Trước tình trạng nợ xấu đang ở mức khá cao trong hệ thống ngân hàng Thương mại Việt Nam trong những năm qua, ngành ngân hàng đã xác định một phương hướng hoạt động cơ bản trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ xấu, đảm bảo hoạt động của ngân hàng diễn ra được an toàn. Không nằm ngoài xu hướng đó, Ngân hàng TMCP Quốc Tế phấn đấu để hạn chế thấp nhất các khoản nợ xấu, đồng thời tiếp tục xử lý nợ xấu đã phát sinh trong những năm trước đó để đưa tỉ lệ NPL xuống mức tối thiểu.
Qua những phân tích, những đánh giá cũng như những giải pháp đưa ra đã phần nào cái nhìn tổng quan về “Nợ xấu và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB”. Ngoài những thuận lợi và khó khăn trước mắt Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan cũng như chủ quan, do đó để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh nói chung và hạn chế thấp nhất tình trạng nợ xấu nói riêng thì ngân hàng cần thực hiện những giải pháp như tăng cường khả năng huy động vốn, cải thiện hệ thống thông tin, phòng ngừa kịp thời các rủi ro tín dụng.
64 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3916 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nợ xấu và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc Tế VIB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước; kinh tế vĩ mô Việt Nam bất ổn, lạm phát tăng cao, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng mạnh, toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam có nợ xấu chiếm 3,6% - 3,8% tổng dư nợ.
Tình hình 2 quý cuối năm có nhiều thay đổi tích cực, ta có thể xem biểu đồ so sánh nợ xấu giữa quý IV và III năm 2011 dưới đây:
So với quý III, tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank, Vietinbank, ACB và Sacombank tại thời điểm quý IV/2011 giảm và đây lại là nhóm ngân hàng có mức trích lập dự phòng tăng. Giảm mạnh nhất là nợ xấu của Vietcombank, giảm từ 3,92% về 2,1%, nhưng trích lập dự phòng tăng từ 1.687 tỷ đồng (9 tháng 2011) lên 3.387 tỷ đồng (cả năm 2011).
2.2.1.2 Phân tích nợ xấu theo các nhóm nợ
Như các nhà quản lý Ngân hàng thường nói, lợi nhuận tỷ lệ thuận với rủi ro, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao. Do đó bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, VIB cũng có khoản nợ xấu tương đối cao, đặc biệt là năm 2011 vừa qua. Điều này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cũng như vòng quay của vốn và chất lượng tín dụng của Ngân hàng, nhưng Ban lãnh đạo Ngân hàng đã có những biện pháp hợp lý để ngăn ngừa và xử lý nợ xấu, làm cho tỷ lệ NPL luôn ở mức an toàn. Chúng ta xem xét bảng sau để có cái nhìn tổng quát về tình hình nợ xấu theo các nhóm nợ tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB:
Qua số liệu bảng trên ta thấy nợ nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 ngày càng tăng dần lên. Năm 2009 nợ nhóm 3 là 243 tỷ đồng chiếm 70% thì năm 2010 tăng lên ở mức 544 tỷ đồng chiếm 82% trong tổng nợ xấu. Sang năm 2011 nợ nhóm 3 tăng lên ở mức 700 tỷ đồng chiếm 80% tổng nợ xấu. Nợ nhóm 4 năm 2009 là 38 tỷ đồng, chiếm 11% tổng nợ xấu vậy mà năm 2010 lại tăng lên 53 tỷ nhưng lại chỉ chiếm 8% tổng nợ xấu. Đến năm 2011 nợ nhóm 4 tăng 47% đạt mức 78 tỷ đồng, chiếm 9% tổng nợ xấu. Và cũng như vậy đối với các khoản nợ nhóm 5, năm 2009 là 66 tỷ chiếm tới 19% tổng nợ xấu, năm 2010 là 67 tỷ, chiếm 10% và sang năm 2011 nợ nhóm 5 tiếp tục tăng lại ở mức 98 tỷ và chiếm 11% tổng nợ xấu; như vậy nếu xét về mặt tỉ lệ thì năm 2009 nợ nhóm 5 vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với 2 năm còn lại. Nhưng nếu xét về mặt số tuyệt đối thì tỉ lệ NPL năm 2011 lại đạt ở mức cao nhất.
Nói chung tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng tuy có tăng nhưng không đáng kể đặc biệt nếu xét tỉ lệ nợ xấu/tổng dư nợ thì ta càng thấy rõ điều này và càng thấy ngân hàng hoạt động vẫn hiệu quả. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã tích cực áp dụng những biện pháp khác nhau nên đã hạn chế được số nợ xấu ở mức có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó nợ nhóm 4, nhóm 5 luôn giữ tỷ trọng khá thấp, đa phần là nợ nhóm 3 do các cá nhân và doanh nghiệp chưa kịp quay vòng vốn kinh doanh. Mặc dù luôn xúc tiến công tác thu nợ nhưng nền kinh tế ngày càng phát triển, trị giá các khoản vay luôn tăng cao để phục vụ sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu hay bất động sản…thì khả năng trả nợ đúng hạn là điều thực sự khó khăn, nợ xấu tăng qua các năm là điều khó tránh khỏi.
2.2.1.3 Phân tích nợ xấu theo thành phần kinh tế
Khối khách hàng cá nhân
Năm 2009 nợ xấu của khối khách hàng cá nhân toàn ngân hàng chỉ ở mức khiêm tốn 77 tỷ đồng, chiếm 22% trong tổng nợ xấu. Điều này được lý giải là do phía Ngân hàng ngại về khả năng tái lạm phát, cùng với việc thực hiện chủ trương chung của NHNN kiểm soát hạn chế tốc độ tăng truởng tín dụng, kiểm tra giám sát vốn tín dụng đầu tư cho lĩnh vực phi sản xuất như kinh doanh chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng, cùng với hạn mức tăng trưởng tín dụng do NHNN quy định, các Ngân hàng đã phải hạn chế cho vay và hầu hết chỉ giải ngân cho các hợp đồng tín dụng đã ký. Về phía khách hàng, do vừa thoát khỏi khủng hoảng 2008 nên khách hàng cũng khá dè dặt trong việc chi tiêu và đầu tư mới.
Nhưng đến năm 2010, khoản nợ này bất ngờ tăng đến con số 273 tỷ đồng, chiếm 41% trong tổng nợ xấu, tốc độ tăng trưởng đến 254%. Thứ nhất là do cá nhân bị sa thải thất nghiệp trong giai đoạn 2009, không có khả năng trả nợ ngân hàng do thu nhập chủ yếu của họ là dựa vào lương. Thứ hai là do công tác thu nợ đối với cá nhân trong giai đoạn này gặp khó khăn do lạm phát tăng trở lại, thị trường bất động sản, chứng khoán và vàng có nhiều diễn biến phức tạp khiến cho các nhà đầu tư thua lỗ, khả năng trả nợ giảm sút. Bên cạnh đó dư nợ tín dụng cũng tăng rất cao làm cho dư nợ đối với cá thể tăng cao.
Tỷ trọng nợ xấu tín dụng của cá thể và hộ gia đình giảm trong năm 2011trong tổng nợ xấu, chiếm tỷ trọng là 35%, tuy nhiên vẫn tăng nhẹ 12,8% so với năm 2010. Vì kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi, CPI tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập của người dân được cải thiện, tạo ra tâm lý tốt trong việc vay vốn cũng như trả nợ Ngân hàng phục vụ tiêu dùng, sửa chữa và sản xuất nhỏ. Và đây được xem là nguồn thu có ý nghĩa quan trọng trong công tác điều hòa lãi suất toàn Ngân hàng do thường là các khoản vay nhỏ với lãi suất cao, thời gian đáo hạn nhanh.
Khối khách hàng doanh nghiệp
Năm 2009 nợ xấu của khách hàng doanh nghiệp là 270 tỷ đồng, chiếm đến 78% so với tổng nợ xấu của VIB. Đa phần là các khoản nợ tích lũy từ thời gian khủng hoảng kinh tế 2008. Mặt khác, giá trị các khoản vay trong năm 2009 rất lớn do nhu cầu vốn để tái sản xuất, hoạt động cao, cùng với việc Chính phủ và NHNN tạo điều kiện tối đa để các chủ doanh nghiệp tiếp cận với Ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thích nghi kịp với môi trường kinh doanh nhiều biến động nên gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng vẫn còn hạn chế.
Đến năm 2010, mặc dù khối doanh nghiệp đã nhường thị phần đáng kể cho khối khách hàng cá nhân nên nợ xấu khối doanh nghiệp chỉ còn 59% trong tổng nợ xấu nhưng vẫn tăng 44,8%, tức là 121 tỷ đồng so với năm 2009. Mặc dù đã đẩy mạnh công tác thu nợ, chú trọng đến chất lượng tín dụng hơn, tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay, khoản vay được kiểm soát chặt chẽ, nhưng nợ vẫn tăng, đây vẫn là số tích lũy của các doanh nghiệp từ năm trước, thêm phần các khoản vay năm nay đều có giá trị cao vì đa phần chỉ có các doanh nghiệp tầm cỡ mới mạnh dạn đầu tư, mở rộng kinh doanh. Dư nợ tăng cao làm cho nợ xấu tăng cao.
Tiếp tục phát huy công tác thu hồi nợ cùng với việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ là biện pháp cần thiết để hạn chế nợ xấu nhưng nợ xấu năm 2011 vẫn tăng 45%, 177 tỷ đồng, chiếm 65% trong tổng nợ xấu, điều này là do mặt bằng lãi suất vay khá cao, lớn hơn 20%/năm tạo nên áp lực trả nợ cũng như áp lực kinh doanh khá lớn về phía doanh nghiệp. Trong khi đó, giá nguyên vật liệu tăng cao do tỷ giá USD biến động mạnh và phức tạp, dẫn đến thu nhập giảm trong khi chi phí tăng.
Mặc dù có sự thay đổi nhỏ về tỷ trọng của các khoản nợ xấu theo thành phần kinh tế nhưng nhìn chung nợ xấu của cá nhân, hộ gia đình và cả doanh nghiệp đều tăng tuyến tính. Tốc độ tăng trưởng không đều đặc biệt là các khoản nợ của cá nhân, hộ gia đình có những biến động bất thường, các khoản nợ xấu thay đổi đều do những yếu tố khách quan, tác động của môi trường kinh doanh như tỷ giá, lạm phát, thất nghiệp hay những chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước…
2.2.1.4 Phân tích nợ xấu theo thời hạn vay
Tình hình nợ xấu theo thời hạn cho vay của VIB qua giai đoạn 2009 – 2011 như sau:
Trong cơ cấu nợ xấu, nhóm nợ xấu ngắn hạn là tác nhân chính gây nên sự tăng lên của tổng nợ xấu. Nợ xấu ngắn hạn trong giai đoạn 2009 – 2011 luôn tăng cao qua các năm, trên 100%: năm 2010 nợ xấu tăng 140% (gần 174 tỷ đồng) so với năm 2009 làm cho tổng nợ xấu tăng lên đáng kể, năm 2011 tăng 113% (338 tỷ đồng). Nợ xấu ngắn hạn cao là do doanh số dư nợ ngắn hạn cao. Là Ngân hàng TMCP, VIB đã xác định đúng đắn mức vốn cho vay ngắn hạn trong cơ cấu vốn đầu tư. Trong các năm 2009, 2010, 2011 tỷ trọng cho vay ngắn hạn luôn ổn định ở mức cao. VIB nhận thấy rõ ràng cho vay ngắn hạn có ưu thế hơn cho vay trung và dài hạn sau khi nghiên cứu kỹ các dự án có tính khả thi, đem lại hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, với bất kỳ một ngân hàng thương mại, yếu tố quay vòng vốn nhanh là rất cần thiết, tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao là tốt do đó nợ xấu ngắn hạn cũng cao.
Nợ xấu trung dài hạn theo các năm có xu hướng tăng giảm không đều nhưng tỷ trọng thì giảm liên tục qua các năm. Nguyên nhân của thực trạng này là do thời gian gần đây hoạt động cho vay dài hạn tại các Ngân hàng TMCP đã được kiểm soát chặt chẽ hơn vì lãi suất huy động có kỳ hạn chịu ảnh hưởng nhiều của lạm phát, kinh tế Việt Nam biến động nhiều, các doanh nghiệp chưa dám mạo hiểm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phát triển quy mô, chủ yếu vay vốn để sản xuất hàng hóa phục vụ trong nước và xuất khẩu. Nợ xấu trung dài hạn năm 2009 là 270 tỷ đồng, năm 2010 là 366 tỷ đồng, tăng 35% , năm 2011 tăng trưởng kinh ngạc với mốc -34%, nợ xấu trung dài hạn giảm 126 tỷ đồng so với 2011. Việc giảm xuống mạnh mẽ của nhóm nợ xấu này đã có ảnh hưởng khá lớn và làm cho tăng trưởng tổng dư nợ xấu chỉ tăng 16,7% năm 2011. Vì các hồ sơ tín dụng trung dài hạn thường có giá trị rất lớn, nên việc kiểm tra, phân tích, đánh giá khách hàng được ngân hàng rất chú trọng và được tiến hành rất cẩn thận. Để đạt được kết quả như trên sự là nhờ sự nổ lực của các phòng ban và tất cả các nhân viên VIB. Kết quả đạt được của ngân hàng là dư nợ xấu trung và dài hạn giảm đáng kể qua các năm. VIB nên phát huy hơn nữa thành công trên và nâng cao trình độ chuyên môn cho các nhân viên trong tất cả các phòng ban, tiến hành phân tích cẩn thận từng bước các hồ sơ tín dụng trước khi duyệt cấp tín dụng cho khách hàng, nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng và đảm bảo lợi nhuận, nâng cao uy tín cho ngân hàng.
Tỷ trọng nợ xấu ngắn hạn VIB có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2009 dư nợ xấu ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá thấp chỉ 35,75%, đến năm 2010 tỷ trọng của nó tăng lên 44,9% so với tổng dư nợ xấu, đặc biệt năm 2011 dư nợ xấu ngắn hạn thực hiện cú nhảy khá mạnh và kết quả là tỷ trọng của nó đạt 72,70% vượt qua tỷ trọng của nợ xấu trung dài hạn. Từ đó cho thấy rủi ro từ các khoản vay ngắn hạn đang dần tăng lên và có xu hướng lớn hơn cả cho nợ xấu trung dài hạn, vì vậy VIB cần phải có biện pháp hiệu quả nhằm hạn chế sự gia tăng của các khoản nợ xấu ngắn hạn này. Bởi vì, các khoản cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh số cho vay, mà rủi ro của nó lại có xu hướng tăng lên thì sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng.
Vì tỷ trọng của dư nợ xấu ngắn hạn tăng lên liên tục làm cho tỷ trọng của dư nợ xấu trung dài hạn giảm liên tục qua các năm. Từ 64,25% năm 2009 giảm xuống 55,03% năm 2010 và đến năm 2011 tỷ trọng của nó là 27,30%. Từ đó có thể thấy rằng ngân hàng khá quan tâm đến các khoản nợ trung dài hạn. Đây là các khoản nợ có thời gian thu nợ khá lâu nên sự tăng giảm của nó không gây tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng cần kiểm tra thật kỹ trước khi giải ngân cho các khoản tín dụng, nhằm làm giảm thiểu tối đa các khoản nợ xấu của mình và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Thường xuyên đánh giá lại khách hàng, phân loại khách hàng để dễ dàng trong việc quản lý nợ và cho vay.
2.2.1.5 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nợ xấu trong tín dụng tại NHTMCP Quốc Tế VIB
Nợ quá hạn, nợ xấu là cơ sở để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, đồng thời cũng thể hiện khả năng đánh giá khách hàng của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần tìm ra nguyên nhân phát sinh các khoản nợ xấu này để đưa ra giải pháp hạn chế loại dư nợ này tăng lên, nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng và nâng cao hiệu quả tín dụng.
Nguyên nhân khách quan
Hoạt động cho vay rất nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế - xã hội, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể:
Việc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu ảnh hưởng đến các khoản tiền cho vay của ngân hàng khó có thể thu hồi được. Điều này làm cho nợ xấu trong ngân hàng vẫn còn ứ đọng chưa giải quyết được.
Lãi suất thị trường biến động ảnh hưởng không nhỏ đến lãi suất huy động củaVIB, gây nhiều khó khăn trong công tác tín dụng.
Đồng thời tình trạng lạm phát tăng cao khiến giá cả hàng hóa biến động bất thường, nguyên vật liệu phục vụ cho kinh doanh tăng cao, cộng với khả năng quản lý của khách hàng yếu kém, kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được nợ cho ngân hàng dẫn đến nợ xấu.
Ngoài ra, người gửi tiền có tâm lý lo sợ đồng tiền bị mất giá khi gửi nên họ muốn rút tiền ra khỏi ngân hàng. Trong khi đó ở thời kỳ khó khăn như hiện nay, người vay tiền luôn có nhu cầu về vốn vay nhưng khả năng trả nợ lại có nhiều hạn chế. Điều này cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn hoạt động của ngân hàng cũng như những khoản cho vay của ngân hàng càng trở nên khó thu hồi.
Chính sách tiền tệ thay đổi liên tục từ nới lỏng sang thắt chặt, chịu ảnh hưởng nhiều nhất là giá chứng khoán và bất động sản có nhiều biến động tiêu cực gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán của nhiều nhà đầu tư, nhà đầu cơ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của ngân hàng.
Sự xuất hiện của các Ngân hàng nước ngoài đã giành phân khúc các khu vực doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước hàng đầu, ngân hàng phải lấn sâu thêm vào phân khúc hạng trung gồm những doanh nghiệp hạng hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân, có độ rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường áp dụng lãi suất cao hơn cho các đối tượng vay này và đồng thời lại dùng bất động sản hay một số tài sản có tính thanh khoản khác để thế chấp, trong khi bất động sản hiện nay gần như đóng băng dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng thêm.
Nguyên nhân chủ quan
+ Đối với ngân hàng:
Nếu như trước đây, sự can thiệp của chính phủ làm cho nợ xấu tăng do sự ràng buộc tài chính “mềm” đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đến việc đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay, gây ra và tích đọng nợ xấu thì ngày nay, nguyên nhân trước hết lại xuất phát từ phía chủ quan của ngân hàng, đáng chú ý là chính sách cho vay chưa tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý. Cụ thể là do sức ép cạnh tranh dẫn đến nhiều trường hợp nới lỏng điều kiện vay vốn để giữ chân khách hàng, cho vay không đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, công tác thẩm định cho vay còn sơ sài, thiếu chặt chẽ… làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Ngân hàng chưa thực hiện nghiêm việc theo dõi và đánh giá tài sản đảm bảo. Thị trường giá cả không ngừng biến động, trong khi đội ngũ nhân viên tín dụng chưa đủ để định kì kiểm tra và đánh giá lại tài sản làm vật thế chấp. Khách hàng không cung cấp thông tin tài chính kịp thời, đầy đủ và chính xác để ngân hàng đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Số lượng các khoản vay nhỏ, lẻ nhiều gây khó khăn trong việc kiểm soát cũng như đôn đốc đối với các khoản nợ đến hạn.
Do hoạt động kiểm soát rủi ro có quá nhiều bất cập, chính sách quản lý hệ thống ngân hàng còn nhiều lỏng lẻo, minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Lý do đằng sau việc này một phần cũng do sự thiếu vắng các chuẩn mực kế toán dẫn đến các khoản vay xấu tiếp tục được gia hạn.
+ Đối với khách hàng:
Đối với một số khách hàng, sau khi vay vốn xong họ chỉ muốn trả lãi, còn gốc để xoay vòng làm cho vốn bị ứ đọng khó có khả năng thu hồi, hoạt động tín dụng không hiệu quả.
Một số đối tượng vay vốn với mục đích kinh doanh nhưng việc kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ nặng nề nên khó trả được nợ cho ngân hàng dẫn đến nợ xấu tăng cao.
Nhiều khách hàng còn mượn giấy tờ của nguời thân để vay tiền. Vì vậy có tình trạng đi vay nhưng chuyển vốn cho người khác sử dụng. Người sử dụng vốn không có khả năng trả nợ còn người vay thì với tâm lý trách nhiệm trả nợ là của người sử dụng vốn không phải của mình. Đây thực chất là việc sử dụng vốn sai mục đích.
Một trường hợp tương tự là đối với những khoản vay được đảm bảo nợ của bên thứ ba có hiện tượng khách hàng vay không quan tâm nhiều đến việc trả nợ cho ngân hàng, người bảo lãnh thiếu trách nhiệm khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình, và cũng không đôn đốc người được bảo lãnh trả nợ.
Khách hàng thiếu thiện chí trả nợ cho ngân hàng mặc dù có nguồn thu nhập. Khách hàng bỏ địa phương, trốn tránh tiếp xúc các chuyên viên quan hệ khách hàng gây khó khăn trong công tác thu hồi nợ.
Do nhu cầu vốn lớn các doanh nghiệp, cá nhân lại ngại khi phải lập hồ sơ mới vì tốn nhiều thời gian và chi phí, nên họ quyết định chiếm dụng vốn của ngân hàng quá thời hạn cho phép.
2.2.1.6 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTMCP Quốc Tế VIB
Thứ nhất, nợ xấu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bởi vì khi sử dụng các khoản dự phòng (dự phòng cụ thể và dự phòng chung) để bù đắp tổn thất cho các khoản nợ xấu được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng làm giảm lợi nhuận trước thuế của các TCTD, ngân sách nhà nước theo đó cũng mất đi một khoản đóng góp từ những tổ chức này.
Nợ xấu của VIB đã làm giảm một phần lợi nhuận của ngân hàng do trích lập dự phòng 3 năm qua, số trích lập dự phòng rủi ro trong ba năm 2009-2011 được thể hiện trong bảng sau:
Nhìn chung, tình hình trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại VIB trong ba năm 2009-2011 tăng khá cao:
Dự phòng cụ thể liên tục tăng trong ba năm: năm 2009 là 36 tỷ đồng, chiếm 32% tổng chi phí dự phòng rủi ro; năm 2010 tăng 69 tỷ lên 105 tỷ; năm 2011 tiếp tục tăng lên 409 tỷ đồng, tăng 3 lần so năm 2010, chiếm 42%. Dự phòng cụ thể là khoản tiền trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết, cho nên mức trích lập dự phòng căn cứ vào tình hình dư nợ của khách hàng.
Tình hình cũng tương tự đối với các khoản dự phòng chung: năm 2009 là 76 tỷ; năm 2010 tăng 146% lên đến 187 tỷ đồng; năm 2011 tăng gấp 2 lần so với năm 2010, đạt 564 tỷ đồng. Dự phòng chung là khoản tiền trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ, trích lập dự phòng cụ thể và trong những trường hợp khó khăn về tài chính của các TCTD khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Khoảng thời gian 2009-2011 là thời gian mà nền kinh tế có nhiều biến động, gặp nhiều tổn thương nên các khoản dự phòng lần lượt tăng dần là điều dễ lý giải.
Tổng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng theo đó tăng liên tục và có sự đột biến trong năm 2011, chấp nhận lợi nhuận thấp, VIB trích 974 tỷ đồng cho dự phòng, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động tín dụng trong thời gian tới. Đây cũng là tình hình chung của ngành ngân hàng Việt Nam.
Tỷ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng quý IV/2011 giảm so với quý III nhưng trích lập dự phòng rủi ro lại tăng mạnh.
Năm 2011, tổng trích lập dự phòng của 8 ngân hàng là 9.948 tỷ đồng, tăng 63% so với năm 2010. Vietinbank có mức trích lập dự phòng rủi ro lớn nhất với 4.871 tỷ đồng. Tiếp theo đó là Vietcombank với mức trích lập hơn 3.387 tỷ đồng.
Thứ hai, nợ xấu làm phát sinh những khoản chi phí không đáng có, khi ngân hàng tiến hành khởi kiện đối với các nợ xấu không thể thu hồi làm phát sinh khoản tạm ứng án phí, không chỉ thế khi cơ quan có trách nhiệm tiến hành tịch biên tài sản của khách hàng bị thua kiện thì tiếp tục phát sinh khoản chi phí thi hành án.
Thứ ba, nếu nợ xấu cao và tồn đọng trong một thời gian dài sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính, vốn chủ sở hữu, tính thanh khoản của ngân hàng làm sụt giảm uy tín của ngân hàng, thậm chí bị Ngân hàng Nhà nước đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Thứ tư, nợ xấu sẽ làm giảm tốc độ chu chuyển vốn của ngân hàng dẫn đến giảm hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.2 Thực trạng công tác xử lý nợ xấu tại NHTMCP Quốc Tế VIB
2.2.2.1 Chuyển nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Xử lý nợ xấu trong cho vay tại VIB là một khâu trong quy trình tín dụng của ngân hàng, việc phân loại nợ, chuyển nhóm nợ, và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng thuộc trách nhiệm của phòng Quản lý tín dụng.
Chuyển nhóm nợ
Định kỳ ngày 30 hàng tháng, nhân viên quản lý tín dụng lập danh sách các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên theo đúng quy định hiện hành. Danh sách các khoản nợ vay của khách hàng bị quá hạn, trễ hạn được liệt kê trong “Bảng báo cáo tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5”. Tại các phòng giao dịch chưa có nhân viên quản lý tín dụng thì công việc này do chuyên viên quan hệ khách hàng đảm nhiệm. Bảng báo cáo này sẽ được trình cho Trưởng phòng quản lý tín dụng tại các chi nhánh làm cơ sở để tiến hành trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các “Bảng báo cáo về tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5” ở các chi nhánh, phòng giao dịch đều được cập nhật về Hội sở hàng tháng thông qua mạng quản lý tín dụng của Hội sở.
Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Căn cứ vào “Bảng báo cáo tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến 5” do nhân viên quản lý tín dụng, chuyên viên quan hệ khách hàng tại các phòng giao dịch đã lập hàng tháng, Trưởng phòng quản lý tín dụng tiến hành trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và được trình bày trong “Bảng báo cáo dự phòng rủi ro tín dụng”.
Tại VIB cũng như hầu hết các Ngân hàng khác, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50%, và 100% theo đúng quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài các đối tượng cho vay thế chấp sổ tiền gửi, các loại giấy tờ có giá khác…Tỷ lệ % tính giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo là bất động sản là 50%, và tỷ lệ đối với tài sản khác là 30% đúng theo Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước.
“Bảng báo cáo tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến 5”, “Bảng báo cáo dự phòng rủi ro tín dụng”, sau khi đã được hoàn chỉnh được trình cho Lãnh đạo chi nhánh xem xét chỉ đạo thu hồi nợ.
2.2.2.2 Thu hồi nợ xấu, điều chỉnh mức thu
Do tính chất công việc của chuyên viên quan hệ khách hàng, cũng như số lượng khách hàng đăng ký vay vốn ngày càng gia tăng nên các khoản vay bị trễ hạn được nhân viên quản lý tín dụng tại chi nhánh, phòng giao dịch đảm nhận. Trên cơ sở “Bảng báo cáo tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5” , căn cứ vào địa bàn quản lý, nhân viên quản lý tín dụng có trách nhiệm tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu tình hình tài chính của khách hàng, hướng trả nợ của khách hàng để đưa ra biện pháp xử lý thích hợp. Hầu như đây là công việc chủ yếu hàng ngày của nhân viên quản lý tín dụng.
Tiến trình nhân viên quản lý tín dụng tiếp nhận xử lý, thu hồi các khoản nợ xấu bao gồm các công việc cụ thể sau:
Bước một, khi các hợp đồng vay vốn của khách hàng bị trễ hạn và bị xếp vào các nhóm nợ xấu, nhân viên quản lý tín dụng lập kế hoạch tiếp xúc khách hàng. Trong quá trình thu hồi nợ, nhân viên quản lý tín dụng có quyền yêu cầu chuyên viên quan hệ khách hàng trực tiếp quản lý các hợp đồng cho vay này hỗ trợ trong công tác thu hồi nợ như đưa xuống địa bàn tiếp xúc khách hàng. Hướng giải quyết, xử lý nợ sau này do nhân viên quản lý tín dụng phụ trách.
Bước hai, trong lần tiếp xúc đầu tiên với khách hàng có nợ xấu, nhân viên quản lý tín dụng xem xét lại tình hình tài chính, xác minh các nguồn thu nhập, xem xét khả năng, và thiện chí trả nợ của khách hàng trong giai đoạn sắp tới, và cho khách hàng làm Biên bản cam kết trả nợ, nội dung chủ yếu là: khách hàng cam kết trả một phần hay toàn bộ dư nợ còn lại cho ngân hàng vào một thời gian cụ thể theo thỏa thuận giữa nhân viên quản lý tín dụng và khách hàng. Nhưng thời gian trả nợ thông thường không quá một tháng tính từ ngày cam kết, và số tiền trả ít nhất là 02 kỳ góp, hoặc 02 kỳ đóng lãi theo HĐTD.
Bước ba,nhân viên quản lý tín dụng theo dõi sao kê nợ xấu của khách hàng đã được cam kết, xem xét thực tế trả nợ của khách hàng xem, từ đó có hướng giải quyết tiếp.
Bước bốn, đối với các trường hợp khách hàng vay vốn có nợ xấu, sau nhiều lần nhân viên quản lý tín dụng tiếp xúc làm việc để thu hồi nợ, khách hàng đã có Biên bản cam kết trả nợ nhưng vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, Trưởng phòng quản lý tín dụng chi nhánh trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định lại tình hình tài chính cũng như thiện chí trả nợ của khách hàng nhưng vẫn không có chuyển biến khả quan, HĐTD này sẽ được xử lý theo 02 hướng:
Linh hoạt điều chỉnh mức thu nợ mỗi kỳ: căn cứ vào kết quả thu nhập thực tế về tình hình tài chính của khách hàng, và đề nghị xin điều chỉnh hạ thấp mức thu hàng kỳ của khách hàng, Trưởng phòng quản lý tín dụng sẽ trình lãnh đạo chi nhánh đề nghị cho khách hàng nộp tiền vào tài khoản giữ hộ đến lúc đủ số thì hạch toán vào tài khoản tiền vay của khách hàng.
Tiến hành khởi kiện: nhân viên quản lý tín dụng sẽ tiến hành lập hồ sơ khởi kiện đối với các HĐTD bị trễ hạn trong thời gian dài, khách hàng không có thiện chí trả nợ, đã nhiều lần cam kết trả nợ nhưng vẫn không thực hiện đúng cam kết, cố tình tránh mặt không tiếp xúc với nhân viên quản lý tín dụng, không hợp tác tìm hướng giải quyết món nợ
2.2.2.3 Khởi kiện, xử lý tài sản thế chấp
Nhân viên tín dụng căn cứ sao kê tín dụng thể hiện lịch sử trả nợ của khách hàng, các biên bản cam kết trả nợ của khách hàng, quy định của ngân hàng về việc xử lý các HĐTD mà khách hàng không có khả năng trả nợ, không có thiện chí trả nợ để tiến hành lập hồ sơ khởi kiện. Bộ hồ sơ khởi kiện bao gồm các giấy tờ pháp lý sau: Đơn khởi kiện, Bảng tự khai, Quyết định ủy quyền, và các giấy tờ liên quan khác.
Hồ sơ khởi kiện sau khi được nhân viên quản lý tín dụng chuẩn bị hoàn chỉnh sẽ được trình cho Giám đốc chi nhánh xem xét phê duyệt. Hồ sơ khởi kiện sau khi được phê duyệt của Giám đốc chi nhánh được chuyển cho phòng Pháp chế Hội sở ngân hàng kiểm tra về tính hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ của các giấy tờ liên quan trước khi gửi Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố tùy theo tính chất vụ kiện.
Khi Tòa án triệu tập 02 bên nguyên đơn và bị đơn tiến hành hòa giải, đối với các khách hàng gặp khó khăn về tài chính, không có khả năng thanh toán dứt điểm một lần khoản nợ, phía ngân hàng đồng ý chấp nhận cho khách hàng trả dần khoản nợ, hòa giải thành công. Nếu hòa giải không thành công, Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết theo trình tự.
Trường hợp Tòa án hòa giải không thành, có quyết định thi hành án, khách hàng không thực hiện trả nợ đúng như quyết định thì cơ quan Thi hành án tiến hành tịch biên tài sản của khách hàng, nhân viên quản lý tín dụng được ủy quyền tham gia chứng kiến quá trình thi hành án. Tài sản thế chấp được bàn giao cho ngân hàng theo 02 hướng:
Khách hàng tự nguyện giao tài sản thế chấp cho ngân hàng xử lý.
Khách hàng không tự nguyện giao tài sản, nhưng không có khả năng trả nợ, Tòa án sẽ tiến hành cưỡng chế tịch thu tài sản thế chấp giao cho ngân hàng.
Tài sản thế chấp sau khi được bàn giao cho ngân hàng thông thường được tiến hành bán đấu giá. Giá trị tài sản thu hồi được dùng để thu hồi các khoản nợ xấu này, nế không đủ phải sử dụng dự phòng rủi ro cụ thể để trang trãi, nếu dự phòng rủi ro cụ thể không đủ bù đắp thì tiếp tục sử dụng dự phòng rủi ro chung bù đắp cho đủ mức tổn thất.
Trình tự xử lý các hồ sơ khởi kiện sau đó thuộc phạm vi trách nhiệm của Tòa án, được tiến hành theo quy định hiện hành về tố tụng dân sự. Thông thường đối với các hồ sơ khởi kiện từ ngày Tòa án chính thức nhận thụ lý cho đến khi giải quyết xong các nghĩa vụ pháp lý phát sinh mất một khoảng thời gian rất dài, khoảng trên 01 năm ngân hàng mới có thể bắt đầu thu hồi được các khoản nợ.
2.2.3 Đánh giá tình trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu tại NHTMCP Quốc Tế Việt Nam
2.2.3.1 Đánh giá chung tình trạng nợ xấu của toàn ngành
Tình hình nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong những năm qua đang có xu hướng tăng, đặc biệt là năm 2011. Nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng vào tháng 6/2011 là 75.000 tỉ đồng, tăng 50% so với cùng kì năm 2010. Tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ ngân hàng là 2,16% vào cuối năm 2010 thì đến hết tháng 6/2011 đã tăng lên 3,1%. Đáng chú ý là nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) chiếm tới gần một nửa (47%) tổng nợ xấu và chủ yếu rơi vào các khoản nợ bất động sản. Nợ bất động sản chiếm 10,8% tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng trong nước. Tỉ lệ này là cao so với nhiều nước trong khu vực (Thái Lan là 6%, Ma-lai-xi-a là 7%). Tỷ lệ NPL cuối năm 2011 là 3,2%. Những ngân hàng có truyền thống kiểm soát tốt thì nợ xấu cũng tăng khoảng 0,5% so với cuối năm 2010. Với tỉ lệ nợ xấu 3,2%, nợ xấu của ngân hàng năm 2011 vào khoảng 84.000 tỉ đồng. Trong đó, cho vay bất động sản chiếm khoảng 8,3% tổng dư nợ, nợ xấu bất động sản chiếm khoảng 4,2% tổng dư nợ. Thực tế nhiều ngân hàng đang rất lo lắng về tình hình nợ xấu. Với lãi suất cho vay cao, sẽ không ít doanh nghiệp không thể trả lãi ngân hàng, làm gia tăng nợ xấu. Theo đánh giá của các chuyên gia, nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản, chứng khoán ồ ạt trong thời kì 2006-2007. Mặc dù tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2011 chỉ ở mức 12%-13%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đã điều chỉnh là 1516% nhưng trong 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng vẫn khá cao; năm 2007 tăng trưởng tín dụng tới 51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 29,8%. Việc cho vay ồ ạt cùng với chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại nhiều hệ lụy, trong đó có nợ xấu
Nợ xấu đang là mối quan tâm của các Ngân hàng và nhiều chuyên gia, thế nhưng nợ xấu ở Việt Nam chưa có một qui chuẩn chung để đo lường chính xác, với 2 phương pháp xác định nợ xấu như hiện nay (phân loại nợ xấu theo phương pháp định lượng – điều 6 Quyết định 493 và phân loại nợ xấu theo phương pháp định tính – điều 7 Quyết định 493) để đưa ra con số chính xác về tình trạng nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Ta có thể tham khảo tình hình nợ xấu của các NHTM như sau:
Vietcombank có nợ xấu cao nhất lên đến 3,4%, kế tiếp là Nam Việt (2,8%), Nhà Hà Nội (2,8%) và Sacombank có tỉ lệ nợ xấu thấp nhất (0,6%). Điều đáng ngại là tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng này so với thời điểm cuối năm 2010 đã gia tăng khá nhanh. Ngân hàng Vietinbank cuối năm 2010 tỉ lệ nợ xấu là 0,7% thì đến tháng 9/2011 đã tăng gấp đôi lên đến 1,4%. Thống kê tổng nợ xấu của tám ngân hàng (VietinBank, Vietcombank, ACB, Sacombank, Eximbank, Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt) tại thời điểm 30/9/2011 đã lên tới gần 15.018 tỉ đồng. Trong đó tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) lên tới 8.293 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nếu đánh giá về nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam theo chuẩn quốc tế, Tổ chức Fich Ratings đã đưa ra con số về nợ xấu của ngân hàng Việt Nam ở mức 13% tổng dư nợ. Còn theo ước tính của Bộ phận Nghiên cứu kinh tế thuộc Maritime Bank cho thấy, nếu hạch toán đúng và áp dụng chuẩn quốc tế về phân loại nợ, nợ xấu ngân hàng thực chất sẽ đạt đến mức ít nhất là 10% (trên 10 tỷ USD), chiếm gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay. Nếu so sánh mức nợ xấu này với mức vốn tự có đã điều chỉnh theo quy định hiện hành cộng với quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đã được trích lập, tỷ lệ này sẽ vượt quá 50%, đây là mức báo động đỏ .
Việc gia tăng nợ xấu đã tác động trực tiếp đến tình hình tài chính, thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến quá trình mở rộng tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên theo Thống đốc NHNN Việt Nam thì nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
Kinh tế Việt Nam đã có tín hiệu thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh trong năm 2012. Lạm phát liên tục cho tín hiệu tốt và lãi suất đã có những bước giảm đáng kể. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có những điều chỉnh về chính sách, đặc biệt là về tín dụng để gỡ khó cho các doanh nghiệp mà sau đó là sự hoạt động trở lại của hệ thống liên ngân hàng. Mặc dù như vậy, nợ xấu vẫn sẽ tiếp tục là vấn đề nóng bỏng trong năm 2012 do đó các Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam không nên chủ quan mà cần có những bước đi thận trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh và đặc biệt là kiểm soát nợ xấu.
2.2.3.2 Thành tựu
Trong năm 2011 mặc dù môi trường cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng TM còn gặp nhiều khó khăn. Song được sự chỉ đạo sát sao Ban lãnh đạo và sự nỗ lực của toàn bộ nhân viên trong Ngân hàng, VIB đã duy trì, phát triển hoạt động và đạt được những kết quả nhất định:
Một là: tạo được ấn tượng, uy tín đối với khách hàng, tăng được số lượng khách hàng trong hoạt động tín dụng, mở rộng thị phần.
Công tác phục vụ khách hàng có nhiều đổi mới thích hợp với nền kinh tế thị trường. Phong cách phục vụ, giao dịch, văn minh lịch sự…đã tạo cái nhìn tốt cho khách hàng, thông qua đó số lượng khách hàng đến với VIB ngày càng được gia tăng. Đồng thời, VIB đã đưa ra mô hình kinh doanh và dịch vụ mới với công nghệ mới, sản phẩm và dịch vụ được nâng cấp theo quy trình được thiết kế hợp lý, xây dựng văn hóa phục vụ khách hàng, trong đó khách hàng luôn ở vị trí trung tâm của mọi giao dịch, tạo ra sự thay đổi lớn về diện mạo và chất lượng dịch vụ khách hàng của VIB.
Bên cạnh đó, Ngân hàng đã triển khai công tác tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục xin vay nhanh chóng và thuận lợi. Ngân hàng từng bước gắn mình với doanh nghiệp qua vai trò tư vấn. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng đã thực hiện việc kiểm tra khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Ngoài ra, Ngân hàng còn xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ, thu nhập, của khách hàng trong phạm vi cho phép.
VIB cũng rất linh hoạt trong việc xây dựng các mối quan hệ, liên kết chặt chẽ, các chính sách về hoa hồng liên kết, thành lập đội ngũ cộng tác viên năng động góp phần quản lý, giám sát, thu hồi nợ, giảm áp lực công việc cho các chuyên viên quan hệ khách hàng.
Hai là: Doanh số cho vay ở Ngân hàng năm sau luôn cao hơn năm trước, quy mô dư nợ không ngừng tăng trưởng.
Cơ cấu cho vay không chỉ bó hẹp trong khách hàng cá nhân mà còn mở sang cho vay đối với các doanh nghiệp. Tín dụng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp và cá nhân, hộ sản xuất.
Ban lãnh đạo VIB phản ứng nhanh chóng theo nhu cầu của thị trường, không ngừng phát triển, đa dạng hóa các đối tượng và phương thức cho vay; xây dựng cơ chế lãi suất phù hợp đáp ứng nhu cầu về vốn cho khách hàng, đưa doanh số cho vay liên tục tăng cao.
Ba là: đảm bảo tính thanh khoản của Ngân hàng.
Có thể nói rủi ro thanh khoản là loại rủi ro nguy hiểm nhất trong 36 loại rủi ro tài chính. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi lượng cung tiền ít hơn lượng cầu tiền. Hay hiểu một cách đơn giản hơn chính là ngân hàng không đủ khả năng thực hiện việc thanh toán các giao dịch, nghiệp vụ tín dụng của mình.
Năm 2011, dư nợ tín dụng của VIB là 43.497 tỷ đồng trong khi vốn huy động là 57.489 tỷ đồng, chênh lệch 13.992 tỷ đồng. Bên cạnh đó vốn chủ sở hữu tăng thêm 1.567 tỷ đồng; vốn điều lệ tăng lên 4.250 tỷ so với con số 4.000 tỷ của năm 2010; khoản trích lập dự phòng gần 1.000 tỷ đồng cho hoạt động tín dụng, việc tăng vốn đã tạo niềm tin cho khách hng về khả năng thanh toán.
Hệ số CAR 14,48% không quá cao cũng thể hiện được khả năng vận hành vốn và khả năng sinh lời của ngân hàng, cho thấy ngân hàng kinh doanh có hiệu quả tốt. Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn 0,5% thấp hơn nhiều so với quy định 30% của NHNN. Qua hệ số này ta cũng thấy được vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Thật vậy, mạng lưới hoạt động của ngân hàng VIB trải rộng trên khắp các tỉnh thành; khách hàng của VIB cũng rất đông đúc, các dịch vụ cho vay của ngân hàng vô cùng đa dạng, cùng đội ngũ nhân viên tận tụy, nhiều kinh nghiệm. Tất cả những điều đó là những điểm mạnh nổi bật trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Doanh số cho vay tăng, nợ xấu được kiểm soát tốt đã kéo tỷ lệ NPL ở mức an toàn và thấp hơn so với toàn hệ thống Ngân hàng.
2.2.3.3 Hạn chế
Thứ nhất: chưa phân loại nợ theo phương pháp định tính.
Tình hình thực hiện các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng, quản lý rủi ro tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam được xem là còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, riêng vấn đề phân loại nợ theo phương pháp định lượng, hay định tính vẫn chưa được triển khai áp dụng thống nhất cho tất cả các TCTD. Các TCTD đang thực hiện phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 đều có tỉ lệ nợ xấu dưới 3% và tất nhiên trong đó có cả Ngân hàng Quốc Tế VIB. Việc các TCTD chủ yếu phân loại nợ theo tiêu chí định lượng (theo kỳ hạn trả nợ đã được gia hạn nợ, hoặc cơ cấu lại nợ) khiến tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh chất lượng nợ tín dụng thực tế. Trên cơ sở kết hợp đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng theo hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ và đánh giá thực tế, VIB cần điều chỉnh lại hình thức phân loại nợ theo phương pháp định tính, xây dựng hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ hoàn chỉnh để phù hợp với thông lệ Quốc Tế, xác định được chính xác (ở mức độ cho phép) mức độ rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng.
Thứ hai : chưa xây dựng được cơ chế về mua bán nợ.
Trong quá trình xử lý các khoản nợ mà khách hàng mất khả năng thanh toán, thiếu thiện chí trả nợ thì cho đến nay VIB chưa xây dựng được các cơ chế về mua bán nợ nhằm chuyển xử lý rủi ro sang bên thứ ba để hạ thấp tổn thất, giảm thiểu các khoản chi phí liên quan đến lĩnh vực này.
Thứ ba : công tác thu hồi nợ trì trệ.
Công tác phân loại, chuyển nhóm nợ tại VIB chưa theo sát tình hình thực tế. Việc phân loại nợ chủ yếu dựa vào yếu tố thời gian tồn tại của khoản nợ mà bỏ qua yếu tố khả năng trả nợ thực tế của khách hàng. Vì vậy việc xử lý đối với các khoản nợ xấu này còn chậm trễ, kéo dài tiến trình thu hồi nợ.
Việc khởi kiện đối với các khách hàng vay vốn có nợ xấu, nhưng thiếu thiện chí trả nợ còn khá chậm trễ, thiếu kiên quyết trong việc tiến hành khởi kiện. Điều này làm chậm tiến độ thu hồi nợ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nợ xấu trong thời gian qua tăng dần do nhu cầu vốn của nền kinh tế trong thời gian này đang có dấu hiệu tăng, cùng với việc quy mô của VIB ngày càng được mở rộng nên dư nợ trong năm 2011 kéo theo tỷ lệ NPL tăng. Tuy nhiên nếu so với mặt bằng chung các Ngân hàng Thương mại hiện nay thì tỷ lệ nợ xấu ở VIB chỉ đạt mức trung bình. Xét theo nhiều đối tượng thì sự tăng, giảm nợ xấu của VIB chủ yếu do các yếu tố khách quan gây ra. Các món nợ đa phần là nợ nhóm 3 nhưng ngân hàng cũng phải tích cực hơn trong việc áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế được số nợ xấu ở mức thấp nhất có thể.
Việc phân tích đã cho cái nhìn tổng quát thực trạng nợ xấu của VIB cũng như những ảnh hưởng của nó tác động đến tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Công tác quản trị rủi ro luôn được Ban lãnh đạo VIB đặt lên hàng đầu. Năm 2011, VIB đã tăng cường củng cố về mặt quy trình, triển khai các mô hình quản trị rủi ro theo tiêu chuẩn Quốc tế và tăng cường triển khai các hoạt động quản trị rủi ro thị trường, quản trị rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo hoạt động an toàn cho ngân hàng trong tình hình thị trường còn gặp nhiều khó khăn.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NHTMCP QUỐC TẾ VIB.
Thời gian thực tập tại VIB tuy chưa nhiều nhưng được sự hướng dẫn tận tình của các anh, chị nhân viên ngân hàng, những chia sẻ về kinh nghiệm làm việc, và qua quá trình tiếp xúc thực tế, bản thân xin được phép có một số ý kiến đóng góp sau đây để VIB có thể nghiên cứu, xem xét nhằm không ngừng nâng cao doanh số cho vay, giảm tỷ trọng nợ xấu, và khắc phục những hạn chế trong quá trình xử lý nợ xấu trong cho vay ngắn hạn tại ngân hàng:
3.1 GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ XẤU VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NHTMCP QUỐC TẾ VIB
3.1.1 Nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định
Khâu thẩm định khách hàng đóng vai trò quyết định cho khả năng thanh toán của khách hàng sau này, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình số dư nợ xấu của ngân hàng. Do vậy, trong công tác thẩm định khách hàng, ngân hàng nên chú ý các điểm sau:
+ Về tư cách khách hàng: chuyên viên quan hệ khách hàng cần chú ý mục đích vay vốn của khách hàng có rõ ràng không; phương án trả nợ có phù hợp với tình hình tài chính thực tế của khách hàng; xem xét tính trung thực của khách hàng khi cung cấp các tài liệu, thông tin liên quan đến nguồn trả nợ của khách hàng
Đối với các khoản vay được bên thứ 3 bảo lãnh, chuyên viên quan hệ khách hàng cần xem xét cẩn trọng tính nghiêm túc, rõ ràng trong kế hoạch trả nợ của khách hàng vay; kiểm tra kỹ tính sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với khoản vay của người bảo lãnh.
+ Mức vốn vay và khả năng trả nợ của khách hàng: chuyên viên quan hệ khách hàng xem xét kỹ mức vay mà khách hàng đề nghị như thế có phù hợp với tỷ trọng vốn vay trên chi phí, có xem xét nguồn vốn tự có, và giá trị tài sản thế chấp. Đặc biệt là xem xét tính phù hợp của mức vốn vay với nhu cầu vốn của phương án SXKD, nguồn thu nhập để trả nợ cho ngân hàng.
Trong thực tế có nhiều khách hàng thiếu trung thực trong việc cung cấp các thông tin về nguồn thu nhập, do vậy chuyên viên quan hệ khách hàng cần xác minh rõ tất cả các thông tin liên quan này bởi vì đây là cơ sở quan trọng quyết định có cho vay hay không, mức vay, thời hạn vay và kế hoạch trả nợ của khách hàng.
+ Phương án SXKD của khách hàng: trong thời gian sắp tới ngân hàng cần cẩn trọng hơn trong việc thẩm định phương án SXKD - DV. Thực tế cho thấy ở các đối tượng cho vay này có tỷ trọng nợ xấu gia tăng mạnh.
Đặc biệt, chuyên viên quan hệ khách hàng cần quan tâm đến yếu tố trình độ và kinh nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực SXKD muốn tài trợ; số vốn tự có của khách hàng tham gia vào SXKD, thị trường “đầu ra”, cũng như nguồn nguyên liệu “đầu vào” của sản phẩm.
+ Tình trạng tài sản thế chấp: chuyên viên quan hệ khách hàng phải cẩn trọng khi xem xét thực trạng tài sản hiện tại; giá trị tài sản đảm bảo có đủ đáp ứng khoản vay; tình hình sở hữu, sử dụng thực tế, và tính thanh khoản của tài sản thế chấp.
3.1.2 Thường xuyên giám sát quá trình sử dụng vốn, trả nợ của khách hàng
Đây là một khâu quan trọng nhằm giảm thiểu số dư nợ xấu cho ngân hàng mà chuyên viên quan hệ khách hàng VIB chưa có nhiều điều kiện về thời gian để thực hiện một cách thường xuyên. Đối với các hợp đồng tín dụng đã được giải ngân, cán bộ phụ trách quản lý khoản vay cần có sự theo dõi, giám sát thường xuyên hơn nữa nhằm đánh giá kịp thời thực trạng sử dụng vốn vay của khách hàng.
Cần tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, tốt nhất là từ 5 - 7 ngày sau khi giải ngân, rút ngắn thời gian so với mức 45 ngày mà ngân hàng đang áp dụng đối với lần kiểm tra mục đích sử dụng vốn đầu tiên. Điều này cho phép ngân hàng nắm bắt được việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng với mục đích đăng ký ban đầu hay không mà có hướng thu hồi nợ kịp thời. Chuyên viên quan hệ khách hàng phụ trách nhiều hợp đồng vay vốn nên có sự sắp xếp thời gian cho công việc kiểm tra này, có thể tận dụng cơ hội kiểm tra những khách hàng vay vốn có nơi SXKD gần địa bàn thẩm định khi đi làm công tác thẩm định.
Định kỳ, có thể hàng tháng chuyên viên quan hệ khách hàng phụ trách địa bàn nên tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng có dấu hiệu sử dụng vốn sai mục đích thì nhân viên quản lý tín dụng cần yêu cầu khách hàng điều chỉnh việc sử dụng vốn, nếu không đạt được kết quả thì thực hiện thu hồi vốn trước hạn.
Ngoài ra, chuyên viên quan hệ khách hàng hay nhân viên quản lý tín dụng cũng cần theo dõi sát hơn nữa tình hình trả nợ của khách hàng, đặc biệt là các khoản vay có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Đối với loại hình cho vay này do lợi ích của người vay không gắn liền với quyền lợi của người bảo lãnh nên trong công tác thu nợ chuyên viên quan hệ khách hàng phải hết sức chú ý.
Khi phát hiện các rủi ro nào khác phát sinh trong quá trình theo dõi, thu nợ có thể gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến tổn thất của ngân hàng thì cần kiên quyết thực hiện thu hồi nợ trước hạn theo như những điều khoản đã quy định trong HĐTD.
3.1.3 Đẩy mạnh đa dạng hóa các đối tượng và phương thức cho vay
Trong giai đoạn sắp tới, VIB cần mở rộng thêm đối tượng và phương thức cho vay mới để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường, nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong tương lai. Đa dạng hóa bằng cách tăng thêm các đối tượng và phương thức cho vay, điều này không chỉ làm gia tăng doanh số cho vay của ngân hàng mà còn góp phần làm giảm rủi ro tín dụng, giảm nợ xấu trong lĩnh vực tín dụng.
Trước mắt, VIB cần xây dựng thêm nhiều dịch vụ cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp, chú ý phát triển phương thức cho vay theo HMTD. Để tạo đà phát triển lâu dài, ngân hàng cần đẩy mạnh đầu tư về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xây dựng hệ thống máy rút tiền tự động, thực hiện liên kết với các NHTM khác đáp ứng nhu cầu thanh toán, giao dịch của khách hàng.
Đối với các đối tượng, phương thức cho vay đã được áp dụng nhưng doanh số cho vay không cao, ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân, có thể thực hiện những chương trình khuyến mãi đi kèm với dịch vụ cho vay để phát triển.
3.1.4 Hoàn thiện các biện pháp hỗ trợ tín dụng
Ngân hàng cần nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với quy mô hoạt động, tình hình cho vay thực tế ngày càng có chiều hướng đi lên của ngân hàng.
Đối với việc quản lý rủi ro tín dụng, Hội đồng xử lý rủi ro của ngân hàng cần nâng cao vai trò của mình trong công tác quản lý, định hướng xử lý các khoản nợ xấu phát sinh trong hoạt động tín dụng tại VIB. Hàng tháng, khi nhận được các báo cáo về tình hình diễn biến nợ từ nhóm 2 đến 5, các báo cáo về tình hình tiếp xúc khách hàng có nợ xấu từ các chi nhánh, phòng giao dịch, Hội đồng xử lý rủi ro tại Hội sở cần xem xét đưa ra hướng giải quyết triệt để các khoản nợ xấu ngân hàng, có văn bản chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch cấp dưới về biện pháp xử lý thu hồi nợ.
Đối với công tác phân loại nợ, ngân hàng nên xem xét hoàn chỉnh các tiêu chí phân loại nợ, bên cạnh việc phân loại các nhóm nợ xấu dựa vào tiêu chí thời gian khách hàng chưa thanh toán khoản nợ gốc và lãi, ngân hàng cần quan tâm xem xét đến yếu tố tài chính, tức khả năng trả nợ của khách hàng. Làm được như thế thì công tác dự phòng rủi ro tín dụng sẽ ngày càng nâng cao hiệu quả, tránh được những tổn thất tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ban lãnh đạo ngân hàng cần chú ý đẩy mạnh hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trước tình trạng nợ xấu đang ở mức khá cao trong hệ thống ngân hàng Thương mại Việt Nam trong những năm qua, ngành ngân hàng đã xác định một phương hướng hoạt động cơ bản trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ xấu, đảm bảo hoạt động của ngân hàng diễn ra được an toàn. Không nằm ngoài xu hướng đó, Ngân hàng TMCP Quốc Tế phấn đấu để hạn chế thấp nhất các khoản nợ xấu, đồng thời tiếp tục xử lý nợ xấu đã phát sinh trong những năm trước đó để đưa tỉ lệ NPL xuống mức tối thiểu.
Qua những phân tích, những đánh giá cũng như những giải pháp đưa ra đã phần nào cái nhìn tổng quan về “Nợ xấu và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB”. Ngoài những thuận lợi và khó khăn trước mắt Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan cũng như chủ quan, do đó để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh nói chung và hạn chế thấp nhất tình trạng nợ xấu nói riêng thì ngân hàng cần thực hiện những giải pháp như tăng cường khả năng huy động vốn, cải thiện hệ thống thông tin, phòng ngừa kịp thời các rủi ro tín dụng.
Với nhận thức đúng, với chiến lược phát triển phù hợp, VIB đang tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản lý điều hành, hiện đại hóa công nghệ, đổi mới hoạt động Marketing, quảng bá thương hiệu và hình ảnh… để cung ứng cho khách hàng, chủng loại dịch vụ đa dạng và phong phú hơn, có chất lượng ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, hoạt động cho vay là mảng thị trường lớn nhưng hiện nay VIB vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng của nó.
Mặc dù cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong hoạt động của mình nhưng với những thành tựu đã đạt được, với những định hướng đúng đắn cùng với sự chỉ đạo không ngừng của Ban lãnh đạo và tập thể nhân viên VIB; sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của Ngân hàng Nhà nước tạo tiền đề cho sự phát triển không ngừng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường đầy rẫy sự rủi ro hiện nay thì hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là một hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một công việc tuy rất phức tạp nhưng lại mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Với suy nghĩ đó, em đã đặt trọng tâm nghiên cứu vào công tác phòng ngừa và xử lí nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp mong góp phần nhỏ bé vào việc phòng ngừa và xử lí nợ xấu tại Ngân hàng.
Để có được điều đó ngoài sự cố gắng của bản thân, em đã được sự giúp đỡ tận tình của T.S Vũ Văn Thực và các anh chị đang công tác tại Phòng tín dụng cá nhân Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB – Chi nhánh Quận 2 – PGD Thủ Đức. Do trình độ còn hạn chế cũng như kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên bài chuyên đề không tránh khỏi một số sai sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của Thầy, Cô và các anh chị để bài chuyên đề được thêm phần phong phú về lý luận và sát với thực tiễn của Ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tín dụng Ngân hàng (Khoa Tài chính – ngân hàng, trường Đại học Công nghiệp TP.HCM)
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB
Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Nông thôn Argibank
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Công thươngVietinbank
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Vietcombank Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Techcombank
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín Sacombank
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Quân đội MBBank
Báo cáo thường niên, tổng kết 2009, 2010, 2011, Ngân hàng TMCP Đông Á
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_hoan_chinh_7824.docx