Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỘI DUNG VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH7 I. NỘI DUNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH7 1. Đầu tư7 1.1. Khái niệm7 1.2. Đặc điểm của đầu tư8 1.3. Phân loại đầu tư8 2. Đầu tư vào tài sản hữu hình. 8 2.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản hữu hình. 8 2.1.1. Khái niệm8 2.1.2. Đặc điểm9 2.2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình. 9 2.2.1. Đầu tư vào tài sản cố định. 10 2.2.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ. 10 2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình. 11 2.3.1. Khái niệm hiệu quả đầu tư. 11 2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư. 11 2.4. Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH12 3. Đầu tư vào tài sản vô hình. 13 3.1. Khái niệm và đặc điểm đầu tư vào TSVH13 3.1.1. Khái niệm13 3.1.2. Các đối tượng sở hữu trí tuệ. 15 3.1.3. Đặc điểm17 3.2. Các hình thức đầu tư vào TSVH17 3.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 18 3.2.2. Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ. 20 3.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing. 21 3.3. Đánh giá hiệu quả của đầu tư vào tài sản vô hình. 25 II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH28 1. Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình đối với đầu tư vào tài sản vô hình. 28 1.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở, nền tảng cho đầu tư vào tài sản vô hình. 28 1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình là động lực thúc đẩy phát triển tài sản vô hình. 29 2. Tác động của đầu tư vào tài sản vô hình đối với tài sản hữu hình.30 2.1. Đầu tư vào tài sản vô hình nâng cao giá trị của tài sản hữu hình.30 2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình thúc đẩy quá trình đất tư vào tài sản hữu hình. 31 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH34 I. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH34 1. Thực trạng đầu tư vào tài sản cố định. 34 1.1. Thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng. 34 1.1.1. Thực trạng về cơ sở hạ tầng của Việt Nam34 1.1.2. Thực trạng tình hình đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay. 34 1.2. Thực trạng về đầu tư vào hàng tồn trữ40 2. Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình. 42 2.1. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực. 42 2.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. 42 2.1.2. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực. 43 2.2. Thực trạng về đầu tư vào công tác nghiên cứu và triển khai các hoạt động KH-CN46 2.2.1. Thực trạng đầu tư cho nghiên cứu khoa học. 46 2.2.2. Thực trạng vi phạm bản quyền ở Việt Nam48 2.3.Thực trạng về đầu tư vào hoạt động Marketing 49 2.3.1.Thực trạng đầu tư vào nhãn hiệu 49 2.3.2.Thực trạng đầu tư vào thương hiệu .50 II .THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH .51 1.Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình đối với hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp .51 2.Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp .53 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ PHỐI HỢP CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP. I. XU HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020. 50 1. Bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay50 1.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện. 50 1.2. Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế. 51 2. Xu thế chung của việc đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình trong doanh nghiệp Việt Nam.52 II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP. 53 1. Đầu tư vào tài sản hữu hình. 53 1.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại53 1.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. 54 2. Đầu tư vào tài sản vô hình. 56 2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 56 2.2. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học công nghệ59 2.3. Đầu tư phát triển thương hiệu. 60 2.4. Vấn đề về việc xây dựng thương hiệu quốc gia hiện nay. 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO67

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước đã thực hiện nộp đăng ký và bảo hộ sáng chế cho 20000 nhãn hiệu hàng hóa và sáng chế của mình tại Nhật và nhiều quốc gia khác như Mỹ và Tây Âu; kết quả là công ty này đã trở thành một trong những chủ thể thu được giá trị tài chính từ hoạt động bảo hộ này lên tới con số 365 triệu USD năm 1996; công ty NEC đã đăng ký bảo hộ cho 2500 sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường Mỹ trong riêng năm 1998 và doanh nghiệp này đac dành ra 91 triệu USD cho các hoạt đông liên quan đến lập chiến lược thương hiệu và bảo hộ thương hiệu của mình, hoạt động đầu tư này đã đưa NEC đã đăng ký bảo hộ cho 2500 sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường Mỹ trong riêng năm 1998 và doanh nghiệp này đã dành ra 91 triệu USD cho các hoạt động kiên quan dến lập chiến lược thương hiệu và bảo hộ thương hiệu của mình, hoạt động đầu tư này đã đưa NEC trở thành một tập đoàn kinh tế có sức mạnh hàng đầu tại Nhật và trên thế giới về lĩnh vực chiến lược thương hiệu và bảo hộ sáng chế chỉ sau IBM và CANON. Với các doanh nghiệp VN, vấn đề thương hiệu mới chỉ bắt đầu được chú ý đến . Những doanh nghiệp nào vươn xa tới tầm quốc tế mới thực sự chú trọng đến . Còn với các doanh nghiệp trong nước , thương hiệu mới chỉ được đầu tư trong những năm gần đây . Và người tiêu dùng bắt đầu chú ý đến việc lựa chọn thương hiệu cho sản phẩm tiêu dùng của mình . Theo một cuộc điều tra của hãng dầu gội đầu cho biết : 90% khách hàng được hỏi đều trả lời rằng họ chỉ sử dụng những sản phẩm có thương hiệu và được khẳng định chất lượng rồi . Còn đối với những hãng không rõ xuất sứ hoặc không được nhiều người biết đến thì họ không lựa chọn . Hay như thị trường sữa ngày nay, hiện những sản phẩm sữa của Trung Quốc đều bị cấm bầy bán , và thậm chí là những sản phẩm có sử dụng nguyên liệu làm từ sữa của Trung Quốc đều bị cấm nhập khẩu . Điều quan trọng là nó không được người tiêu dùng chấp nhận nữa . Trong khi những sản phẩm sữa xuất xứ từ Hoa Kỳ thì luôn được đón nhận tại mọi thị trường . Điều đó chứng tỏ , thương hiệu là một chìa khoá thần kì mở đường cho sự phát triển của doanh nghiệp . Tuy nhiên , đi đôi với việc xây dựng thương hiệu là nâng cao chất lượng sản phẩm . Như vậy là việc xây dựng một thương hiệu là sự sống còn của các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong thị trường . Mặc dù , ý thức về thương hiệu đã được nâng cao hơn so với trước . Nhưng hiện , các nhà kinh tế Việt còn rất bị hạn chế khi hội nhập quốc tế Một trong các nguyên nhân quan trọng tạo ra sức ỳ trong hội nhập là các doanh nghiệp thiếu chiến lược về thương hiệu.Chính vì vậy , phải có những giải pháp để tìm ra lối đi cho sự phát triển thương hiệu Việt . II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH Ở VIỆT NAM 1.Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình đối với hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp Đầu tư vào tài sản hữu hình là điều kiện tiên quyết và cơ bản làm tăng tiềm lực về tài sản vô hình.Điều này được minh chứng cụ thể trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam . Khi doanh nghiệp đã bỏ vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình như: nhà xưởng, văn phòng làm việc, phòng thí nghiệm, mua sắm và trang bị các loại máy móc thiết bị phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn... điều này sẽ là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệpvà nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong nền kinh tế . Công ty Viettel là một ví dụ . Được thành lập vào năm 1989, với tên ban đầu là Tổng công ty Điện tử Thiết bị Thông tin và đến năm 2003, đã được đổi tên thành công ty Viễn thông Quân đội (Viettel), hoạt động trong các lĩnh vực điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, Internet. Sản xuất, lắp ráp, sửa chữa và kinh doanh các thiết bị điện tử thông tin, angten thu phát vi ba số. Đồng thời, khảo sát, thiết kế, lắp dự án công trình bưu chính viễn thông.Viettel bắt đầu từ lượng khách hàng khiêm tốn và hạn chế .Từ năm 1998, Viettel đã được Bộ Bưu chính Viễn thông Việt Nam cấp giấy phép kinh doanh 6 loại hình dịch vụ về bưu chính viễn thông.Với sự nỗ lực của mình ,bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm , và phát triển thị trường ,xây dựng hàng loạt các đại lý Viettel , các chi nhánh ở khắp các thành phố lớn và liên tục mở rộng về các địa phương trên cả nước , đến nay , Viettel đã có tới hơn 20 triệu khách hàng .Đồng thời thương hiệu Viettel đã trở nên nổi tiếng và thân thuộc với khách hàng dùng các dịch vụ bưu chính viễn thông trên cả nước . Đó chỉ là ví dụ nhỏ trong hàng loạt các doanh nghiệp nổi tiếng . Tất cả đều bắt đầu từ những giá trị hữu hình nhất định . Ngoài ra , việc doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào tài sản hữu hình sẽ làm tăng khả năng tạo nguồn cho doanh nghiệp đổi mới, tránh sự tụt hậu về công nghệ sản xuất, dần dần đuổi kịp các nước trong khu vực. Từ đó sẽ tạo ra tiềm lực để doanh nghiệp đầu tư vào tài sản vô hình: phát minh sáng chế, kĩ thuật công nghệ mới, nghiên cứu phát triển kiêu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và phát triển nguồn nhân lực. Nếu việc đầu tư vào tài sản hữu hình không được chú trọng, trình độ trang thiết bị máy móc lạc hậu, công nghệ chậm đổi mới sẽ gây cản trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp, kết quả tất yếu của viêc này sẽ là hiệu quả sản xuất thấp, số lượng sản phẩm nghèo nàn, chất lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp từ đó doanh nghiệp sẽ không có vốn để đầu tư vào các hoạt động chăm sóc khách hàng, dịch vụ hậu mãi, chi phí nghiên cứu thị trường. Đầu tư vào tài sản hữu hình thường là đi trước và là cơ sở tiền đề để đầu tư vào tài sản vô hình.Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình phần lớn là tác động tích cực tạo đà cho đầu tư vào tài sản vô hình . 2. Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp. Đầu tư vào tài sản vô hình tạo điều kiện thúc đẩy cho đầu tư vào tài sản hữu hình. Trong quá trình hội nhập hiện nay đang và sẽ đang có rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường nước ta. Nếu doanh nghiệp không xây dựng được thương hiệu uy tín trên cơ sở giá cả và chất lượng hợp lý thì khó có thể cạnh tranh. Nhưng một khi doanh nghiệp đã quan tâm vào đầu tư vào tài sản vô hình một cách hợp lý thì sẽ tạo cơ hội phát triển kinh doanh lớn, lợi nhuận tăng. Đầu tư vào tài sản vô hình lại tiếp tục tác động trở lại đối với đầu tư vào tài sản hữu hình vì nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô, tiếp tục có vốn để đầu tư mua sắm thiết bị máy móc mới hiện đại hơn, xây dựng mới nhà xưởng, văn phòng làm việc …Chẳng hạn nếu đầu tư vào công nghệ mới sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn, giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm, từ đó tăng sức cạnh tranh trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp ngày một tăng trưởng và phát triển, tăng thêm nguồn vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình. Hoặc khi một doanh nghiệp tạo dựng được một thương hiệu mạnh thì sẽ mang về một doanh thu lớn từ việc cho thuê thương hiệu hoặc doanh thu bán hàng do uy tín của thương hiệu mang lại và đồng vốn đó lại tiếp tục đầu tư đổi mới gia tăng tài sản hưu hình. Ngày nay, xu thế chủ yếu là đầu tư vào tài sản vô hình và không ít doanh nghiệp có tỉ trọng giá trị tài sản vô hình cao hơn gấp nhiều lần so với tài sản hữu hình như Microsoft, Uniliver… Nói cho cùng đầu tư vào tài sản hữu hình cũng chỉ nhằm mục đích tạo ra một giá trị vô hình ngày càng lớn. Tài sản vô hình ngày nay được công nhận và nó được tính toán thành giá trị cụ thể, có thể được mua bán trao đổi trên thị trường. Tác động của đầu tư vào đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản hữu hình hầu hết là tác động tích cực bởi vì một sự đầu tư đúng đắn vào tài sản vô hình sẽ tác động làm gia tăng tài sản hữu hình. Nhưng ngược lại một sự đầu tư không hợp lý vào tài sản vô hình sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình. Nhìn chung, hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu doanh nghiệp xác định được một cơ cấu đầu tư hợp lý, hướng đầu tư đúng đắn thì 2 bộ phận đầu tư này sẽ có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng ngành, từng lĩnh vực, vai trò của từng hoạt động đầu tư đối với các hoạt động đầu tư khác cũng như tác động của đầu tư đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là rất khác nhau. Điều đó đặt ra nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp trong việc xác định một cơ cấu đầu tư hợp lý. Interband đã thực hiện một nghiên cứu và đưa ra được mức độ của giá trị tài sản vô hình và giá trị nhãn hiệu đối với từng hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Bảng 2 : Định giá TSHH và TSVH trong một số loại hàng hoá Đơn vị: % Sản phẩm và dịch vụ Giá trị hữu hình Giá trị nhãn hiệu Giá trị vô hình khác Mặt hàng thiết yếu Sản phẩm công nghiệp Sản phẩm dược Dịch vụ bán lẻ Công nghệ thông tin Xe ô tô Dịch vụ về tài chính Thức ăn và nước uống Hàng cao cấp 70 70 40 70 30 50 20 40 25 0 5 10 15 20 30 30 55 70 30 25 50 15 50 20 50 5 5 (Nguồn: trang 16 các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình- Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật Hà Nội 2005.Tác giả Đoàn Văn Trường) Sự đầu tư đồng bộ giữa tài sản vô hình và tài sản hữu hình là điều tối quan trọng trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nó quyết định sức sản xuất, tiêu thụ và trưởng thành của doanh nghiệp. Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể, tuỳ vào cách thức định vị sản phẩm trên thị trường mà doanh nghiệp xác định chiến lược đầu tư phù hợp giữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ PHỐI HỢP CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP I. XU HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 1. Bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm 2002: 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá trong nước và quốc tế, mặc dù Việt Nam đạt được những kết quả tăng trưởng cao, nhưng đó là những kết quả tăng trưởng theo chiều rộng chứ chưa có sức bật tăng trưởng theo chiều sâu. Việt Nam vẫn đang ở trong ranh giới của những nước kém phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc. 1.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8 lần. Quốc hội khoá XII đạt mục tiêu vượt ngưỡng “ nước đang phát triển có thu nhập” ngay trong năm 2008.GDP bình quân đầu người dự kiến nay đạt 960 USD.Năm 2010 dự kiến đạt 1050- 1100 USD. - Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể: Năm 2006, HDI của Việt Nam đạt 0,709, cao hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. - Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Đến nay ở Việt Nam có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,9% xã có trường tiểu học và 99% các xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã đạt được hoặc vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. - Cơ cấu kinh tế: có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu năm 1990, ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP, thì đến năm 2006 giảm còn 20,4%. Trong khi đó, các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng tương ứng từ 22,7% lên 41,5%. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở mức khoảng 38%. Xét trong từng nhóm ngành, cơ cấu ngành kinh tế cũng có sự thay đổi tích cực. Trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm, nhường chỗ cho ngành thủy sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ cũng thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch,... - Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Việt Nam đã có Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1987, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (năm 1991). Tiếp theo đó là hàng loạt đạo luật quan trọng để vận hành nền kinh tế thị trường đã ra đời như Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường, Luật Lao động … 1.2. Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế - Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng tác động của 2 nhân tố vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học - công nghệ tới tăng trưởng. Ngay cả khi phát triển theo chiều rộng, yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng GDP lại là vốn, mà Việt Nam bị thiếu vốn, đang phải đi vay rất nhiều (vừa vay, vừa hoàn trả vốn, với số lãi mà ngân sách phải trả hằng năm chiếm gần 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó, việc sử dụng vốn đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế thấp thể hiện rõ qua sự tăng nhanh của hệ số ICOR - Lao động + Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. + Tỷ lệ lao động được đào tạo không có việc làm hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ Ngoài ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động khả năng vận dụng thực tiễn rất yếu. - Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp thể hiện cả ở yếu tố đầu ra.. Hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế, hàng gia công hiện vẫn chiếm tỷ trọng khá cao ¾ kim ngach xuấy khẩu .Kim ngạch nhập khẩu lẫn tỷ lệ nhập siêu tăng nhanh. Năm 2007 thâm hụt cán cân thương mại đã lên đến trên 10 tỉ USD, tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước. + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và lạc hậu. + Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng đồng thời với quá trình giảm nghèo. + Tài nguyên môi trường chưa được khai thác hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia tăng. Các doanh nghiệp chạy theo mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng phá huỷ môi trường gần đây như vụ việc của công ty VEDAN… + Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có xu hướng tăng. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể như sau: thể chế kinh tế xếp thứ 74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô xếp thứ 53; giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56; giáo dục đại học xếp thứ 90; hiệu quả của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85... Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Xin-ga-po xếp thứ 26, Thái Lan xếp thứ 35, In-đô-nê-xi-a xếp thứ 50, Phi-lip-pin xếp thứ 71, Cam-pu-chia xếp thứ 103. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Cam-pu-chia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa được xếp hạng về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Xu thế chung của việc đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình trong doanh nghiệp Việt Nam. Theo dự báo, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục đầu tư mạnh vào nước ta trong những năm tới, do vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định và môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, nguồn nhân lực lại chưa phát triển và đủ tầm đi trước một bước, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư. Chính yếu tố này sẽ góp phần khiến dòng vốn đầu tư giảm dần, không đủ hấp dẫn nhà đầu tư. Dễ dàng nhận thấy, sắp tới, kinh tế Việt Nam sẽ phải chuyển hướng dần sang những ngành có lượng chất xám cao hơn, thay vì tập trung nhiều ngành có lao động giá rẻ, tạo giá trị gia tăng thấp. Nếu, với lượng vốn đầu tư nước ngoài năm nay cần lượng lao động có ở mức độ X, chất lượng ở mức độ Y nhưng giải sử phải 5 năm sau chúng ta mới đáp ứng được thì buộc phải chuyển hướng cho lượng vốn đầu tư này để tránh lãng phí và thu được hiệu quả cao hơn. Một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO thị trường lao động cấp cao ngày càng nóng bỏng đặc biệt trong ngành dịch vụ tài chính, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn, pháp lý, bất động sản & công nghệ thông tin, viễn thông. - Rất nhiều quỹ đầu tư và tư vấn tài chính xuất hiện mới ở Việt Nam. Do đó, nhiều công ty chứng khoán, ngân hàng bán lẻ trong và ngoài nước đã và đang có kế hoạch khuếch trương mở chi nhánh nhưng nguồn nhân lực không đủ đáp ứng nhu cầu - Bảo hiểm: nhu cầu về bảo hiểm phi nhân thọ ngày càng cao và phát triển mạnh.Dịch vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và hoàn thiện hơn.Hàng loạt các công ty bảo hiểm ra đời ở Việt Nam ,theo đó là hàng loạt các công ty Bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường Bảo hiểm nước ta. - Đối với các ngành công nghiệp và xây dựng , vốn đỏi hỏi lớn , và hiện nay nước ta đang tập trung phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn ,Tăng cường đầu tư vào công nghệ, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại. Phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới , nhận thức của doanh nghiệp ngày càng nâng cao về vấn đề tài sản vô hình trong doanh nghiệp: doanh nghiệp đang và sẽ tìm kiếm, giữ chân người tài - yếu tố sống còn của doanh nghiệp và tiến hành hàng loạt các biện pháp nhằm nâng cao giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp mình. II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP 1. Đầu tư vào tài sản hữu hình 1.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại - Điều chỉnh, phê duyệt, công bố quy hoạch kết cấu hạ tầng cơ sở đến năm 2020 - Hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện Luật Xây Dựng, Luật Đấu Thầu, Luật Đầu tưvà các thông tư hướng dẫn thực hiện các nghị định liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản - Cơ chế khuyến khích đầu tư đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: tạo điều kiện nhanh chóng giải phóng mặt bằng dự án, hỗ trợ thuế đất đai thuế thu nhập doanh nghiệp. - Cải cách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện các thủ tục về giải thể và phá sản, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp - Nhà Nước bổ sung vốn thi công hoàn thành các dự án cấp bách đáp ứng nhu cầu phát triển. Mức độ tham gia đầu tư cuả Nhà Nước tuỳ thuộc vào từng dự án, nhưng thông thường nên đầu tư khoảng từ 30- 50 % kinh phí đầu tư cho một dự án. - Không để nợ đọng vốn nhất là trong thời điểm hiện nay - Rà soát các dự án đầu tư - Trong thời điểm hiện nay do lạm phát tăng cao nên để duy trì và khuyến khích việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thì Bộ Xây Dựng chủ động phối hợp với các bộ, ngành tìm biện pháp xử lý như: Đề nghị UBND cấp tỉnh chỉ đạo việc công bố giá VLXD tại địa phương để các chủ đầu tư xem xét áp dụng, vận dụng phục vụ quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; thời điểm để tính chênh lệch vật liệu là thời điểm nghiệm thu khối lượng hoàn thành theo giai đoạn, có thể theo tháng, quý hoặc giai đoạn quy định trong hợp đồng; dự toán chi phí xây dựng bổ sung lập một lần trên cơ sở khối lượng đã thực hiện và khối lượng còn lại chưa thực hiện của hợp đồng, để xem xét sau khi điều chỉnh có vượt tổng mức đầu tư hay không để người có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh. Trường hợp sau khi điều chỉnh tiếp tục có biến động giá VLXD làm vượt dự toán đã bổ sung thì vẫn được thực hiện điều chỉnh tiếp; để đẩy nhanh tiến độ dự án, đồng thời giảm thiệt hại cho nhà thầu thì chủ đầu tư được phép tạm duyệt dự toán bổ sung để làm cơ sở tạm ứng, tạm thanh toán cho nhà thầu trong khi chờ làm các thủ tục điều chỉnh; sau khi xác định dự toán bổ sung, trường hợp dự toán bổ sung không làm vượt tổng mức đầu tư thì chủ đầu tư tự phê duyệt dự toán điều chỉnh; trường hợp làm vượt tổng mức đầu tư, chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư xem xét quyết định việc cho phép điều chỉnh, nếu được người quyết định đầu tư cho phép điều chỉnh thì chủ đầu tư tạm duyệt dự toán bổ sung, tạm ứng, tạm thanh toán cho nhà thầu trong khi chờ phê duyệt chính thức. 1.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả - Huy động vốn Giải pháp huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước được xem là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của phát triển kinh tế - xã hội Chính phủ cần đánh giá một cách toàn diện và xử lý hợp lý mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước và ngoài nước theo hướng đảm bảo nợ quốc gia nằm trong phạm vi kiểm soát được. Chỉ đạo các bộ, ngành lập kế hoạch thu hút và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn vốn. Cần định hướng về thu xếp vốn cho các dự án có tổng vốn đầu tư lớn, các dự án lớn nên cơ cấu tỷ lệ vốn trong nước, vốn nước ngoài, vốn của NHTM, vốn từ ngân sách nhà nước, vốn của chủ đầu tư...) Bộ Tài chính, NHNN phối hợp hoàn chỉnh khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thị trường vốn, tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường dịch vụ tài chính. Bộ Tài chính phối hợp Bộ Tài nguyên Môi trường xây dựng và phát triển thị trường bất động sản một cách lành mạnh, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và thị trường nhà ở đô thị nhằm giải phóng và phát huy nguồn lực đất đai vào phát triển kinh tế Tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả cuả các dự án đầu tư;duy trì sự ổn định chính trị xã hội Xác định rõ những ngành, lĩnh vực, công trình bắt buộc nhà nước phải đầu tư triệt để và toàn bộ. Những lĩnh vực còn lại cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể để huy động vốn đầu tư của toàn xã hội theo một cơ chế đầu tư minh bạch và thuận lợi, không phân biệt thành phần kinh tế. - Cổ phần hoá Bộ Tài chính cần nghiên cứu phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động nguồn lực có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội. Trước khi CPH cần có cơ chế khuyến khích người lao động như việc bán cổ phần cho CBCNV một cách hợp lý,người lao động nắm cổ phần sẽ có trách nhiệm hơn với công ty, doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN, đặc biệt là tiến trình cổ phần hoá DNNN. Định giá đúng và công khai, minh bạch mọi thông tin trước khi bán cổ phần để nâng cao hiệu quả thu hút vốn từ các nhà đầu tư. Cổ phần hoá theo đúng lộ trình từ nay đến hết năm 2009. Cần phát triển m ạnh thị trường trái phiếu, kể cả trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đa dạng hoá các loại trái phiếu, ph ương thức phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu ch ính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà Nước của Hệ thống giám sát, xử lý nghiêm gian lận và gian dối về tài chính trong hoạt động chứng khoán. Hình thành ngay các tổ chức tín nhiệm, giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế. - Sử dụng vốn Tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên sau: - Đầu tư vào công trình trọng tâm trọng điểm quốc gia tạo nền tảng cho sự phát triển - Các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí ché tạo sử dụng vật liệu mới và năng lượng mới, công nghiệp lọc hoá dầu và công nghiệp phụ trợ … - Đầu tư cho công nghệ sinh học, đặc biệt trong khâu sản xuất giống chất lượng cao, nuôi trồng, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. - Phát triển và nâng cao các ngành dịch vụ chất lượng cao nhatá là du lịch vận tải biển, hàng không. - Sử dụng vốn đầu tư đặc biệt phải nhận thức được tính chất 2 mặt của vốn đầu tư.Nâng cao nhận thức của người sử dụng vốn, tránh đầu tư tràn lan, dàn trải.Hận chế được mặt tiêu cực của nguồn vốn. 2. Đầu tư vào tài sản vô hình 2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực - Cải cách hệ thống giáo dục đào tạo + Thứ nhất là xác lập các yêu cầu mới về chuẩn tri thức, kỹ năng và hành vi của giáo dục phổ thông và đào tạo nghề. Trong đó, công bố chương trình chuẩn giáo dục phổ thông cho giáo dục hiện nay; nhấn mạnh các yêu cầu hành vi như chủ động, hoạt động tập thể, vận dụng sáng tạo, biết tự học, biết khai thác thông tin qua mạng, trung thực; nhấn mạnh các giá trị văn hóa dân tộc làm nền tảng cho phát triển bền vững quốc gia và cá nhân; chú trọng đào tạo và ứng dụng ngoại ngữ, tin học trong học tập, làm việc. + Thứ hai là phát triển nhanh đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý giáo dục theo yêu cầu của thời kỳ sau 2010. Cụ thể như: Triển khai chương trình đào tạo đổi mới phương pháp giảng dạy cho gần 1 triệu giáo viên phổ thông từ 2007 - 2010; Triển khai chương trình đào tạo 20.000 tiến sĩ làm giảng viên cho ĐH, CĐ từ 2007 - 2020, trong đó 10.000 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài; Bồi dưỡng tất cả các hiệu trưởng các trường phổ thông và ĐH - CĐ theo chương trình chuẩn về quản lý giáo dục từ 2007 - 2010; Tăng lương cho tất cả các nhà giáo, cải thiện điều kiện làm việc của nhà giáo. + Thứ ba là triển khai mạnh mẽ đào tạo theo nhu cầu xã hội. Tập trung triển khai 10 năm (2008 - 2018) nâng cao chất lượng đào tạo và khả năng sử dụng tiếng Anh của người Việt; thành lập trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực; triển khai đào tạo theo đặt hàng của các ngành, Cty lớn quan sự liên kết giữa 3 bên như cơ sở đào tạo - DN - cơ quan Nhà nước; tại các tỉnh thành có KCN lớn, Bộ GDĐT, Bộ LĐTBXH và BQL các KCN phối hợp hình thành các trung tâm cung ứng nhân lực, phục vụ nhanh, hiệu quả nhu cầu của các nhà đầu tư; xây dựng chợ kỹ thuật trên mạng; liên kế tới các ĐH nước ngoài để phát triển các ngành đào tạo có trình độ quốc tế; khuyến khích ĐH tư thục, trường dạy nghề tư thục phát triển, thu hút các ĐH, trường nghề nước ngoài mở cơ sở tại VN; thực hiện kiểm định chất lượng ĐH (từ 2006) và công bố xếp hạng các ĐH từ 2007. + Thứ tư là đổi mới cơ chế tài chính như nâng cao học phí các trường ĐH; phát triển các chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo, khuyến khích sinh viên học giỏi; khuyến khích các trường phổ thông tư, các trường dạy nghề tư và các trường ĐH, CĐ tư ra đời và hoạt động hiệu quả; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào GDĐT. - Đổi mới cách quản lý Khi thay đổi cách quản lý, nhân viên sẽ tự ra quyết định lấy. Các bước trong quá trình được thực hiện theo thứ tự tự nhiên và tồn tại dưới nhiều hình thức. Để thích ứng với môi trường ngày nay, chúng ta cần tạo ra quá trình với nhiều hình thức đa dạng. Mỗi hình thức đó được điều chỉnh phục vụ hợp với yêu cầu thị trường khác nhau, tình huống khác nhau và đầu vào khác nhau. Hơn nữa, các quá trình mới này cần có tình kinh tế theo quy mô như nhau, xuất phát từ nền sản xuất đại trà. Những quá trình cổ điển: "chỉ một cỡ thôi là vừa với mọi trường hợp" thường rất phức tạp vì nó phải đưa tất cả các thủ tục đặc biệt, các trường hợp ngoại lệ để xử lý được nhiều tình huống trên phạm vi rộng. Việc thay đổi hệ thống quản lý cũng biến tính chất công việc thay đổi từ đơn giản hóa thành đa dạng hóa. Vai trò của người lao động thay đổi từ bị giám sát thành uỷ quyền. Các biện pháp khuyến khích và cách trả công thay đổi. Theo đó, sẽ tăng tiền thưởng và việc đề bạt lên một vị trí mới sẽ được xem xét bằng năng lực chứ không phải là thành tích cũ. Các tiêu chuẩn giá trị cũng thay đổi với tiêu chuẩn giá trị mới. Cơ cấu tổ chức của các công ty thay đổi từ hình bậc thang chuyển sang bằng phẳng. Việc này cũng dẫn tới cán bộ điều hành của các công ty thay đổi, họ sẽ từ những người theo dõi số liệu trở thành nhà lãnh đạo. Họ cần gây ảnh hưởng và củng cố giá trị tinh thần và niềm tin cho nhân viên bằng lời nói và việc làm của mình. Cuối cùng, đó là cách giải quyết vấn đề cũng thay đổi. Việc uỷ quyền ra quyết định cho các nhân viên làm việc ở tuyến đầu trở nên rất quan trọng.Ngoài ra cần cung cấp cho họ các công cụ giúp việc ra quyết định. Khi có thể tiếp cận được các dữ liệu cùng với trang bị công cụ phân tích và mô hình nào đó có thể sử dụng thì các nhân viên ở tuyến đầu, nếu được huấn luyện thích hợp cũng có thể có được năng lực ra quyết định khi gặp tình huống phức tạp. Nhờ đó, việc ra các quyết định sẽ nhanh chóng hơn và các v n đề sẽ được xử lý ngay sau khi nó nảy sinh. - Chăm lo về sức khoẻ, y tế. + Nâng cao một bước sức khỏe toàn dân theo quan điểm dự phòng tích cực, giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân thể nâng cao hiệu quả trị bệnh. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền, đa dạng hóa và kết hợp đồng bộ các loại hình phòng bệnh và chữa bệnh. + Bằng mọi biện pháp giáo dục cho nhân dân kiến thức về dinh dưỡng và chăm lo sức khỏe ban đầu cho nhân dân, thực hiện chế độ dinh dưỡng và cơ cấu khẩu phần ăn theo lứa tuổi. Từng bước giảm dần và tiến tới xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng, nâng dần chiều cao cho thế hệ trẻ tuổi vào cuối thế kỷ XXI. + Đầu tư và giáo dục kiến thức vệ sinh môi trường, giải quyết tốt nguồn nước cho sinh hoạt ở khu vực đô thị và nông thôn, xử lý rác thải đặc biệt là các loại rác thải công nghiệp nhà máy, đề ra những biện pháp xử phạt thật nghiêm minh với tổ chức vi phạm nh ằm cảnh báo và răn đe. Nâng cao chất lượng vệ sinh, thanh tóan cơ bản các loại bệnh dịch truyền nhiễm, ký sinh trùng, 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em. Ngăn chặn và phòng ngừa chủ động nguy cơ AIDS. + Tập trung đầu tư để củng cố tuyến y tế cơ sở (chú trọng đặc biệt với công tác đào tạo đội ngũ y bác sỹ và cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành). Nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các bệnh viện, trạm xá, đủ sức đáp ứng các nhu cầu về khám bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu và dịch vụ kế hoạch gia đình. Hình thành ở các thành phố, thị xã các trung tâm y tế đủ sức chữa bệnh cho người nước ngoài và khách du lịch. + Đẩy mạnh và hiện đại hóa công nghiệp chế biến dược liệu tại chỗ và liên doanh sản xuất với bên ngoài. + Xã hội hóa ngành y tế, giải quyết tốt các vấn đề có liên quan như giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí. Cải tạo môi trường sống và lao động theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. 2.2. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học công nghệ Sự phát triển của khoa học công nghệ - lực lượng trực tiếp thúc đẩy phát triển sản xuất. Để đẩy mạnh phát triển hoạt động khoa học ở nước ta, chúng ta cần phải giải quyết tốt nhiều vấn đề, trong đó cần đặc biệt chú ý tới việc tạo môi trường và động lực cho các nhà khoa học để họ có thể cống hiến nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình cho nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quan tâm hơn nữa vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ đầu ngành, gắn kết nghiên cứu và giảng dạy, tăng cường hợp tác quốc tế. Theo các nhà nghiên cứu, có sáu giải pháp phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học: - Thứ nhất, tạo động lực cho nhà khoa học. Như chúng ta đã biết, đối với nhà khoa học có bốn vấn đề quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Đó là: Niềm say mê và khát vọng sáng tạo khoa học, điều kiện làm việc, thu nhập và sự tôn vinh xã hội. Niềm say mê và khát vọng sáng tạo khoa học thuộc về bản chất của người làm khoa học chân chính. Nó là đặc điểm phân biệt nhà khoa học, nghề làm khoa học với những ngành, nghề khác. Điều này giải thích tính cách của nhà khoa học trong cuộc sống hằng ngày và trong các mối quan hệ xã hội. Điều kiện làm việc rất quan trọng đối với nhà khoa học, bởi những đặc thù lao động trí óc: Cần tập trung tư tưởng cao độ, sự sáng tạo chỉ diễn ra ở những thời điểm nhất định và trong độ tuổi nhất định. Do vậy, cần tạo những đều kiện làm việc tốt cho nhà khoa học, như các trang thiết bị, phòng làm việc, người giúp việc... Về thu nhập: Lao động trí óc là loại lao động phức tạp, mang đặc thù riêng, đòi hỏi quá trình tích lũy kiến thức lâu, có khi đến hàng chục năm, quá trình đào tạo dài, nhưng có tác động lớn đến sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, thu nhập của nhà khoa học phải tương xứng với những đóng góp của họ và cũng phải đủ để trang trải những nhu cầu tối thiểu. Có như vậy, nhà khoa học mới toàn tâm, toàn ý cho công việc và sẽ không xảy ra lãng phí hoặc trôi chảy chất xám. Sự tôn vinh của xã hội là hậu quả tất yếu của sự thành đạt của nhà khoa học. Tuy nhiên, nó cũng có tác dụng tích cực trở lại đối với người làm khoa học, nhất là đối với những người có ý định theo con đường khoa học. Ở đây điều đặc biệt quan trọng đối với nhà khoa học là sự công bằng trong đánh giá. - Thứ hai, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm việc đào tạo đội ngũ cán bộ đầu ngành thế hệ mới trong lĩnh vực KHCB với một hệ thống các chính sách nhằm khuyến khích học sinh giỏi theo học v.v... và làm việc trong các ngành KHCB (cung cấp học bổng, được học tại các trung tâm chất lượng cao trong nước và ngoài nước, được bố trí công việc ngay sau khi tốt nghiệp và được trả lương thỏa đáng...). Tận dụng các nhà giáo, nhà khoa học cao tuổi để bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu KHCB. - Thứ ba, kết hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, giữa viện nghiên cứu và trường đại học. Mạnh dạn chuyển một số viện nghiên cứu về các trường đại học và cho phép viện mở các trung tâm đào tạo sau đại học. - Thứ tư tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, thu hút sự tham gia của các nhà khoa học quốc tế hàng đầu và trí thức Việt kiều trong việc phát triển KHCB ở Việt Nam. Xúc tiến thường xuyên các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và cử cán bộ tham gia các hội nghị khoa học quốc tế. Xây dựng một số trung tâm nghiên cứu và đào tạo vào loại hàng đầu của Đông - Nam Á trong lĩnh vực khoa học - Thứ năm, thành lập Quỹ nghiên cứu cơ bản thay cho hình thức Hội đồng Khoa học tự nhiên hiện nay, nhằm cấp phát kinh phí nghiên cứu trực tiếp đến người nghiên cứu. - Thứ sáu, tăng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, tiến tới đạt 10% tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu khoa học - công nghệ. 2.3. Đầu tư phát triển thương hiệu Để giải bài toán thương hiệu một cách hiệu quả, doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu theo mô hình riêng phù hợp với doanh nghiệp mình. Những vấn đề cốt lõi: - Một là, vấn đề về nhận thức Thương hiệu là chiến lược của kinh doanh, do đó muốn xây dựng được một thương hiệu mạnh, các doanh nghiệp phải xác định mục tiêu, tìm hiểu thông tin thị trường và tâm lý người tiêu dùng, kể cả kênh phân phối. Đồng thời thực hiện và kiểm tra kết quả thị trường trước khi xây dựng chiến lược và kế hoạch cụ thể. Các doanh nghiệp cần được đào tạo bản về chiến lược thương hiệu. Đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành đạt cần được sự quan tâm không chỉ của những nhà quản lý mà phải thông qua chương trình hỗ trợ quốc gia vế giúp nhận thức về chiến lược thương hiệu trong hội nhập. Các chương trình đào tạo cần được mở rộng không ngừng cả về đối tượng tham gia cũng như các khu vực kinh tế trong nước, thay vì chỉ thông qua một số đại biểu được mới đi dự hội thảo như cách thức tiến hành phổ biến như hiện nay. Các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng những chiến lược sở hữu trí tuệ cho mình. Chủ động xây dựng chiến lược sở hữu trí tuệ trước hết thể hiện ở sự chủ động đầu tư nguồn lực cho các hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hang hoá tại nước ngoài.Công việc này đòi hỏi chi phí lớn, song để hội nhập thành công thì hoạt động này vẫn phải được đánh giá cao.Chủ động ứng xử với những tranh chấp về sở hữu trí tuệ. Xây dựng thương hiệu phải thu hút được nhân viên tham gia.Cần đầu tư và đánh giá cao những sáng kiến và giải pháp hữu ích của đội ngũ nhân sự.Khi đội ngũ nhân sự thực sự trở thành chủ thể của sáng tạo thì sức sáng chế của doanh nghiệp là vô tận. Những chương trình cam kết thương hiệu thành công luôn giáo dục và cho phép nhân viên thể hiện được thương hiệu trong vai trò hàng ngày của họ. Họ nâng thương hiệu lên vị trí trung tâm, nơi mà nó trở thành tiêu điểm của tất cả mọi việc, cả công ty và nhân viên đều nghĩ và làm vì nó. Với một cách nghĩ mới, thương hiệu trở nên không chỉ là phương tiện truyền thông với thế giới bên ngoài mà còn là trung tâm của chọn lựa và quyết định. Kết quả là một sự biến đổi trong hoạt động của công ty và quan trọng hơn đó là việc đưa sự trải nghiệm khác biệt đến với khách hàng. Nói thì dễ hơn là làm. Đặt thương hiệu vào trung tâm của việc kinh doanh là một nổ lực lâu dài không phải chuyện một sớm một chiều. - Hai là, định vị thương hiệu Cơ sở của định vị thương hiệu là sự khác biệt. Điểm khác biệt đóng một vai trò cực kỳ quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của một thương hiệu. Sự khác biệt là lợi thế để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng và đó cũng là yếu tố để thuyết phục họ chuyển đổi từ sản phẩm đang dùng sang sản phẩm mới. Bí quyết thành công của một sản phẩm mới là tìm ra những ý tưởng chứa đựng sự khác biệt rõ ràng, có sức thuyết phục. Định vị thương hiệu phải phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Phải thường xuyên cải tiến tăng cường thêm sự sống động cho sản phẩm. Chú trọng đến phát triển mạng lưới phân phối. Muốn định vị thành công mạng lưới phân phối phải mạnh. Có thể tăng cường hiệu quả phân phối bằng cách :phân phối các giá đựng hàng để người bán hang thuận tiện trong việc lưu giữ các sản phẩm.; tập trung vào các điểm bán lẻ thông thường nhất, đặc biệt phân phối cần mang phông cách địa phương thích hợp. Thực hiện một số sáng kiến tiếp xúc khách hàng độc đáo nhằm thu hút sự chú ý đặc biệt .Cụ thể là: - Lựa chọn Slogan : Slogan của một công ty hay một thương hiệu sản phẩm phải xứng đáng là một câu danh ngôn, nâng tầm thương hiệu.Hiện nay có thể đơn cử một vài slogan được đánh giá cao và gây được thiên cảm nơi khách hàng : Habubank: Giá trị tích luỹ niềm tin Cà phê Trung Nguyên: Khơi dòng sáng tạo Sữa cô gái Hà Lan: Sẵn sang một sức sống… - Marketing trực tiếp thông qua các quảng cáo trên truyền hình: Gần đây những nhà marketing đã thử sử dụng những trang web đặc biệt hay những trang mà khách hàng không chỉ thu thập được những thông tin về sản phẩm mà còn có thể đặt hàng trực tiếp với người bán. Trong khi điều này giúp điều chỉnh liên lạc một phần nào đó, nhưng cuộc đối thoại giữa khách hàng và người bán vẫn chỉ là một chiều – vì người bán luôn nói nhiều nhất. Như Bob Dylan nói: “Thời gian đang thay đổi. Cách mà con người được quy định để tiếp nhận thông tin sẽ quyết định hay củng cố sự yêu thích sản phẩm nào hơn và cách đó hiện nay đang phát triển. Những phương tiện truyền thông nổi bật – blog cụ thể, Podcast, video trực tuyến, và mạng lưới xã hội – giúp các nhà marketing tăng cường tiếp xúc của họ bằng cách truyền những nội dung được định sẵn mà các khán giả mục tiêu của họ yêu thích hơn. Khách hàng hiện tại và cả trong tương lai cũng đang tìm kiếm nội dung theo cách ấy, nó có thể là tải một tập phim trong chương trình tivi yêu thích của họ hay đọc blog được đăng theo xu hướng là những giải pháp trong quản trị quan hệ khách hàng. Những phương tiện truyền thông nổi bật ngày nay tạo cơ hội cho các nhà marketing ở mức độ cao hơn và sự hưởng ứng nhiệt tình này không thể có trong các chiến lược marketing truyền thống. Nếu nó được sử dụng hiệu quả, nó sẽ giúp đỡ những nhà marketing muốn mở rộng thương hiệu của mình và thúc đẩy sự cam kết của khách hàng. - Quảng cáo trên Blog : Điều gì giúp việc viết blog trở nên hấp dẫn và nó được sử dụng như thế nào. Bạn đọc một ý kiến, bạn viết lời nhận xét và bạn nhận được hồi âm. Mọi việc rất nhanh chóng. Nếu bạn cảm thấy mình có điều muốn nói, bạn có thể tạo blog riêng cho mình. Nó là “Wild West” có nghĩa là không có rào cản để bước vào, mọi người được mời vào và thiết lập một nơi cho mình. Thật ra một bản nghiên cứu do KnowledgeStorm thực hiện với sự cộng tác của Universal McCann được gọi là "Emerging Media Series". Nó nghiên cứu về những phương tiện truyền thông nổi bật và nó ảnh hưởng đến giải pháp kỹ thuật dành cho B2B, 80% số người được hỏi cho rằng họ có đọc blog và hơn phân nửa số người cho rằng họ có ghé vào blog xem mỗi tuần một lần hay nhiều hơn. Phần lớn số người trong cuộc khảo sát có đọc blog (57%) cho rằng nội dung trong blog của những người viết blog chuyên nghiệp thì đáng tin cậy hơn cả những phương tiện truyền thông truyền thống. Điểm phàn nàn chính trong thế giới blog là mức độ tin cậy của nội dung trong blog và cần nhiều nội dung chuyên nghiệp hơn nữa. Đó vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của thế giới Wild West – mọi người được mời đều nói một vài điều gì đó nhưng không có cách nào để đảm bảo chất lượng của những điều được nói. Tuy nhiên, sự thật là trong ý kiến của vài người cho rằng độ tin cậy của blog che khuất những phương tiện truyền thông truyền thống và nó mở ra cánh cửa cho những chuyên gia blog thật sự thiết lập lòng trung thành của người đọc và của cộng đồng. Đứng trên phương diện xây dựng thương hiệu thì blog cung cấp hàng loạt các cơ hội. Những nhà marketing có thể xác định nhữnh người viết blog có sức ảnh hưởng để tài trợ, điều này sẽ đi kèm với hình ảnh thương hiệu hay nó được biết đến như một chuyên gia blog trong chính ngành của họ, đây là thử thách lớn nhất cũng vừa là cơ hội tuyệt vời để xây dựng thương hiệu nếu nó được thực hiện tốt. Đây không phải là thời gian nhắm vào doanh thu mà tốt hơn là nuôi dưỡng tính tin cậy của bạn như tiếng nói của chuyên gia và người dẫn đầu trong suy nghĩ ở thế giới của bạn. Trong thế giới blog, blog trở nên phổ biến là nhờ vào truyền miệng và được tham khảo bởi những người viết blog khác. Khi mà blog đó tốt thì nó thật sự là mối lợi cho sự nhận biết thương hiệu của bạn. Khi nó trở nên xấu đi, những lời truyền miệng không tốt sẽ ảnh hưởng tới cộng đồng hàng triệu người trên thế giới. Dành thời gian để sáng tạo ra chiến lược thương hiệu trên blog vững chắc và cam kết làm cho nó trở nên tốt đẹp, nó sẽ xứng đáng với những gì bạn làm cho nó. - Podcast Nếu so sánh với những phương tiện truyền thông khác như Blog hay video trực tuyến thì Podcast đang ở giai đoạn đầu của việc chấp nhận và sử dụng. Bảng nghiên cứu Emerging Media Series về podcasts cho biết 47% người tham gia trả lời cho rằng họ chưa bao giờ nghe podcast. Điều này đơn giản vì họ chưa hiểu rõ về chúng, nghe chúng như thế nào và nơi đâu nội dung của nó được tìm thấy. Đối với những ai đã từng nghe podcast thì cho rằng nó có rất nhiều lợi ích cho marketing do tính dễ mang theo và linh hoạt của nó. Nó rất dễ sản xuất, xoay chuyển nhanh chóng – và các tổ chức nhanh chóng thiết lập lòng trung thành cho nội dung cân đối nếu họ cung cấp được những thông tin cần thiết. Thêm vào đó, để lấp đầy những khoảng trống trong việc tìm hiểu Podcast, thì một thách thức khác đối với Podcast là tìm được nội dung Podcast tương thích. Thông thường, những người nghe podcast thường tìm thấy nội dung bên trong qua truyền miệng. Với dụng cụ tìm kiếm giúp người nghe đưa ra ý kiến của mình trên đó, điều này sẽ mang lại cái nhìn thấu đáo cho những người nghe khác đang tìm kiếm nội dung tương thích. Theo thời gian, tin rằng Podcast sẽ trở thành một trong những phương tiện phổ biến và được sử dụng rộng rãi nhất trong các kênh truyền thông nổi bật dành cho B2B. Ngày nay các nhà marketing có vị trí vững chắc trong lĩnh vực này vì nó không quá đông như blog hay video trực tuyến. Họ sẽ là tiếng nói duy nhất trong 10,000 thay vì 10 triệu người. - Video trực tuyến Video trực tuyến tận hưởng được mức độ quen thuộc cao trong cả lĩnh vực B2B và B2C (doanh nghiệp đến khách hàng) và theo Emerging Media Series về cuộc khảo sát video trực tuyến – nó là phương tiện có tính ảnh hưởng cao khi nó đến với những quyết định trong kỹ thuật thương mại (57%). Video trực tuyến là một cách thu hút khán giả của bạn và làm nội dung audio của bạn thêm tính thuyết phục, trong khi nó cũng thiết lập hay củng cố hình ảnh thương hiệu của bạn. Cái gì làm Video trực tuyến khác biệt với quảng cáo trực tuyến hay những dòng video trên trang web của bạn là do người xem có quyền quyết định. Cơ bản là khi một mẫu quảng cáo được chiếu trên ti vi thì bạn không được quyền chọn xem nó hay không trước khi trình chiếu. Tuy nhiên đối với video trực tuyến thì người xem có quyền kiểm soát. Họ có quyền chọn xem hay không phần nội dung. Bởi vì nó là sự lựa chọn của họ nên họ có thể nhớ thông điệp của bạn. Ví dụ như trong tâm trí của khách hàng nó sẽ có sự năng động khác hơn so với mẫu quảng cáo quá rõ ràng trên trang chủ. Tiến xa hơn thì video trực tuyến chỉ trở thành phương tiện dễ hơn để sản xuất và để tiêu thụ. Nó sẽ cực kỳ quan trọng nếu nó được sử dụng để phân phối thông điệp nhạy cảm với thời gian nhưng nó cũng mở ra cánh cửa cho những hình thức tương tự mà thế giới blog phải đối diện trong điều kiện chất lượng toàn diện của nội dung. Nhưng so với blog và Podcast thì rất quan trọng khi xem trọng chất lượng cao của sản phẩm trong nội dung của video trực tuyến. Trong khi thế giới truyền hình trực tuyến ngày càng đông đúc thì vẫn còn chỗ cho những ý tưởng dẫn đầu và các chuyên gia. Đảm bảo rằng vị trí thương hiệu của bạn vững chắc và mạnh mẽ nhất có thể, đừng có thêm vào những gì tầm thường vì nó có thể theo ám ảnh bạn trong suốt thời gian dài mặc dù bạn đã bỏ chương trình video đó. Sử dụng website riêng như một công cụchiến lược nhằm quảng bá thương hiệu đến giới trẻ, những người sử dụng quỹ th ời gian đáng kể để lướt web. Có thể vận dụng ý tưởng sáng tạo về các website có đóng góp sáng tạo của khách hàng như của một số hãng nổi tiếng như Nike hay Dell… Với NikeD: các khách hàng có thể truy cập vào mạng và thiết kế mẫu giày Nike theo ý mình. Ý tưởng này được thực hiện vào năm 1999 và công ty nhận thấy kết quả kinh doanh của mình tăng trưởng gấp 3 lần kể từ năm 2004 . “ Thế giới đã thay đổi khách hàng tương tác với thương hiệu bằng tiếng nói của mình”- ông Treror Edwards phó chủ tịch kiêm tổng giám đốc thương hiệu Nike. Người tiêu dùng Đức có thể tự chuẩn bị thức ăn từ ngũ cốc từ 75 thành phần hữu cơ tại địa chỉ “mymuesli.com” Hay như “ Idea Storm “ của Dell khuyến khích khách hàng đề xuất ý tưởng thiết kế sản phẩm Những phương tiện truyền thông nổi bật đang tạo cơ hội cho những nhà marketing B2B để đưa thương hiệu lên đến đỉnh cao. Tính chất gần gũi và có sức ảnh hưởng cao của các phương tiện truyền thông này thúc đẩy các nhà marketing sử dụng sự tháo vát và khả năng sáng tạo của họ để phân phối những nội dung có sức thuyết phục cao. Sự thật là người tiêu thụ những nội dung này đang ngồi ở “ghế tài xế” trước khi họ thực hiện những thông điệp marketing. Nếu thông điệp nổi tiếng, những nhà marketing có thể nắm giữ được khách hàng người bị cuốn hút bởi quyết định chọn hay không – đó là điều mà thậm chí những phương tiện tốt nhất hay những lá thư 2.4. Vấn đề về việc xây dựng thương hiệu quốc gia hiện nay Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 20/4 hàng năm là "Ngày Thương hiệu Việt Nam" với 30 DN đầu tiên chính thức nhận biểu trưng Thương hiệu quốc gia. Tuy vậy, những hoạt động đó chỉ là bề nổi nếu không giải quyết được các vấn đề từ chiến lược, định vị chuẩn xác Nếu Chính phủ muốn xây dựng Thương hiệu quốc gia thì những hình ảnh mang tính chất biểu trưng thương hiệu như áo dài, nón lá... những tên thương hiệu vùng miền như gạo thơm chợ Đào, bưởi Phúc Trạch... đều là những tài sản thương hiệu rất lớn cần được bảo hộ, bảo vệ tại tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao.Bên cạnh đó với những giốn cây trồng quý thì cần phục trang lại giống, khoanh vùng địa lý và xác định điều kiện địa lý đặc trưng, nghiên cứu chất lượng đặc trưng từ đó đề ra quy trình chuẩn về sản xuất "Việt Nam - bếp ăn của thế giới", đó là gợi ý của ông Philip Kotler, như một trong những lựa chọn để định vị thương hiệu quốc gia cho nước ta. Tất nhiên đây chỉ là một gợi ý, nhưng rất cần được trao đổi, dù người gợi ý là "cha đẻ" của marketing hiện đại. Về thế mạnh của Việt Nam, theo tôi chúng ta có thể phát triển nông nghiệp hiện đại, du lịch trên cơ sở văn hóa và sinh thái tự nhiên (trong đó gồm cả các lĩnh vực như ẩm thực, dưỡng sinh, y học dân tộc...), kinh tế biển, kinh tế tri thức. Quả thật, đó là những thế mạnh không thể chối cãi của một quốc gia sở hữu hơn 3.000 km bờ biển nhiều tài nguyên; có vị trí địa chính trị mang ý nghĩa chiến lược; có truyền thống và tài nguyên văn hóa lâu đời; có con người cần cù, thông minh và sáng tạo vào bậc nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, có những lĩnh vực buộc phải làm tốt để đảm bảo sự tự chủ và ổn định như năng lượng (truyền thống và năng lượng mới), hệ thống kho vận (logistic), hệ thống tài chính, hệ thống phân phối nội địa. Vậy thì, ẩm thực như Philip Kotler nhắc đến chỉ là một phần trong số những thứ Việt Nam có và thế giới đang cần. Chúng ta hoàn toàn có thể làm được nhiều hơn vậy, tốt hơn vậy. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình - Đoàn Văn Trường - Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật Hà Nội 2005 Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương - Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân Giáo trình Kinh tế phát triển-GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng-Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân Kinh tế tri thức-Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ Quốc gia Kotler on Marketing-Nhà xuất bản trẻ TPHCM 18 Quy luật bất biến Phát Triển Thương Hiệu , Ronald J.Alsop – NXB Trẻ. Quản trị thương hiệu cá nhân và công ty , Hubert K.Rampersad , NXB Lao động Xã hội . Tạp chí Kinh tế và phát triển Thời báo Kinh tế Việt Nam Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, Tổng cục thống kê, Nhà xuất bản thống kê 2004 20 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam-ASEC Báo Đầu tư Tạp chí Kinh tế và dự báo www.mpi.gov.vn www.neu.edu.vn www. vneconomy.vn www.vnn.vn www.gov.org.vn www.business.com www.dantri.com www.dddn.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình.doc
Luận văn liên quan