MỤC LỤC
1. Khái quát về chế độ sở hữu và mô hình doanh nghiệp trong “CNXH cổ điển”?
2. Khái quát về Cơ chế kế hoạch hoá trong “CNXH cổ điển”?
3. Thực chất của Đổi mới kinh tế ở Việt Nam?
4. Các giai đoạn chủ yếu, những thành công cơ bản và những vấn đề đặt ra (hạn chế) của CPH-DNNN ở Việt Nam hiện nay? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm đẩy mạnh CPH-DNNN ở Việt Nam trong thời gian tới?
5. Các giai đoạn chủ yếu, những thành công cơ bản và những vấn đề đặt ra (hạn chế) trong sư phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm phát triển và nâng cao vị thế của kinh tế tư nhân ở Việt Nam?
6. Đánh giá thành công và hạn chế của quá trình Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ Đổi mới kinh tế? Trong điều kiện hội nhập WTO, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam đang gặp những thách thức trở ngại gì? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản để vượt qua thách thức?
7. Đánh giá thành công, hạn chế của kinh tế Việt Nam sau hai năm gia nhập WTO? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả cho Việt Nam?
8. Đánh giá khái quát Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam?
9. Đánh giá khái quát về Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm nhằm nâng cao Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam?
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3058 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nội dung ôn tập môn kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1%. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng của một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông, dịch vụ kinh doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đánh giá khách quan thì rõ ràng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta hiện nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Nếu nhìn nhận ở khía cạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát triển xuất khẩu, thì tỷ trọng của ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm cao trong GDP của đất nước. Đây là ngành mà sản xuất phải phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, bị giới hạn bởi năng suất, diện tích, khả năng khai thác, giá cả sản phẩm lại chịu nhiều tác động của sự biến động lên xuống trên thị trường thế giới và có xu hướng giảm theo giá "cánh kéo" với hàng công nghiệp, do đó giá trị kim ngạch xuất khẩu của hàng nông sản sẽ không cao và không ổn định. Chưa kể, tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp cũng thấp và chưa có dấu hiệu phát triển trong những năm tới. Đồng thời, tỷ trọng của ngành công nghiệp chưa cao, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo. Sự đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của ngành công nghiệp một số năm qua mới chủ yếu là do phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công như lắp ráp ô-tô, xe máy, dệt may, giày dép, là những ngành chủ yếu "lấy công làm lãi", nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Tỷ trọng công nghiệp chế biến của nước ta còn nhỏ (tỷ lệ sản phẩm chế biến trong cơ cấu xuất khẩu chỉ tăng khoảng 1,5%/năm), vì thế kéo theo tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu vẫn còn thấp, mới xuất khẩu chủ yếu hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng của sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng thấp của ngành dịch vụ trong GDP và rất thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu (13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu - dưới mức trung bình của thế giới là 20,0%) càng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta chưa có khả năng tạo ra sự chuyển biến mạnh trong xuất khẩu của đất nước. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh yếu của nhiều mặt hàng cũng như sản phẩm dịch vụ đã hạn chế và làm cho sự phát triển xuất khẩu trở nên không vững chắc.
1.2 Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là một phần trong cơ cấu kinh tế ngành.Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do tỷ trọng của ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng dần từng năm vì vậy cơ cấu lao động có sự thay đổi. Lao động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp xây dựng tăng lên. Tỷ trọng lao động của các ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1%năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành nông lâm, thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Đến năm 2010 Việt Nam sẽ cố gắng đưa Tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ còn khoảng 50%.Đặc biệt Nghị quyết của Đảng đến năm 2020, Việt Nam cơ bản thành nước công nghiệp hoá. Tiêu chí của nước công nghiệp là gì? Rõ ràng là lao động nông thôn dưới 20%.
Bảng 1: có cấu lao động theo nhóm kinh tế %
năm
Tổng số
Nông lâm, thủy sản
Công nghiệp xây dựng
Dịch vụ
1990
100
73,00
11,20
15,80
1995
100
71,30
11,40
17,30
2000
100
65,10
13,10
21,80
2005
100
57,20
18,20
24,60
2006
100
55,20
19,20
25,60
2007
100
53,90
20
26,10
2008
100
52,50
20,30
26,70
Nguồn: thời báo kinh tế năm 2008 -2009
Như vậy cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực trong tổng số lao động tăng thêm từ 1990 đến năm 2008 (15.624,9 nghìn người ). Nhóm Nông lâm thủy sản đã thu hút thêm 2,148 nghìn người. Chiếm 13,8% tổng số tăng. Nhóm ngành công nghiệp đã thu hút thêm 6079,8 nghìn người, chiếm 38,9% tổng số tăng. Nhóm nghành dịch vụ đã thu hút thêm 7396,4 nghìn người chiếm 47,3% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ tăng nhiều nhất. Sau đó đến công nghiệp xây dựng. Do năng xuất lao động của nhóm ngành công nghiệp xây dựng (62924 đông/ người) nên con đường chuyển dịch lao động cơ cấu theo ngành tăng và dịch (46849 đồng/người) cao hơn nhóm ngành nông, lâm, thủy sản. Do vậy, cơ cấu lao động sẽ dịch chuyển theo con đường nào mà năng xuất lao động chung và con đường giảm thiểu mức sống dân cư, giảm tỷ lệ nghèo cao.
Hiện nay do khu vực kinh tế nhà nước hiệu quả kinh doanh cũng như đóng góp vào GDP còn thấp. Mặt khác do lương của khu vực kinh tế nhà nước còn thấp. Vì vậy có sự chảy máu chất xám từ nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Thời điểm 31/12/2000 cục thống kê TP HCM đã có cuộc điều tra về cơ cấu lao động
BẢNG CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO KHU VỰC
Tổng số
Chia ra
Nhà nước
Ngoài Nhà nước
Có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng số
100,00
100,00
100,00
100,00
Phân theo ngành kinh tế
A. Nông nghiệp và Lâm nghiệp
0,43
0,93
0,13
B. Thủy sản
0,04
0,03
0,08
0,01
C. Công nghiệp khai thác mỏ
0,17
0,26
0,15
D. Công nghiệp chế biến
60,29
49,14
56,85
88,82
E. SX và PP điện, khí đốt, nước
2,16
4,87
0,33
F. Xây dựng
10,14
15,34
9,52
0,61
G. Thương nghiệp
11,99
15,32
14,48
1,00
H. Khách sạn và Nhà hàng
2,44
2,48
2,18
2,78
I. Vận tải, Kho bãi và Thông tin liên lạc
8,11
7,34
12,78
1,72
J. Tài chính, tín dụng
0,75
0,66
0,83
0,81
K. Hoạt động khoa học và công nghệ
0,01
0,02
L. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
2,18
1,90
2,26
2,60
N. Giáo dục và Đào tạo
0,08
0,04
0,33
O. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
0,05
0,11
0,06
P. Hoạt động văn hoá và thể thao
0,44
0,46
0,29
0,67
T. Phục vụ cá nhân và công cộng
0,72
1,27
0,41
0,13
Nguồn: tổng cục thống kê TP HCM 2005
(Nguồn: thời báo kt vn 2008 – 2009)
Trong tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kt 15624,9 nghìn người trong thời kỳ 1990-2008 thì khu vực nn tăng thêm 657,7 nghìn người chiếm 4,2% tổng số tăng thêm khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 14967,2 nghìn người chiếm 42,9% tổng số tăng thêm. Do vậy cơ cấu lao động hiện nay có sự chuyển dịch. Xét riêng trong các loại hình doanh nghiệp tổng số lao động tính đến năm 2007 la 6715,2 nghìn người, tăng 89,9% so với năm 2000. Bình quân 11,9%- cao gấp nhiều lần của toàn nền kinh tế quốc dân trong thời gian tương ứng. Về số tuyện đối, tổng số lao động trong các doanh nghiệp tăng 3128,5 nghìn người. Trong đó doanh nghiệp nn giảm 188,6 nghìn người. doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2329 nghìn người chiếm 73% tổng số tăng. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1037 nghìn người chiếm 32,7% tổng số tăng. Như vậy doanh nghiệp ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc thu hút lao động.
Lao động hiện nay không chỉ số lượng mà còn chất lượng. Hiện nay các trường đại học cao đẳng chuyên nghiệp với số lượng các trường ngày càng tăng vì vậy tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.Tuy nhiên theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, Năm 2005 có đến 74,7% lực lượng lao động chưa qua đào tạo; còn số lao động đã qua đào tạo cũng không hoàn toàn giỏi nghề. Chính vì vậy, năng suất của lao động VN kém lao động các nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15 lần. Chất lượng nguồn nhân lực của VN năm 2008 mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB). 1 nghiên cứu khác cho thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
7. Đánh giá thành công, hạn chế của kinh tế Việt Nam sau hai năm gia nhập WTO? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả cho Việt Nam?
Những thành tựu đáng ghi nhận WTO:
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta .Việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,… Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam. việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng khá và chuyển dịch theo hướng hàng hoá. Tranh thủ thời cơ thuận lợi do WTO tạo ra, 2 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Số lượng sản phẩm tăng nhanh, chủng loại sản phẩm đa dạng, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu sản phẩm có nhiều thay đổi, điều kiện và tính chất của các yếu tố sản xuất cũng có nhiều điểm mới so với trước.
Sản xuất công nghiệp : Năm 2008 tuy có khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá 13,9%, năm 2009 tăng 7,6% so vơi 2008. trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 18,0%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 18,0%. Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã có chuyển biến tích cực: ngành công nghiệp chế biến đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, năm 2007 tăng 19,1%, năm 2008 tăng 15,3% và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên. Vị trí của khu vực công nghiệp, xây dựng trong GDP tăng từ 41,54% năm 2006 lên 41,48% năm 2007. Năm 2008 tỷ lệ này còn 39,73% do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu là chủ yếu. Nhiều tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn đều đạt tốc độ tăng trưởng cao như: Vĩnh Phúc, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Hải Dương, Quảng Ninh…
Kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện cả về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Trong 2 năm 2007 và 2008, cả nước đã thu hút 2116 dự án FDI đăng ký mới với số vốn 81.105 triệu USD, chiếm 21% số dự án, 54,59% tổng số vốn đăng ký cả nước và bằng 43,7% tổng số vốn điều lệ còn hiệu lực từ năm 1988 đến cuối năm 2008 . Tính đến hết tháng 9 năm 2009, Việt Nam đã thu hút được trên 168 tỷ USD nguồn vốn FDI, bổ sung thêm khối lượng vốn đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng.
Điều đó cho thấy sau khi vào WTO, Việt Nam thực sự là điểm đến đầu tư hấp dẫn của nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới và khu vực…
Về xuất nhập khẩu: Sau khi vào WTO, thực hiện các cam kết quốc tế, thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng cả về quy mô, đối tác, hàng hoá, dịch vụ. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2007 đạt 109,2 tỉ USD, tăng 48,2% so năm 2006, năm 2008 đạt 143,1 tỉ USD 31,0% so năm 2007.
Xuất khẩu tăng trưởng cao cả về thị trường, lượng hàng hoá, kim ngạch và giá cả. Theo các cam kết của WTO về mở cửa thị trường, hoạt động xuất khẩu theo hướng tăng chất lượng, ổn định giá, thực hiện đúng hợp đồng… để tăng sức cạnh tranh trên thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thị trường mới, mặt hàng mới đi đôi với các chính sách xoá dần sự bảo hộ của Nhà nước trên một số mặt hàng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48,561 tỉ USD, tăng 21,9% so với năm 2006, năm 2008 đạt 62,7 tỉ USD, tăng 29,5% so với năm 2007.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng đã biến động theo chiều hướng tăng tỷ trọng hàng hoá công nghiệp chế biến và nông sản chất lượng cao. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỉ USD, tăng 22,4%, năm 2008 đạt 2,8 tỉ USD, tăng 16,6%; mặt hàng máy tính điện tử năm 2007 đạt 2,2 tỉ USD, tăng 27,5%, năm 2008 đạt 2,7 tỉ USD, tăng 22,7%.
Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực không chỉ giữ vững vị trí hàng nhất, nhì thế giới về số lượng mà bước đầu vươn tới cả chất lượng , giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tính chung 2 năm sau khi vào WTO, kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao; năm 2007 đạt 10,9 tỉ USD, tăng 21,7% so năm 2006, năm 2008 đạt 15,6 tỉ USD tăng 43,1% so năm 2007. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 11 tháng năm của năm 2009 đạt khoảng 14 tỷ USD, giảm gần 7% so cùng kỳ năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đã tăng cao hơn mức cùng kỳ 2007, trong đó: hạt điều tăng 42,8%; gạo tăng 94,6%; cà phê tăng 83,2%; cao su tăng 73,1%, chè tăng 22,6%, thủy sản tăng 33,7% so với năm 2007.
Nét nổi bật trong những kết quả xuất khẩu nông sản trong 2 năm qua không phải chỉ tăng số lượng mà là tăng chất lượng và độ an toàn thực phẩm nên giá cả xuất khẩu tăng lên, thị trường mở rộng kể cả thị trường khó tính như Nhật Bản, EU và Mỹ. Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đã xâm nhập ngày càng nhiều vào các thị trường mới như Nam Mỹ, châu Phi, Nam Á là thành viên WTO với lượng và giá tăng dần.
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, thị tr ường xuất khẩu biến động bất lợi, nhất là Hoa Kỳ và EU, nh ưng hoạt động xuất khẩu năm 2007 và năm 2008 đạt kết quả nh ư trên là đáng ghi nhận.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,7 tỉ USD, tăng 39,6%; năm 2008 đạt 80,7 tỉ USD, tăng 28% so năm 2007. Sáu tháng đầu năm 2009, Kim ngạch nhập khẩu đạt 30,64 tỷ USD, giảm khoảng 31,6% so với cùng kỳ Nhìn chung, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước đều tăng, chủ yếu do giá nhập khẩu tăng, trong đó giá một số mặt hàng tăng ở mức cao như: phân bón, xăng dầu, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, vải, linh kiện, nguyên phụ liệu dệt, may, da; phân bón; thức ăn gia súc….
Hạn chế:
bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc gia nhập WTO càng làm lộ rõ hơn những yếu kém, bất cập cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, nhất là đối với việc đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững.
Kinh tế tăng trưởng chưa vững và chưa đều, hiệu quả và tính bền vững chưa cao. Điều đó được thể hiện khá rõ nét qua quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế cũng như giá trị gia tăng của từng ngành sản xuất, hoạt động dịch vụ. Tốc độ tăng GDP bình quân 2 năm 2007-2008 thấp hơn tốc độ tăng GDP bình quân 2001-2006.
Trong khu vực nông, lâm, thủy sản, tốc độ tăng GDP chưa bền vững: năm 2007 tăng 3,76%, năm 2008 tăng 4,07% trong khi đó năm 2006 là 4,02%, năm 2005 là 4,36%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi 2 năm sau WTO lại thấp hơn các năm trước đó: năm 2007 tăng 4,6%, năm 2008 tăng 6% so với tốc độ tăng 11,4% năm 2005 và 6,9% năm 2006 (có dịch cúm gia cầm trên diện rộng).
Nhập siêu hàng hoá tăng cao so với các năm trước đó. Năm 2006 là 6,6 tỉ USD, chiếm 15,5% kim ngạch xuất khẩu, năm 2007 tăng lên 14,2 tỉ USD, chiếm 29,5% và năm 2008 là 17 tỉ USD, chiếm 27,7 % tổng kim ngạch xuất khẩu. Năng lực sản xuất nhiều mặt hàng nông sản, khoáng sản đã đến ngưỡng, khó có khả năng tăng trưởng cao về sản lượng như những năm trước.
Giá tiêu dùng tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2006 tăng 7% so tháng 12 năm 2005, năm 2007 tăng 12,6%, năm 2008 tăng 19,9%.CPI cả năm 2009 tăng 6,88% so với cùng kỳ 2008 Giá cả các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống tăng cao đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của dân cư nhưng chậm được khắc phục.
Giải pháp giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng là:
Ổn định kinh tế vĩ mô
Để sớm ổn định kinh tế vĩ mô, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ, đẩy mạnh việc thực hiện tám nhóm giải pháp kinh tế nhằm kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, đồng thời triển khai những đối sách thích hợp để hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay. Các biện pháp áp dụng cần phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế và quy định của WTO.
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang gặp nhiều sóng gió như lạm phát cao, nhập siêu lớn, thâm hụt ngân sách, bong bóng bất động sản… Ổn định kinh tế vĩ mô là hướng giải quyết căn bản cho khó khăn hiện nay.
Phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách: Trong điều kiện nền kinh tế đang quá nóng như hiện nay, Chính phủ cần phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách để giảm tốc độ tăng trưởng của tổng cầu. Tuy nhiên, điều này cũng không thể dễ dàng thực hiện trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt Nam. Cụ thể như trong trường hợp áp dụng tăng lãi suất (duy trì lãi suất thực dương) để giảm tổng cầu. Mức lãi suất cao hơn sẽ tạo thuận lợi cho thu hút thêm vốn nước ngoài từ đó làm tăng cung tiền. Kết quả của biện pháp này là gây thêm áp lực tăng lãi suất đối với Ngân hàng Nhà nước, và vòng xoáy tăng lãi suất - thu hút thêm vốn nước ngoài cứ thế được lặp lại. Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng chính sách tiền tệ và ngân sách phải được phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ không phát huy tác dụng nếu ngân sách tiếp tục được nới rộng. Bên cạnh việc giảm đầu tư công, Chính phủ vẫn phải ưu tiên các dự án có mức sinh lời cao và việc cắt giảm đầu tư công cũng sẽ không giúp giảm lạm phát nếu như dòng vốn không được "thu hồi" một cách hiệu quả, lãi suất thực vẫn tiếp tục âm.
Tại thời điểm hiện nay, thẩm quyền ra quyết định chính sách ở Việt Nam quá phân tán, và điều này một mặt cản trở sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính sách, mặt khác gây khó khăn cho các nhà lãnh đạo cao nhất khi họ phải phản ứng một cách quyết đoán nếu khủng hoảng xảy ra. Để có thể duy trì sự nhất quán và ổn định trong hệ thống chính sách vĩ mô, Việt Nam cần tập trung thẩm quyền hoạch định chính sách trong tay một cơ quan duy nhất. Từ đó, đề nghị thành lập một "siêu bộ" hay một cơ quan hoạch định chính sách chung cho ba mảng (đầu tư công, tài trợ đầu tư và chính sách tiền tệ) trực thuộc Thủ tướng và có quyền hạn lớn, cao hơn các bộ, ban ngành, chính quyền địa phương, và tất nhiên là cả các tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng, cơ quan này có quyền đình chỉ hay cắt giảm những dự án đầu tư công chưa thực sự cần thiết hay lãng phí. Thành viên của cơ quan này phải được lựa chọn dựa theo năng lực, có mức lương tương đương với những chức vụ quản trị ở khu vực tư. Cơ quan này sẽ báo cáo trực tiếp cho Thủ tướng Chính phủ và phải được bảo vệ khỏi sức ép chính trị và sự tác động của các nhóm đặc quyền đặc lợi.
Tăng cường năng lực và tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước: Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không đủ thẩm quyền và công cụ chính sách, đồng thời cấu trúc quản lý lại bất cập để có thể vận hành như một ngân hàng trung ương thực thụ. Chính vì vậy, các nhà kinh tế của ĐH Harvard khuyến nghị Chính phủ cần có kế hoạch tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước theo hướng tăng cường tính độc lập (đặc biệt là độc lập về mục tiêu và công cụ) và khả năng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong một nền kinh tế thị trường hiện đại.
Điều này đòi hỏi sự góp ý và tư vấn của các chuyên gia về ngân hàng trung ương, bao gồm một số thống đốc ngân hàng trung ương trong khu vực và một số chuyên gia kỹ thuật quốc tế đã từng làm việc tại các nước Đông Nam Á. Mặc dù việc thuê chuyên gia nước ngoài khá đắt nhưng vẫn còn rẻ hơn rất nhiều so với cái giá phải trả khi xây dựng một ngân hàng trung ương mà không có sự dẫn dắt của các chuyên gia giàu kinh nghiệm. Để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo tính bảo mật và làm chủ chính sách khi thuê chuyên gia nước ngoài, Chính phủ Việt Nam nên tự mình lựa chọn và trả lương cho chuyên gia chứ không nên dựa vào nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế.
Kiểm soát đầu tư công: đầu tư công kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát. Chính phủ đã phê duyệt một danh sách các dự án đầu tư công đầy tham vọng từ nay cho tới 2015 với tổng số vốn ước tính lên tới 70 tỷ USD. Để đảm bảo lượng vốn khổng lồ này được sử dụng hiệu quả, Chính phủ cần phân tích thật cẩn thận những chương trình đầu tư công hiện tại, bao gồm cả những dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước để từ đó xây dựng danh mục các dự án ưu tiên đầu tư căn cứ theo tiêu thức hiệu quả kinh tế.
Cũng cần xây dựng các phương án dự phòng khi xảy ra tình huống xấu để có thể đình chỉ hay cắt giảm ngay một số dự án khi điều kiện kinh tế vĩ mô trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, cũng cần kiểm soát chặt các dự án vay thương mại trên thị trường tài chính quốc tế của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, hay dự án đầu tư công. Thực hiện hoạt động thẩm định và kiểm toán đầu tư công độc lập, sau đó công khai hóa các thông tin về thẩm định và kiểm toán này.
Giảm bong bóng bất động sản: Chính phủ cũng cần "xì hơi" bong bóng bất động sản từ từ để tránh sự đổ vỡ đột ngột của thị trường, điều mà nếu xảy ra sẽ gây náo loạn khu vực tài chính với nguy cơ tác động lan tỏa tới nền kinh tế thực (tức là hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng hóa và dịch vụ). Theo các nhà kinh tế, cách tốt nhất để xì hơi bong bóng là đánh thuế bất động sản. Bên cạnh đó, cần thắt chặt và kiểm soát sát sao các khoản tín dụng đầu tư bất động sản và các khoản cho vay được thế chấp bằng bất động sản.
8. Đánh giá khái quát Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam?
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 Thành tựu đạt được
2.1.1 Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cao, liên tục.
Thành tựu về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua là rất đáng tự hào, cả trong so sánh với giai đoạn trước đổi mới của Việt Nam và trong so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, nước ta được đánh giá là cao trong khu vực. Sau hơn 20 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như giai đoạn đầu của đổi mới (1986 – 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm thì trong năm năm tiếp theo (1991 -1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%/năm cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5% và thuộc loại cao trong số các nước phát triển. Trong giai đoạn 1996 -2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, thấp hơn nứa đầu thập niên 90 của thế kỉ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của VN là 6,9%, năm 2007 là 8,5 %, năm 2008 là 6,23%, tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 4,56%, trong đó quý III đạt 5,76%. So với các nước trong khu vực thì kinh tế Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Hơn thế, thời gian tăng trưởng kinh tế liên tục của Việt Nam đã đạt 25 năm so với 23 năm của Hàn Quốc và cũng chỉ thua kỷ lục 27 năm mà Trung Quốc đang nắm giữ.
+ Giai đoạn 1996 – 2000: Là khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng có chiều hướng đi xuống do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. Nền kinh tế Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp do có mức kiểm soát tài khoản vốn cao, nhưng nguồn vốn FDI suy giảm và sự ạnh tranh ngày càng khốc liệt trên các thị trường xuất khẩu thực sự tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể trong giai đoạn này, từ 8,2% năm 1997 xuống 4,8% năm 1999. bình quân cả giai đoạn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7% và không đạt chỉ tiêu kinh tế đề ra.
+ Giai đoạn 2001-2005 chứng kiến đà tăng trưởng trở lại nền kinh tế. sau cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á đã lắng xuống, cùng với các chương trình cải cách hướng cải tổ cơ cấukinh tế, bao gồm thúc đẩy khu vực ngoài quốc doanh và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước vừa huy động được tiết kiệm trong dân cư, vừa tạo động kkực cạnh tranh trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn cũng có bước chuyển mạnh mẽ dưới tác động của các chính sách khuyến khích kinh tế trang trại và cải cách phân phối sản phẩm. Tốc độ cổ phần hoá DNNN cũng tăng lên đặc biệttừ năm 2002 trở lại đây. Tất cả những thay đổinày đưa đến kinh tế trở lại đà tăng trưởng, từ 6,8%năm 2000lên 8,4% năm 2005, qua đó tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt gần 7,5%, xấp xỉ mức kế hoạch.
+ Giai đoạn 2006 đến nay: Nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng cao.Năm 2007 tăng trưởng cao 8,44% và cao nhất trong vòng 10 năm qua, năm 2008 là6,23%, tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 4,56%, trong đó quý III đạt 5,76%. Sau 1 năm trở thành thành viên của WTO, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và nguồn vốn ODA huy động đạt mức kỷ lục mới. Điều này thểhiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đàu tư ở Việt Nam. Tính đến hết tháng 9 năm 2009, Việt Nam đã thu hút được trên 168 tỷ USD nguồn vốn FDI, Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nhìn chung thì kinh tế nước ta đá phát triển hơn rất nhiều.
GDP bình quân tăng, GDP bình quân đầu người cũng tăng. Trước thời kỳ đổi mới, phần lớn dân số sống bằng nghề nông. Việt Nam thì bị đánh giá là nước nghèo, lạc hậu, với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và có nhiều người trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội và việc làm cho người lao động. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 của người dân Việt Nam đã đạt 1024 USD/năm.
Tốc độ tăng trưởng cao được thể hiện ở các nhóm ngành trong nền kinh tế.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của Việt Nam đã tăng liên tục trong cả giai đoạn 1991- 2005, bình quân 4,5%/năm trong giai đoạn 1991- 1995, 5,7%/năm trong thời kỳ 1996 -2000. trong giai đoạn 2001- nay thì mặc dù nông nghiệp gặp khó khăn (do hạn hán kéo dài, dịch cúm gia cầm lan rộng, bão lụt xảy ra liên tục.. tổng giá trị thiệt hại lên tới hàng nghìn tỷ đồng), nhưng nhờ thuỷ sản vẫn tăng khá, nên nhìn chung giá trị sản xuất của nhóm ngành nông- lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn đạt bình quân trên 5,4%/năm.
Mức tăng tổng sản phẩm trong nước(GDP) năm 2008 so với năm 2007 được Tổng cục Thống kê chốt lại trong ngày cuối cùng của với con số 6,23% thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và thấp hơn mục tiêu kế hoạch điều chỉnh ( tăng 7%) trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79% ; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%; nhưng theo nhân định chung: Trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm, đạt được tốc độ như vậy là tương đối cao và là một thành tựu. vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm vốn khu vực ngoài nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3 và tăng 42,7%, khu vực ngoài nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3 % và tăng 42,7% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 189,9 nghìn ỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng 46,9%
Sự thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến khá rõ nét, thể hiện sự tham gia ngày càng nhiều và sâu rộng của khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế . theo xu hướng này, tỷ trọng của khu vực ngoài quốc doanh trong một số lĩnh vực kinh tế giảm dần, còn tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dần dần tăng lên tương ứng, đánh dấu những bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy vậy, nhìn tổng thể, trong thời kỳ từ 1990 đến nay chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng cao và tương đối ổn định trong GDP. Sự chuyển dịch (và biến động) cơ cấu theo thành phần chủ yếu diến ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực FDI.
Kinh tế ngoài Nhà nước được khuyến khích phát triển thường xuyên tạo ra 46 -47% tổng sản phẩm trong nước. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giữ vị trí quan trọng. Hiệu quả hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và FDI đếu tăng lên.
Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm.
Tăng trưởng kinh tế mỗi năm từ 5 – 7,5% tăng dần trong các nhóm ngành kinh tế cơ bản nên tốc độ giảm nghèo là nhanh.
Đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế: Năm 2000 tỷ lệ nghèo ở Việt Nam còn khá cao là 32 % thì năm 2002 còn 28,9%. Năm 2008 tỷ lệ nghèo còn 13,5% thấp hơn so với năm 2007 tỷ lệ nghèo của năm 2007 là 14,8%. Năm 2009 tỷ lệ là 11%. Qua đó chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo của nước ta đã được thể hiện rõ nét những năm vừa qua.
Theo tiêu chuẩn quốc gia: Tỷ lệ nghèo của nước ta giai đoạn 2000– 2005 giảm một nửa so với mục tiêu đề ra. Mục tiêu đặt ra là giảm xuống còn 20% thì chúng ta đã giảm xuống còn 10%. Đó là một thành tựu lớn.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng
Theo báo cáo về tình hình phát triển con người năm 2007 – 2008 do chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố tại Hà Nội ngày 28 -11 -2008 cho thấy chỉ số HDI Việt Nam được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong tổng số 177 nước được điều tra, tăng 4 bậc so với năm 2006 và được xếp vào các nước có chỉ số phát triển HDI tăng cao.
Việt Nam được đánh giá là nước tiến nhanh nhất trong các nước Ðông - Nam Á (ASEAN) về tăng chỉ số HDI. Ðây là bằng chứng và là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với nỗ lực của Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế gắn liền với sự quan tâm phát triển con người.
2.1.5. Về giáo dục đào tạo.
. Đến nay tất cả 64 tỉnh. thành phố trực thuộc trung ương đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. trong đó 24 địa phương đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và 26 địa phương đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Đào tạo đại học. cao đẳng. trung học chuyên nghiệp và nhất là dạy nghề được củng cố và có bước phát triển nhất định. Năm học 2007 – 2008 cả nước có 345 trường đại học và cao đẳng. Trong Báo cáo Giám sát Giáo dục Toàn cầu năm 2005. UNESCO đánh giá về tiến độ thực hiện mục tiêu “Giáo dục cho tất cả đến năm 2015” do Liên Hợp quốc đề ra. Chỉ số giáo dục cho tất cả của nước ta được xếp vị trí 64/127. đứng trên một số nước trong khu vực như In-đô-nê-xi-a. Phi-li-pin. Ấn Độ...
2.1.6. Về y tế và chăm sóc sức khoẻ.
Kết quả tăng trưởng cũng đem lại những thay đổi quan trọng với lĩnh vực y tế. Hệ thống y tế tạo điều kiện cho tất cả người dân có nhu cầu đều được thụ hưởng các dịch vụ khám, chữa bệnh ở các bệnh viện công và bệnh viện ngoài công lập. Số lượng cán bộ ngành y gia tăng nhanh chóng.
Nhờ đó, những chỉ tiêu về sức khoẻ người dân Việt Nam được nâng cao rõ rệt trong những năm qua. Về tuổi thọ bình quân, nếu như năm 1990 mới đạt 64,8 tuổi, năm 1995 là 65,2 tuổi, 70,9 tuổi năm 2006, đến năm 2008 trên 72 tuổi, tuổi của phụ nữ cao hơn nam giới từ 4-5 tuổi. Theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi trong những năm gần đây đã giảm một cách đáng kể, từ 3,5% và 4,2% năm 2001 xuống còn 1,6% và 2,6% năm 2006. Bên cạnh đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cũng giảm từ 31,9% năm 2001 xuống 19,9% năm 2008. Hơn 90% số trẻ em dưới một tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc-xin cơ bản phòng bệnh. Việt Nam được Tổ chức Y tế thế giới công nhận là nước thanh toán được bại liệt và loại trừ uốn ván sơ sinh. Bên cạnh đó, các vắc- xin mới như: viêm não Nhật Bản, tả, thương hàn tiếp tục được nghiên cứu và triển khai ở những vùng có nguy cơ cao.
2.1.7 Đời sống kinh tế được cải thiện
Thu nhập đầu người của nước ta là tăng dần qua các năm, đi đôi với điều đó là đời sống của nhân dân được cải thiện. Các hộ chi tiêu cho gia đình ngày càng cao, xây dựng nhà ở, mua đồ dùng lâu bền, sử dụng nước máy, điện nước .v.v.tỷ lệ các hộ có nhà ở, phương tiện đi lại, đồ dùng trong gia đình ngày càng nhiều và tương đối hiện đại.
Tỷ lệ người dùng internet của Việt Nam cũng gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Năm 2000 chỉ có khoảng 200.000 người dân trong nước truy cập mạng thông tin toàn cầu nhưng đến năm 6/2007 thì con sô này tăng lên 16,511 triệu người. Chỉ số phát triển ICT toàn cầu năm 2009 tăng 15 bậc(từ 107 lên 92/154 quốc gia) so với năm 2008, và nằm trong top 10 quốc gia phát triển ICT nhanh nhất Thế giới.
Hạn chế đặt ra đối với chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam
- Hiệu quả sử dụng vốn thấp
Việc đầu tư của nước ta còn dàn trải, lãng phí, phát triển rộng chứ chưa sâu theo đó chất lượng tăng trưởng của Việt Nam còn nhiều vấn đề, vẫn chủ yếu theo chiều rộng. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; năng lực cạnh tranh quốc gia cũng còn thấp và cách xa so với một số nước trong khu vực. Các chuyên gia cho rằng, sở dĩ chất lượng tăng trưởng thấp là do Việt Nam chủ yếu dựa vào hai nhân tố vốn và lao động, trong khi tỷ trọng đóng góp của khoa học - công nghệ trong tăng trưởng lại thấp hơn rất nhiều. Hiện nay, trung bình tỷ trọng đóng góp của nhân tố vốn và lao động trong GDP ở Việt Nam cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp. Điều này phản ánh tính chất tăng trưởng của nền kinh tế còn chủ yếu nặng về chiều rộng và nhẹ về chiều sâu. Thêm vào đó, xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, trong khi Việt Nam luôn trong tình trạng thiếu vốn cũng khiến tăng trưởng thiếu bền vững, bởi dễ bị tác động của yếu tố bên ngoài, nhất là khi có sự biến động của thị trường thế giới:
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2006 đạt 41%, năm 2007 đạt 40,4%), năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc .
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR. .
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới vì vậy biểu hiện rõ nét hạn chế của chất lượng tăng trưởng Việt Nam còn dàn trải, lãng phí, phát triển rộng chứ chưa sâu.
2.2.3. Tăng trưởng cao nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu
Trong bảng xếp hạng sức cạnh tranh tăng trưởng toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), trong 2 năm liên tục (2004 và 2005), vị trí xếp hàng của nền kinh tế nước ta tụt 21 bậc. Đây là mức tụt cao nhất thế giới. Sang năm 2006, VN lại bị tụt thêm 5 bậc, xuống thứ 86 trong bảng xếp hạng WEF 2006. Tổng số mức tụt 3 năm là 26 bậc. Đây là một con số phản ánh tốc độ tụt hậu xa hơn về chất lượng phát triển của VN.
Có một số ý kiến không đồng tình với việc VN bị đánh tụt hạng trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Theo ý kiến này, trong thời gian gần đây, VN đã có những tiến bộ rõ ràng trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh. Vì vậy, có sai lệch trong việc WEF đánh gia năng lực cạnh tranh quốc gia VN liên tục bị tụt trong 3 năm với mức tụt lớn đến như vậy.
Tất nhiên, không thể loại trừ khả năng này. Và phải thừa nhận sự không đồng tình với WEF nói trên là có những cơ sở nhất định. Song cần lưu ý rằng:Mức độ "tụt hạng" năng lực cạnh tranh tăng trưởng của VN là rất lớn (tụt 26 bậc trong 3 năm). Việc xếp hạng năng lực cạnh tranh của WEF cho phép đặt VN vào sự so sánh quốc tế theo những chuẩn chung. Nó giúp định vị "tọa độ" của nền kinh tế nước ta trong "cuộc đua" toàn cầu trong khi bản thân VN không có phép đo nào khác để làm được việc đó.
Với cách nhìn như vậy, rõ ràng sự tụt hậu mạnh về sức cạnh tranh quốc gia và DN của VN trong mấy năm gần đây là điều không thể xem thường. Nó chứa đựng các hàm ý:
Một là, tuy VN có những bước tiến rõ rệt trong sự phát triển nền kinh tế thị trường, song có nhiều nước trên thế giới có đạt những bước tiến mạnh hơn. Do vậy, sự tụt hạng của VN cũng là bình thường, giống như khi VN thăng hạng do vượt được một số nước khác.
Hai là, VN đang định hướng cải thiện các lợi thế "tĩnh" hơn là ưu tiên xây dựng và phát triển các lợi thế cạnh tranh tương lai (tạo lợi thế "động").
muốn bứt phá để thoát khỏi tụt hậu, VN phải tăng mạnh mức tiết kiệm và đầu tư. Nhưng khi mức thu nhập cá nhân ngày càng chênh lệch và nếu mức tiết kiệm và đầu tư của VN so với các nước khác vẫn không thay đổi thì lượng tiết kiệm và đầu tư dự tính theo đầu người của VN sẽ ngày càng bé đi tương đối.
Vì vậy để làm rõ nguyên nhân của xu hướng tụt hạng – tụt hậu này, cần mổ xẻ nhiều vấn đề kinh tế - từ trình độ phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật cho đến cơ cấu thể chế kinh tế và năng lực điều hành vĩ mô của Nhà nước.
. Giải pháp để phát triển “bình đẳng và cân đối” giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Phát triển “bình đẳng và cân đối” giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của phát triển bền vững. Để thực hiện được vấn đề đó, cần phải:
Một là, thay đổi nhận thức của các chủ thể kinh tế theo định hướng mới cần thiết về phát triển kinh tế (cả cấp vĩ mô và vi mô) trong việc ngăn cản sự chuyển biến nhanh những nhận thức về sinh thái trong hoạt động kinh tế, chấm dứt cách tư duy: một nền kinh tế hài hòa với môi trường sẽ làm thiệt hại đến mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế thật cao là vấn đề trọng tâm cần làm trước còn việc bảo vệ môi trường thì sẽ thực hiện sau và có thừa tiền để sửa sai nếu xảy ra ô nhiễm môi trường…
Xã hội hoá giáo dục môi trường cần được thực hiện và triển khai nhanh chóng đối với các chủ thể kinh tế. Bởi lẽ, sự tác động vào môi trường tự nhiên một cách tự phát và gây thảm hoạ không chỉ cho môi trường tự nhiên mà còn tác động xấu đến sự tăng trưởng kinh tế khi những chủ thể này chưa nhận thức đúng đắn vai trò của môi trường, của công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động kinh tế.
Hai là, việc đưa các vấn đề môi trường vào trong quá trình lập kế hoạch phát triển quốc gia nói chung, trong phát triển kinh tế nói riêng phải được coi là một trong những giải pháp quan trọng để vượt qua thách thức về môi trường; cần sớm đưa bảo vệ môi trường thành một ngành kinh tế, thành chính sách kinh tế điều tiết hoạt động phát triển. Đó vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Do vậy, bên cạnh việc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân ở cả vĩ mô và vi mô, dài hạn và ngắn hạn cần có sự kết hợp việc khai thác tiềm năng với việc bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái nhằm đảm bảo PTBV.
Ba là, giảm thiểu giới hạn mâu thuẫn giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái thông qua việc thích ứng mục tiêu kinh tế và cách thức tác động nó vào nhu cầu sinh thái. Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong hệ thống tự nhiên, hệ thống tái tạo trong tăng trưởng kinh tê. Cần nắm vững quy luật của sự phát triển đều có giới hạn trong mỗi hệ sinh thái sử dụng trên nguyên tắc bảo vệ và phát triển bền vững. Phát hiện và khuyến khích mục tiêu hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng công nghệ mới, thực hiện chuyển giao công nghệ, thực hiện công nghệ “xanh và sạch”… trong hoạt động kinh tế.
Bốn là, áp dụng biện pháp kinh tế trong quản lý môi trường: đánh thuế các sản phẩm có thể và gây ô nhiễm môi trường, thu lệ phí với các hoạt động kinh tế gây ô nhiễm môi trường, cấm hoạt động đối với các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, kiên quyết xử lý các vi phạm về môi trường của các tổ chức, cá nhân theo Luật Môi trường ban hành; ưu đãi, đầu tư cho các hoạt động kinh tế thân thiện, cải thiện với môi trường tự nhiên.
Phát triển kinh tế mù quáng sẽ huỷ hoại môi trường. Song, phát triển một nền kinh tế với phương châm công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có ý thức, sáng suốt, có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, của toàn thể xã hội thì việc bảo vệ môi trường sẽ được đảm bảo. Đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường chính là thực hiện sự PTBV về tăng trưởng kinh tế, về bảo vệ môi trường.
9. Đánh giá khái quát về Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp cơ bản (một giải pháp anh chị cho là quan trọng nhẩt) nhằm nhằm nâng cao Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam?
Tổng quan về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Về xếp hạng của Việt Nam
Năng lực cạnh tranh của nền kinhh tế thể hiện cụ thể ở khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc vào sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tạo ra hàng hoá đó. Đến lượt mình thì hoạt động của các doanh nghiệp lại phụ thuộcvào luật lệ, thể chế và điều hành của chính phủ vào môi trường kinh tế vĩ mô tức là phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Tuy nhiên những giải pháp quan trọng cần tháo gỡ là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và của doanh nghiệp.
Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF - bắt đầu xếp hạng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 và liên tục xếp hạng cho đến nay. Vị trí của Việt Nam trong 3 năm qua là hạng 77/125 nước (năm 2006), hạng 68/131 (năm 2007) và hạng 70/131 (năm 2008).
Việc xếp hạng năng lực cạnh tranh cạnh tranh toàn cầu báo cáo được dựa trên năng lực cạnh tranh toàn cầu Index (GCI). Việc xếp hạng theo GCI bắt đầu từ năm 1997 và trong năm này Việt Nam xếp thứ năm 2000: 53/59, năm 2001: 60/75, năm 2002: 65/80 năm 2009: 75/134. Nếu so với những năm cuối của thế kỷ XX, năng lực cạnh tranh của nước ta đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp và không vững chắc và tụt hạng.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Những doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường cạnh tranh đã có sự đầu tư cho cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh: như thương hiệu, công nghệ, quản lý, nhân lực…
Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ. Chủ yếu các doanh nghiệp sử dụng công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài cũ kỹ, lạc hậu. Nhiều doanh nhân trình độ còn thấp kém, chưa qua đào tạo, chủ yếu là quản lý theo tâm lý chưa khoa học.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ:
Các sản phẩm dịch vụ được chia làm 3 nhóm: nhóm có năng lực cạnh tranh; nhóm có năng lực cạnh tranh có điều kiên; nhóm không có năng lực cạnh tranh.
Hiện nay nhóm có năng lực cạnh tranh,chủ yếu gồm những sản phẩm chưa qua chế biến, có lợi thế do thiên nhiên, tỷ lệ giá trị gia tăng thấp,hoặc sản phẩm chế biến có tỷ lệ lao động cao
Nhóm có năng lực cạnh tranh có điều kiện, gồm những sản phẩm thuộc cả ba ngành chính nông nghiệp, công nghiệp , dịch vụ, trong đó có những ngành có thể nhanh chóng trở thành những ngành có năng lực cạnh tranh.
Nhóm không có năng lực cạnh tranh chủ yếu những mặt hàng công nghệ cao, đòi hỏi kỹ thuật phát triển: sản xuất máy tính, điện tử.
Thành tựu
Độ mở cửa nền kinh tế
Ngân hàng thế giới WB cho hay, độ mở cửa của thương mại VN lên tới 150%.Hội nghị LHQ về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đã xếp Việt Nam đứng thứ sáu về sự hấp dẫn đầu tư năm 2009. Thành công được tóm tắt như sau:
Thứ nhất cơ chế xuất nhập khẩu được cải thiện rất nhiều
Thứ hai dỡ bỏ hạn chế đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
Tỷ giá ổn định, hủy bỏ yêu cầu kết hối ngoại tệ
Lao động:
+ Lực lượng lao động dồi dào: Xét về số lượng, VN có lực lượng lao động tương đối đông đảo và ngày càng tăng. Theo số liệu của tổng cục thống kê, lực lượng lao động của VN khoảng 44 triệu915 nghìn lđ, với mức tăng trung bình của dân cư trong tuổi lao động là 2.6% . Với lự lượng lao động như vậy, VN tránh được hiện tượng thiếu lao động mà các nước phát triển hoặc đang phát triển vướng phải.
+ Tỉ lệ tham gia lao động cao:
+ Giá cả sức lao động thấp:
Năm 2008, thu nhập bình quân cho lao là 2,651tr VNĐ, trong đó ở khu vực thành thị là 1028 nghìn, nông thôn là 822 nghìn.
Như vậy, nhìn chung giá cả sức lao động ở VN hiện vẫn được coi là tương đối rẻ và đang là một trong những lợi thế so sánh của thị trường lao động. Và đây là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư.
Khoa học công nghệ:
Năm 2002, Việt Nam đứng thứ 74/75 nước về trình độ CNTT, bị Indonesia và Philippines bỏ xa. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 1 năm, trình độ CNTT của ta vươn lên hàng 68/102 quốc gia và vượt hai nước ASEAN kể trên. Qua khảo sát 66 quốc gia và vùng lãnh thổ, VN đã tăng 5 bậc - từ vị trí 61 năm 2008 lên vị trí thứ 56 trong năm 2009. Trong số các chỉ số quan trọng, VN đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ khi tỉ lệ điện thoại di động tăng tới 78,7%, kết nối băng rộng tăng từ 0,8 lên 2,5/100 dân; VN cũng đã đạt 6,7 triệu thuê bao Internet và tỉ lệ máy tính xách tay đạt 14,7/100 dân. Chỉ số phát triển ICT toàn cầu năm 2009 tăng 15 bậc(từ 107 lên 92/154 quốc gia) so với năm 2008, và nằm trong top 10 quốc gia phát triển ICT nhanh nhất Thế giới.
hạn chế:
Độ mở cửa của nền kinh tế
Nhiều mức thuế khác nhau, bảo hộ trong nước còn cao.
Đầu tư nước ngoài còn cản trở ở khâu giải ngân, gần đây có sự giảm sút
Dịch vụ tài chính còn hạn chế ( thị trường chứng khoán còn bất ổn không ăn khớp với thế giới năm 2007)
Các dịch vụ nghiên cứu thị trường chưa phát triển vì vậy hàng hóa Việt Nam dễ bị thua kiệt vì thương hiệu hay không phù hợp với tâm lý người tiêu dùng trong nước.
Qua bảng cho thấy Việt Nam kém hẳn so với khhu vực và khu vực châu Âu là gần 1,5 lần.
Thể chế nhà nước
Thiếu nhiều quy định quan trọng một số nội dung chưa phù hợp với WTO
Môi trường kinh doanh chưa bình đẳng. Nền kinh tế thiếu minh bạch công khai
Quan liêu tham nhũng nhiều
Hệ thống tài chính, tiền tệ
Chưa phát triển, thiếu đa dạng, quy mô nhỏ
Năng lực đánh giá đầu tư thấp, công nghệ ngân hàng lạc hậu, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng còn cao, đặc biệt độ an toàn của ngân hàng không cao.
Lao động
Tuy lực lao động của nước ta nhiều nhưng lao động có chuyên môn thấp, sức khỏe chưa đáp ứng nhu cầu. Lao động còn có tác phong nông nghiệp. điều này là do đào tào lao động còn yếu, thị trường lao động chưa phát triển. vấn đề an sinh chưa thỏa đáng, thuế thu nhập cá nhân còn cao.
Trình độ công nghệ thông tin
Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam rất thấp, chủ yếu nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài cũ kỹ. Hơn nữa đầu tư cho phát triển công nghệ kỹ thuật chưa cao chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Giá sử dụng điện thoại, intenet còn khá cao so với khu vực.
Vai trò chính phủ
Chính phủ còn can thiệp vào hoạt động kinh doanh còn nhiêu tạo nên sự bảo trợ cho nền kinh tế, doanh nghiệp .. thủ tục hành chính cồng kềnh, sơ hở, tốn kém và bị lạm dụng. Đồng thời cán bộ tham nhũng thiếu chuyên nghiệp. Điều này làm tăng chí phí kinh doanh và thời gian.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.
Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động.
Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường.
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nội dung ôn tập môn kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên cnxh ở vn.doc