên tại một số công ty, một số người hành nghề đó cú Hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề nhưng chưa được cấp. Bên cạnh đó, một số công ty có số người hành nghề tương đối ít so với yêu cầu tối thiểu theo quy định, giữa các CtyCK có xu hướng dịch chuyển, thu hút, lôi kéo nhân viên hành nghề...
Việc buôn bán và các doah nghiệp trên thị trường chứng khoán :
Việc buôn bán cổ phiếu ở Việt Nam đó diễn ra sụi động kể từ sau khi các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhưng thị trường chứng khoán (TTCK) nước ta mới chính thức hoạt động từ năm 2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28-7-2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỉ đồng và 6 công ty chứng khoán thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị trường mới chỉ tăng lên 0,5 tỉ USD. Vài năm gần đây mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đó tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm 38% GDP), tăng hơn 1400 lần so với năm 2000, và nếu tính cả trái phiếu thỡ đạt mức 46% GDP.
Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể. Tính đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đó đổ vào khoảng 4 tỉ USD. Theo dự tính, quy mô của thị trường cũn tiếp tục được mở rộng do các doanh nghiệp nhà nước đó cổ phần hoỏ sẽ tiếp tục niờm yết vào năm 2007-2008 trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với số vốn lên tới hàng ngàn tỉ đồng.
Chỉ số VN-Index cũng đó chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường. Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28-7- 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thỡ thỏng 3 - 2007, chỉ số này đó đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau một vài tháng giảm sút, hiện nay VN-Index đang dao động xung quanh ngưỡng 1.000 điểm (đến giữa tháng 5-2007 đó lờn 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức cũng tăng lên đáng kể, hiện có 35 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó 23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước. Ngoài ra, cũn cú gần 50 tổ chức đầu tư theo hỡnh thức uỷ thỏc qua cụng ty chứng khoỏn.
Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đó tạo khung phỏp lý cao cho TTCK phỏt triển gúp phần thỳc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam.
Những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, cụng khai và minh bạch, giỏm sỏt và kiểm tra của cỏc cơ quan chức năng quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện. Đáng chú ý là Chớnh phủ đó chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát TTCK ở nước ta, do đó thị trường này vẫn đang ổn định và phát triển khá mạnh.
Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK nước ta trong thời gian qua là:
- Cùng với sự phát triển của các nhà đầu tư là doanh nghiệp (bảo đảm về năng lực tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán...) thỡ sự phỏt triển của cỏc nhà đầu tư cá nhân rất đông (chiếm hơn 60% số nhà đầu tư) và nhà đầu tư nước ngoài cũng quan tâm đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân). Theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế thỡ ước tính vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện đó lờn đến 4 tỉ USD và cũn tiếp tục tăng thêm trong thời gian tới. Các nhà đầu tư nước ngoài (hiện có khoảng 1.700) chủ yếu đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu đó niờm yết (khoảng 68% cổ phiếu và 32% trỏi phiếu), trong đó các nhà đầu tư nhỏ lẻ đó nắm giữ tới 1tỉ USD.
- Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tỡnh trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tỡnh trạng “núng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật và cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn lời” thậm chí tới 10 hoặc hơn 10 lời. Tỡnh hỡnh sụi động của TTCK thời gian qua phản ánh hiện tượng kinh tế tốt lành là: (1) nền kinh tế Việt Nam đó và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng; (2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn cũn điều kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các công ty chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn đề cần phải quan tâm: (1) việc các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện thao túng, dễ gây rủi ro cho TTCK trong nước; (2) cũng đó tỏc động khá mạnh đến thị trường bất động sản, đẩy giá nhà, đất lên cao.
Năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu khởi sắc:
Tháng 11 năm 2005,khi VN Index vượt ngưỡng 300 điểm, giới phân tích cảnh báo về sự hỡnh thành của một bong búng, tuy nhiờn thị trường vẫn chưa có dấu hiệu chậm lại khi tiếp tục vượt ngưỡng 500 điểm. Số tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán tăng gấp đôi sau 3 tháng chứng tỏ số người tham gia vào chứng khoán lần đầu đang tăng mạnh. Sự bùng nổ của cầu đó khụng được đáp ứng bởi mức tăng tương đương của cung. Trong quý 1 chỉ cú thờm 3 cụng ty niờm yết trờn sàn TP HCM, sự bất cõn bằng cung cầu là nguyờn nhõn gõy ra tỡnh hỡnh sốt núng hiện nay.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy trẻ, nhưng trong 5 năm qua đó trải qua nhiều thăng trầm. Sau sự bùng nổ khi thị trường mở cửa năm 2001 (chỉ số VN index đạt 570 điểm sau 6 tháng), chỉ số chứng khoán rơi xuống điểm xuất phát và đạt mức thấp nhất là 130 điểm vào năm 2003. Chu kỳ mới đang hỡnh thành và chỉ số VN Index đang tăng tốc về phía đỉnh cao nhưng liệu xu thế này có thể tiếp tục được bao lâu và liệu thị trường sẽ ra sao sau khi được điều chỉnh?
Có thể nói sự khởi sắc của thị trường chứng khoán có nền tảng kinh tế vững chắc và phù hợp với tỡnh hỡnh phỏt triển của kinh tế Việt Nam.
Đến năm nay thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng và rơi vào tỡnh trạng ảm đạm:
Với những tháng của quý đầu năm 2008 chi số Vn Index sụt giảm mạnh và lần lượt trọc thủng đáy.Các nhà đầu tư hoang mang tháo chạy khỏi thị trường chứng khoán nhưng cũng không được ví cổ phiếu không thể bán được.Nhà nước phải dùng dủ mọi cách như giảm biên đô giao dịch hay các công ty chứng khoán họp quyết định không được bán tháo cổ phiếu nhưng tất cả đều là giải pháp trước mắt chỉ số Vn Index hiện nay vẫ giảm
Nguyờn nhõn những yếu kộm khuyết điểm dấn đến thị trường chứng khoỏn Việt Nam sụt giảm:
Những nhà đầu tư chưa có kiến thức về thị trường chứng khoán:
Các nhà đầu tư chưa có kiến thức về thị trương chứng khoán vỡ vậy khi đầu tư họ luôn theo tâm lý bầy đàn làm cho thị trường thành thị trường bong bong như năm 2007 khi chi số Vn Index vượt ngưỡng 800 điểm các nhà phân tích dó cho rằng thị trường đó lờn mức giỏ ảo,nhưng thị trường cũn tiếp tục lờn dến tận ngưỡng trên 1000 điểm. Điều này giải thích vỡ sao đến năm 2008 chứng khoán giảm mạnh.
Do chớnh sỏch kinh tế vĩ mụ:
Với chớnh sỏch kinh tế vĩ mụ khụng hợp ý của nước ta đó là sự lạm phat trầm trọng trong 3 tháng đầu năm 9.6 % làm cho nhà nước phải điều chỉnh lại chính sách tiền tệ thu hồi tiền về ngân hang nhà nước tăng lói suất gửi ngõn hang hạn chếchi tiờu vỡ vậy tiền để đầu tư chứng khoán giảm làm thị trường vhuwngs khoán sẽ giảm mạnh.
Những công ty chưa có báo cáo trung thực:
Cỏc cụng ty khụng bỏo cỏo ttrung thực về tỡnh hỡnh cụng ty vỡ thế cỏc nhà đầu tư có những quyết đinh sai lầm đến lúc vỡ lẽ ra chỉ người đầu tư là bị thiệt,
Tỡnh trạng đầu cơ cổ phiếu diễn ra mạnh:
Tỡnh trạng đầu cơ cổ phiếu diễn ra mạnh làm cho cổ phiếu không đúng mức giá của nó và tất cả sự lên xuống cổ phiếu chỉ do một số ít người chơi quyết định kể cả tỡnh trạng của cụng ty cũng khụng quyết định.
Nguyờn nhân thị trường chưa là kênh huy động vốn:
1. Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng, chẳng hạn, điêu kiện phát hành cũn cao, thủ tục phỏt hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quỏ trỡnh phỏt hành chứng khoỏn...
2. Mặt bằng lói suất từ ngõn hàng hiện nay khoảng l0,8%/năm, lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại khoảng 15% năm, đó là số kỳ vọng quá cao. Do đó, huy động vốn trên thị trường chửng khoán là "khá đắt" và khó thực hiện.
3. Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn, các doanh nghiệp phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hoá tài chính, phương án kinh doanh... hơn nữa, nhiêu doanh nghiệp không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên không mặn mà với hỡnh thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
4. Thị trường thứ cấp hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lũng tin của cụng chỳng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà đầu tư trên TTCK không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hũa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trỡ hoón khụng cụng bố thụng tin về tỡnh hỡnh hoạt động kinh doanh trong năm 2002...
Tóm lại qua thực trạng của thị trường Việt Nam chúng ta có thể thấy trong giai đoạn hiện nay thị trường đang suy giảm mạnh nhưng thị trường Việt Nam vấn là một thị trường tiềm năng và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây do nhừng nguyên nhân dẫn đến thị trường sụt giảm không phải những nguyên nhân không khắc phục được.
CHƯƠNG III PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Kinh tế vĩ mô
Chính trị
Không nên sửa đổi chính sách kinh tế, chính sách thuế, chi tiêu ngân sách, quốc phòng các kế hoạch xây dựng lớn một cách đột ngột mà cần có thời gian.
Trong giai đoạn hiện nay pháp luật cần phải thắt chặt, trên thị trường chứng khoáng chống hiệ tượng lũng đoạn và đầu cơ thị trường làm thị trường trở thành thị trường bong bóng như năm 2007. Khi chỉ số Index vượt ngưỡng 1000 điểm. Cần có luật để bảo vệ người đầu tư tốt hơn để nhà đầu tư không bị thua thiệt trong giao dịch.
Chính sách tiền tệ tín dụng của ngân hàng cần phát triển ổn định và bền vững, ngoài những biện pháp đã đưa ra như: điều chỉnh dự trữ bắt buộc tăng thêm 1%, lãi xuất ngân hàng chủ điịnh không để lãi suất âm. Việc phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước dưới hình thức bắt buộc, các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất huy động vốn Việt Nam đồng đã đem lại hiệu quả cao song để thị trường tiền tệ phát triển ổn định và bền vững đòi hỏi các nhà hoặch định CSTT, tiếp tục chủ động linh hoạt trong điều hành để hạn chế biến động đột biến xảy ra.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới giá xăng dầu, sắt thép... đều tăng sẽ kéo theo giá các mặt hàng đó trong nước cũng tăng theo: thực tế ngày 25-2-2008 giá xăng dầu trong nước đồng loạt tăng. Việc kiềm chế lạm phát cũng là một chính sách kinh tế vĩ mô, mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng kiềm chế lạm phát sẽ ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nhưng về lâu dài việc kiềm chế lạm phát vẫn là yếu tố chủ yếu.
Uỷ ban chứng khoán
Trong giai đoạn hiện nay thị trường chứng khoán đang sụt giảm cần giãn thời gian(IPO) của các doanh nghiệp lớn và phát hành thêm cổ phiếu của các công ty cổ phần để các công ty có thể thu được nguồn vốn bên ngoài tốt nhất cũng như đợt phát hành thành công.
Tạm lùi thời hạn thu thuế chuyển nhượng chứng khoán các nhà đầu tư trong thời gian này đang có xu thế tháo chạy mà thu tiếp thuế sẽ gây tâm lý bất bình trong họ
Mua ngoại tệ để bơm thêm tiền cho thị trường chứng khoán đó cũng là điều dễ hiểu vì lúc này chính phủ chống lạm phát thị trường chứng khoán đang khan hiếm tiền.
Mua cổ phiếu bằng ngoại tệ cũng có thể là một biện pháp không phải tung tiền Việt ra trong giai đoạn lạm phát cao như hiện nay. Cũng là một trong giải pháp giảm bớt khó khăn khi quy đổi từ ngoại tệ sang Việt Nam đồng trong bối cảnh thị trường chứng khoán giảm mạnh như hiện nay.
Các công ty chứng khoán
Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán thứ cấp hoạt động an toàn, minh bạch và vững chắc, đây là điều quan trọng trong giai đoạn thị trường đang sụt giảm, vì thề các nhà đầu tư muốn có những mặt hàng chứng khoán thật tốt cũng như các công ty cần có nguồn vốn phát triển phù hợp với lòng tin của các nhà đầu tư.
Cần phải tổ chức hiệu qủa hơn các công tác giám sát thị trường
Lựa chọn mô hình giám sát phù hợp
Mô hình giám sát là yếu tố quyết định sự phân bổ các nguồn lực và sắp xếp các nguồn lực cho công tác giám sát thị trường. Khi lựa chọn mô hình giám sát cần tính tới nhu cầu tài chính, nói chung mỗi tổ chức cần chọn cho mình mô hình giám sát phù hợp
Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật về giám sát
Xác định rõ mô hình giám sát
Phân định rõ ràng trách nhiệm, phạm vi và quyền hạn của tổ chức tham gia giám sát.
Xây dựng một bộ các tiêu chí giám sát cụ thể đối với từng loại hoạt động giám sát trên thị trường.
Xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin giám sát hiện đại
Xây dựng hệ thống công nghệ tin học đồng bộ đáp ứng tốt yêu cầu vận hành. Cần phải xây dựng hệ thống càng hiện đại càng tốt để quá trình đặt lệnh của các nhà đầu tư nhanh và chính xác.
Trong giai đoạn hiện nay các công ty chứng khoán không lên mở ra quá nhiều ở Việt Nam, một thị trường còn non trẻ đã có gần 100 công ty mà ở Thái Lan thị trường đã tồn tại lâu hơn chúng ra rất nhiều cũng chỉ có 30 đến 40 công ty, hơn nữa thị trường chứng khoán đang ảm đạm, nhu cầu ít công ty chứng khoán mở ra nhiều dẫn đến tình trạng không có khách hàng các công ty phá sản dẫn đến tiền của lãnh phĩ cũng làm ảnh hưởng tới chính sách chống lạm phát của chúng ta.
Với các công ty
Điều đặt ra lớn nhất với các công ty của Việt Nam đó là tại sao tin tức của các công ty đến với người đầu tư rất chậm còn chưa kể đến hiện tượng dấu thông tin. Đây cũng là điều dễ hiểu của các công ty, trong các báo cáo nếu công khai minh bạch sẽ ảnh hưởng tới bí mật công ty nhưng đây không phải lý do chính đáng vì tất cả các thị trường ở nước ngoài các công ty họ công khai rất minh bạch nhưng họ vẫn phát triển tốt vì vậy đặt ra câu hỏi lớn cần phải nhanh chóng thực hiện những công khai minh bạch của các công ty niêm yết càng sớm báo đến với những nhà đầu tư càng tốt,để các nhà đầu tư không phải là nhứng người gánh chịu hậu qủa những thiếu xót của công ty cũng như từ phía các cơ quan chức năng.
Các nhà đầu tư dài hạn cũng như ngắn hạn mà là nhà đầu tư chuyên nghiệp họ đều phân tích cổ phiếu thoe hai cách phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Điều này cũng cho thầy chỉ số Vn Index và HASTC- Index quan trọng thế nào vậy để đồng bộ nên xác nhập hai chỉ số này, điều này càng cho thấy sự đặc biệt cần phải thay đổi ở thị trường chứng khoán Việt Nam đó là sự xuất hiện của hai Sở giao dịch: Sở giao dịch ở thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và ở Hà Nội (HASTC). Để đồng bộ và dễ dàng cho nhà đầu tư nên sát nhập hai Sở giao dịch thành một không những thế cần phải phát triển thị trường OTC ngày càng lớn mạnh hơn để những nhà đầu tư có thêm một kênh đầu tư mới mang đầy lợi nhuận.
Trong giai đoạn hiện nay do cung và cầu đang mất cân đối cung quá lớn mà sức cầu có hạn, để giảm cung việc giãn tiến độ IPO của một số doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá đã được đặt ra. Xét về tiến độ giảm cung thì giải pháp này là hợp lý nheng xét về tiến độ CPH của các doanh nghiệp NN, việc giãn tiến độ IPO để tìm cân đối với sức cầu thì lộ trình cổ phần hoá đã đặt ra sẽ bị chậm tiến độ. Bởi ai dám chắc rằng việc giãn tiến độ IPO chỉ một lần này kho mà thị trường chứng khoán chưa có dấu hiệu phát triển ổn định trong khi đến năm 2010 phải thực hiện xong tiến trình cổ phân fhoá doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, các cơ quan quản lý nên có cái nhìn sâu hơn, dài hạn hơn, thay vì chỉ những giải pháp trước mắt. Mặt khác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nứơc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng không hẳn là bán được giá càng cao càng tốt để nhà đầu tư rút được nhiều vốn mà mục tiêu lớn nhất của cổ phần hoá đó là tạo ra động lực giúp doanh nghiệp phát triển quản trị tốt kinh doanh có hiệu quả hơn.
Tâm lý và kiến thức của nhà đầu tư
Trước hết, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện vẫn là thị trường theo tâm lý đám đông, khi tâm lý của nhà đầu tư bị chi phối rất lớn bởi những thông tin đồn thổi, bất chấp những kiến thức và những dự báo cần thiết của nhà chuyên môn và quản lý. Khi thị trường chứng khoán răng lên, có rất nhiều nhà đầu tư tham gia mua-bán chứng khoán, nhưng khi thị trường chứng khoán sụt giảm, thì các nhà đầu tư lại tranh nhau bán tống bán tháo cổ phiếu. Vì thế, trong một số thời điểm giá của mọt số chứng khoán đã tăng gấp hàng chục lần so với giá trị thực, và lại chỉ trong một thời gian quá ngắn,chẳng có một cơ sở khoa học nào biện minh cho sự tăng trưởng quá nóng của thị trường ngoài yếu tố tâm lý. Do tăng trưởng không bình thường, tất yếu sẽ dẫn đến thị trường chứng khoán đảo chiều. Sự lo lắng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư ngắn hạn đã bao phủ khắp thịi trường, khiến nhiều người thiếu “bản lĩnh” chưa kịp định thần ở phiên giao dịch này, thị trường phiên tiếp sau đã tụt giảm sâu hơn, dễ vội vàng bán tháo. Đã là thị trường thì có lúc nên, lúc xuống, điều cốt lõi của thị trường chứng khoán cũng là thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản là quan hệ cung- cầu, nhưng xem ra còn không ít nhà đầu tư chưa nhận thức đúng vấn đề này. Vì thế, cho dù hệ thống chính sách phát triển của thị trường dù chưa thực sự hợp lý nhưng các nhân tố khách quan và chủ quan từ phía các nhà đầu tư luôn làm mất cân đối cung-cầu, thì trên thực tế thị trường chứng khoán không thể phát triển lành mạnh được.
Như vậy, các nhà đầu tư phải tự trau dồi cho mình kiến thức về thị trường chứng khoán để không bị thua lỗ về sự kém hiều biết của mình.
Tóm lại, trong điều kiện hiện nay để có một thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh và ổn định rất cần những giải pháp chung và dài hạn. Hạn chế sử lý những giải pháp tức thời bởi những giải pháp đó rất dễ làm thị trường trôi sụt do tăng yếu tố đầu cơ, yếu tố ngắn hạn trên thị trường.
PHỤ LỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giỏo trỡnh cơ bản về thị trường chứng khoán
2. Giỏo trỡnh phõn tớch chứng khoỏn
3. Tạp chớ chứng khoỏn
4. Đầu tư chứng khoáns
5. Thời bỏo kinh tế Việt Nam
6. Một số vấn đề về tăng trưởng lạm phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề chung của thị trường chứng khoán việt nam.DOC