Ô nhiễm đất và sa mạc hóa

Hoạt động của con người ngày càng mở ra nhiều lĩnh vực càng đa dạng thì chất thải và ô nhiễm càng phức tạp càng nhiều lên. Ngày nay, chất thải không những đổ ra sông biển làm ô nhiễm sông biển mà còn được chôn xuống đất ngày càng phổ biến. Mặt khác giữa môi trường nước, môi trường không khí, biển cùng với môi trường đất có một sự liên quan chặt chẽ với nhau, đặc biệt là giữa môi trường nước và môi trường đất. Bởi vì, đất và nước luôn luôn đi với nhau. Nước ở trên mặt đất, nước ở trong lòng đất, nước và đất giao thoa với nhau. Vì vậy ô nhiễm một trong các môi trường thành phần đặc biệt là một trong hai môi trường đất và nước sẽ là ô nhiễm cả hai. Sau đó, mối tương quan này biểu hiện giữa môi trường không khí với đất. Các chất ô nhiễm không khí khi lắng tụ sẽ rơi vào môi trường đất như mưa acid, H2SO4, HNO­3, HCl, bụi kim loại, Pb, Cu. Ngược lại các chất làm tăng 15% hiệu ứng nhà kính như CH4, NO2, NO, H2S từ môi trường sinh thái đất. Có một số nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất như : do chất thải nông nghiệp, do chất thải công nghiệp, chất thải dân cư đô thị, chất thải phóng xạ.Bên cạnh đó, trong hai thập kỷ qua, hiện tượng sa mạc hóa ngày càng rõ nét, lan rộng, đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Tình trạng sa mạc hóa ngày càng gia tăng, kéo theo nhiều sự xáo trộn về kinh tế, xã hội, môi trường và ảnh hưởng đến sự phát triển của hầu hết quốc gia trên trái đất. Do đó nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Sa mạc hoá và ô nhiễm môi trường đất” để làm bài tiểu luận. Phần mở đầu . 1 Phần nội dung . 2 I Ô nhiễm môi trường đất 2 1 Khái niệm chung về môi trường đất . 2 2 Phân loại ô nhiễm môi trường đất 4 3 Hậu quả và thực trạng ô nhiễm môi trường đất 14 4 Biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường đất 15 II Sa mạc hoá 17 1 Khái niệm về sa mạc hoá 17 2 Hậu quả và thực trạng của sa mạc hoá . 19 3 Biện pháp khắc phục và đế phòng sa mạc hoá . 26 Phần kết luận 28 Danh mục sách tham khảo . 29

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4381 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ô nhiễm đất và sa mạc hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TIỂU LUẬN MÔN MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN TÊN ĐỀ TÀI  SVTH : NGÔ ANH TUẤN - 0771350 LỚP : ĐẠI HỌC MÔI TRƯỜNG 3B GVHD : GIÁO SƯ-TSKH LÊ HUY BÁ TPHCM – THÁNG 07 / 2009 MỤC LỤC Trang Phần mở đầu 1 Phần nội dung 2 I Ô nhiễm môi trường đất 2 1 Khái niệm chung về môi trường đất 2 2 Phân loại ô nhiễm môi trường đất 4 3 Hậu quả và thực trạng ô nhiễm môi trường đất 14 4 Biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường đất 15 II Sa mạc hoá 17 1 Khái niệm về sa mạc hoá 17 2 Hậu quả và thực trạng của sa mạc hoá 19 3 Biện pháp khắc phục và đế phòng sa mạc hoá 26 Phần kết luận 28 Danh mục sách tham khảo 29 ((( PHẦN MỞ ĐẦU Hoạt động của con người ngày càng mở ra nhiều lĩnh vực càng đa dạng thì chất thải và ô nhiễm càng phức tạp càng nhiều lên. Ngày nay, chất thải không những đổ ra sông biển làm ô nhiễm sông biển mà còn được chôn xuống đất ngày càng phổ biến. Mặt khác giữa môi trường nước, môi trường không khí, biển cùng với môi trường đất có một sự liên quan chặt chẽ với nhau, đặc biệt là giữa môi trường nước và môi trường đất. Bởi vì, đất và nước luôn luôn đi với nhau. Nước ở trên mặt đất, nước ở trong lòng đất, nước và đất giao thoa với nhau. Vì vậy ô nhiễm một trong các môi trường thành phần đặc biệt là một trong hai môi trường đất và nước sẽ là ô nhiễm cả hai. Sau đó, mối tương quan này biểu hiện giữa môi trường không khí với đất. Các chất ô nhiễm không khí khi lắng tụ sẽ rơi vào môi trường đất như mưa acid, H2SO4, HNO3, HCl, bụi kim loại, Pb, Cu. Ngược lại các chất làm tăng 15% hiệu ứng nhà kính như CH4, NO2, NO, H2S từ môi trường sinh thái đất. Có một số nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất như : do chất thải nông nghiệp, do chất thải công nghiệp, chất thải dân cư đô thị, chất thải phóng xạ. Bên cạnh đó, trong hai thập kỷ qua, hiện tượng  sa mạc hóa ngày càng rõ nét, lan rộng, đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Tình trạng sa mạc hóa ngày càng gia tăng, kéo theo nhiều sự xáo trộn về kinh tế, xã hội, môi trường… và ảnh hưởng đến sự phát triển của hầu hết quốc gia trên trái đất. Do đó nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Sa mạc hoá và ô nhiễm môi trường đất” để làm bài tiểu luận. PHẦN NỘI DUNG Ô nhiễm môi trường đất: 1. Khái niệm chung về môi trường đất: Định nghĩa đất: Đất là một thành phần của hệ sinh thái hoàn chỉnh, trên đó người ta khai thác từ đất các yếu tố vô cơ, để rồi tổng hợp thành các chất dinh dưỡng của cây trồng. Chúng ta thường xuyên tác động đến đất và tác động đó thường là tiêu cực, nên phải bảo vệ đất khỏi bị hủy hoại nghiêm trọng cũng như khỏi bị ô nhiểm bởi các chất thải rắn và lỏng, mà các vi sinh vật thải ra trên mặt đất ngày càng nhiều, nó làm đảo lộn chu trình sinh quyển lớn dẫn đến mất cân bằng của các hệ sinh thái trên mặt đất. Khả năng tự làm sạch của đất: Môi trường sinh thái toàn cầu và môi trường thành phần đều có một khả năng đặc biệt là khả năng tự làm sạch. Đó là khả năng tự điều tiết các hoạt động của môi trường thông qua một số cơ chế đặc biệt để giảm thấp ô nhiễm từ ngoài vào để loại trừ, biến chất độc thành không độc. Đối với môi trường đất, khả năng tự làm sạch cao hơn nhiều so với môi trường không khí và nước. Vì vậy, môi trường đất thường chậm ô nhiễm hơn và ít độc hơn. Bản chất của khả năng tự làm sạch: Một trong những khả năng tự làm sạch là tính đệm của môi trường đất. Đó là khả năng chống lại sự thay đổi của phản ứng pH của môi trường khi có tác nhân bên ngoài làm tăng OH- hay H+ hoặc Al3+. D0ó cũng là khả năng hấp phụ lớn của môi trường đất: hấp phụ cơ học, hoá học, tao đổi và sinh học. Điều kiện cần thiết để khả năng tự làm sạch phát huy tác dụng: Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất, càng nhiều hạt keo (đặc biệt là keo mùn) thì khả năng tự làm sạch cao vì tổng số T(Catrion trao đổi chất) sẽ lớn. Đất nhiều mùn, thành phần mùn nhuyễn chiếm đa số và giàu hiumic sẽ tốt hơn giàu mùn acid fulvic, tốt hơn đất sét và tốt hơn đất cát. Tình trạng hiện tại của môi trường đất chưa bị ô nhiễm hoặc ô nhiễm ít thì khả năng tự làm sạch sẽ cao. Sự thoát nước và giữ ẩm tốt của đất sẽ gia tăng tự làm sạch của môi trường đất. Cấu trúc đất tốt (chủ yếu là cấu trúc dạng hạt hoặc dạng viên). Vi sinh vật giàu về số lượng và chủng loại cùng với điếu kiên môi trường cho nó hoạt động (nhiệt độ 30 – 350C và độ ẩm 70 – 80%) Khả năng oxi hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, phèn hoặc lầy, yếm khí. Các chất thải không quá lớn, thành phần không quá phức tạp, khó phân giải thì khả năng tự làm sạch của môi trường đất sẽ phát huy tác dụng. Giới hạn của khả năng tự làm sạch: Phụ thuộc vào điều kiện môi trường: tính đệm của đất, khả năng hấp phụ, lượng vi sinh vật, hạt keo… Phụ thuộc vào nồng độ các chất gây ô nhiễm. Nếu vượt quá nồng độ nào đó, môi trường đất sẽ không còn khả năng tự làm sạch. Mặt khác, cấu trúc phân tử và bản chất của chất ô nhiễm mang đặc thù riêng và trơ với đất thì khả năng tự làm sạch của đất coi như rất thấp. Mỗi loại môi trường sinh thái đất đều có một khả năng gọi là “ngưỡng tự làm sạch”. Nếu vượt quá ngưỡng này thì khả năng tự làm sạch sẽ không còn nữa. Ô nhiễm đất: Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người lam thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất. Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người. 2. Phân loại ô nhiễm môi trường đất: 2.1 Ô nhiễm môi trường đất do chất thải nông nghiệp Bao gồm các loại chất thải như: phân bón, thuốc trừ sâu, tàn tích sản phẩm và cây trồng nông nghiệp, chất thải gia súc động vật và tàn tích rừng. Trong chúng có những chất thải làm cho đất phì nhiêu hơn. Tuy nhiên khi vượt quá “ngưỡng tự làm sạch”, môi trường sinh thái đất sẽ bị ô nhiễm nặng nề hơn. Ô nhiễm đất do nông dược và phân hoá học Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Ô nhiễm do phân bón Phân bón hóa học Để tăng năng suất cây trồng, người ta thường bón thêm phân đạm vô cơ (N), lân(P2O5) và kali (K2O). Nhưng trong đó, đáng chú ý nhất là đạm, một loại phân mang lại hiệu quả rõ rệt nhất cho năng suất cây trồng nhưng cũng dễ gây ô nhiễm cho môi trường đất do tồn dư của nó. Vì cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30% lượng phân bón vào đất. Còn lại, phần thị bị rửa trôi, phần nằm lại trong đất, gây ô nhiễm môi trường. Phần lớn nitrát phân bón được giữ lại trong môi trường đất. Chúng sẽ ngấm dưới dạng NO3. Thêm vào đó, tính độc hại của nó còn biểu hiện trong quá trình nitrat hóa: 2NH4+ + 3O2 => 2NO2- + 2H2O + 4H+ + E 2NO2- + O2 => NO2- + E Nó làm tăng tính chua của môi trường đất bởi vì dạng acid HNO3 rất phổ biến trong đất. Một số dạng phân bón hóa học khác gây ô nhiễm môi trường đất là phân lân, với lượng lân cao, sẽ gây chua cho môi trường đất. Ví dụ trong phân super lân thường có 5% acid tự do. Riêng lượng acid tự do H2SO4 nào cũng đã làm môi trường đất chua thêm. Mặt khác, các dạng phân hóa học đều là các muối của các acid. Vì vậy khi hòa tan thường gây chua cho môi trường đất. Mặt khác sự tích lũy cao các hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho môi trường sinh thái đất về mặt cơ lý tính. Đất nén chặt độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân gọi là đất trở nên “chai cứng”, tính thông khí kém đi, vi sinh vật ít đi vì hóa chất hủy diệt vi sinh vật. Phân hữu cơ Phần lớn nông dân dùng phân hữu cơ như phân bắc, nước tiểu đều không qua chế biến, nên gây ô nhiễm cho môi trường đất và gây hại cho động vật và con người. Bởi trong phân rất nhiều giun sán, trứng giun, sâu bọ, vi trùng và các mầm bệnh khác. Nếu bón vào đất chúng có điều kiện sinh nảy nở lan truyền qua nước mặt, nước ngầm hoặc bốc hơi và không khí là ô nhiễm môi trường sinh thái: Gây ô nhiễm mùi Diệt một số vi sinh vật có lợi trong đất. Thuốc trừ sâu, bệnh Chúng đều có khả năng gây ô nhiễm môi trường đất và hoạt ánh sinh học của chúng sẽ là chất độc cho động vật và con người. Nó có thể tồn tại lâu dài trong đất, xâm nhập vào thành phần cây, nhất là tích lũy ở quả, hạt, củ. Tác hại khác nữa của thuốc trừ sâu gây bệnh là sự xâm nhập của nó vào môi trường sinh thái đất làm cho cơ lý tính của đất bị giảm sút, mức độ gây hại này giống như là phân bón hóa học. Khả năng diệt khuẩn cao nên thuốc trừ sâu bệnh đồng thời cũng diệt nhiều vi sinh vật có lợi trong môi trường sinh thái đất. Vì vậy, nó làm cho hoạt tính sinh học của đất bị giảm sút. Theo điều tra của tổ chức nông lương thế giới: năm 1965, có 182 loài côn trùng gây hại có khả năng kháng thuốc, năm 1968, tăng lên 228 loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại nông nghiệp chủ yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả năng kháng đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này làm thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này. Tàn tích rừng: Tàn tích rừng sau khi thu hoạch gỗ hoặc phát quang rừng, phần bỏ đi gọi là “slash”. Tàn tích này sau khi nằm lại trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo mùn cho đất. Nếu điều kiện phân giải tạo mùn ít thì khả năng chuyển hóa thành những dạng khó tiêu và gây chua nhiều hơn. Điều này thể hiện ở rừng thông và rừng savan. Nếu tàn tích rừng bị vùi lấp trong điều kiện yếm khí lâu ngày sẽ tạo ra các đầm lầy than bùn hoặc than bùn phèn. Điều đó có nghĩa là tạo ra một môi trường đất acid. Chất thải của súc vật Những chuồng trại chăn nuôi gia súc nếu thu gom, xử lý không đảm bảo kỹ thuật và vệ sinh môi trường thì sẽ là hiểm họa cho môi trường sinh thái, trong đó có môi trường đất. Vì chúng sẽ làm môi trường sinh thái đất mất khả năng tự làm sạch của nó. Lúc này sự ô nhiễm môi trường đất trở nên trầm trọng. Các cơ quan hoạt động môi trường đất bị tê liệt. Chất thải, vi trùng từ đó mà lan ra khắp nơi trong nứơc ngầm, trong nước suối hay bay vào không khí. Các loại côn trùng như bọ hung, bọ xít cũng có cơ hội phát triển và gây hại. Các loại nhặng và ấu trùng của nó được môi trường đất tạo cơ hội, phát triển nhanh chống và gây hại tại đây. 2.2 Ô nhiễm môi trường sinh thái đất do chất thải công nghiệp Các chất thải công nghiệp dưới dạng chất thải rắn, lỏng và khí đều có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái đất.  Các loại khí thải công nghiệp và giao thông Một số loại khói bụi có hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. CO: khi tiếp xúc môi trường sinh thái đất, CO có thể hòa vào không khí đất, làm hại động vật trong đất. Một phần CO được hấp thụ trong keo đất, phần còn lại tạo oxi hóa thành CO2 nhờ vi sinh vật: 2CO2 + O2 ==> 2CO2 + E Một phần khác CO sẽ tác dụng với OH hoặc với O2, O3 và N2O trong không khí đất để trở thành CO2. Tuy nhiên sự có mặt không nhiều của nó trong môi trường sinh thái đất cũng làm tổn thất lớn đến sức sống của động vật. Ví dụ, các vùng đất gần các nhà máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ bị ô nhiễm vì khói bụi, hàm lượng flo chứa trong khoáng chất photpho sử dụng ở các nhà máy phân hoá học thường là 2 – 4%, nếu khí thải không được xử lý thích đáng, có thể làm cho một vùng hàng ngàn km2 đất xung quanh bị ô nhiễm flo nặng. Ở gần các xưởng luyện kim,  vì trong khí thải có chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom, đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ bị ô nhiễm bởi những chất này. Đất ở 2 bên đường, thường có hàm lượng chì tương đối cao là sản phẩm của khí thải động cơ. Mưa acid Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất nitơ... kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Những trận mưa acid đã làm tê liệt các họat động sinh thái môi trường đất, trước hết làm phản ứng môi trường giảm xuống đột ngột ở tầng mặt, sau đó là một loạt hoạt động hóa sinh học và vi sinh vật bị ngừng trệ. Những acid H2SO4, HNO3, HNO2 gọi là các “acid ngưng tụ”, các acid này xuất hiện trong các giọt sương mù, nước đá. Ví dụ HNO3 hình thành từ phản ứng của hơi NOx với hơi nước trong không khí : 2N2O + O2 => 4NO 2NO + O2 => 2NO2 2NO2 + H2O => HNO2 + HNO3 Khi đó trong giọt mưa pH đã giảm xuống 2 hoặc thấp hơn. Những giọt mưa này rơi vào đất sẽ ô nhiễm và gây hại môi trường đất. Ô nhiễm môi trường sinh thái đất do công nghiệp chế biến thực phẩm và sinh hoạt Chất thải loại này bao gồm các quá trình công nghiệp chế biến rau quả, thịt cá, đông lạnh mà sản phẩm là phần hữu cơ chiếm ưu thế. Nó có hai dạng : Dạng chất thải rắn : phần lớn thành phần chúng chứa nhiều N, P, K nếu được chế biến tốt sẽ là dạng phân bó. Nhưng nếu đem chôn hoặc vứt bừa bãi thì quá trình lên men làm ô nhiểm môi trường đất nhanh chống xuất hiện. Tác động của chất thải rắn lên môi trường đất: quá trình bị giữ lại trong đất và ngấm qua những lớp đất bề mặt của nước rò rỉ từ các bãi chôn lấp làm cho sự tăng trưởng và hoạt động của vi khuẩn trong đất kém đi, tức là làm giảm quá trình phân hủy các chất hữu cơ thành dinh dưỡng cho cây trồng, trực tiếp làm giảm năng suất canh tác và gián tiếp làm cho đất bị thái hoá và bạc màu. Ảnh hưởng của nước rò rỉ từ các bãi chôn lấp đến đất đai là rất nghiêm trọng, mang tính chất lâu dài và rất khó khắc phục nếu nó ngấm theo mạch ngang. Chính vì vậy, để hạn chế và ngăn ngừa khả năng gây ô nhiễm đất, chúng ta phải áp dụng các biện pháp an toàn trong công tác chôn lấp rác, chủ yếu là lót nền và xây dựng thành chắn bằng các vật liệu chống thấm để ngăn chặn khả năng thấm theo chiều ngang của nước rò rỉ; đồng thời phải lắp đặt các hệ thống thu gom và xử lý nước rò rỉ. Dạng nước thải hữu cơ: các dạng này sẽ làm tăng thêm BOD trong môi trường sinh thái đất. Những đo đạc cho biết có khi lên đến 10000 ppm; trong lúc đó ngưỡng của BOD trong dung dịch là 20 ppm. Đồng thời đối với nó là hàng loạt các vi sinh vật gây thối nồng nặc xuất hiện làm hại môi trường sinh thái. Ô nhiễm đất vì nước thải Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một cách khoa học các loại nước thải để tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng được lượng Nitơ, Photpho, Kaki... trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu như nước ô nhiễm chưa qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có hại trong nguồn nước vào đất gây ô nhiễm. Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô nhiễm đất, ảnh hưởng tới người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “Cadimi” xảy ra ở Nhật Bản năm 1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước thải của một nhà máy luyện kẽm gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước thải tích luỹ dần trong lúa gạo ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị chứng đau nhức các khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều tra nông thôn Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là 190.000 ha, làm thiệt hại 22 tỷ Yên. Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử dụng tràn lan các nước thải thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến cho khả năng sản xuất của đất giảm, gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường ruột ở người do nông phẩm ở những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi khác. Tác hại của gley hóa đến môi trường sinh thái đất Mất đạm do khử nitrat thành N2 bay đi. Tạo phản ứng môi trường chua hơn vì nhóm axit hữu cơ và phân giải yếm khí. Sản sinh chất độc H2S là ngộ độc rễ thực vật nhất là rễ lúa, giết chết động vật và một số vi sinh háo khí trong môi trường đất. Quá trình giải phóng các chất khí CH4, NO2, NO, CO2 đã đóng góp vào 15% hiệu ứng nhà kính. 2.3 Ô nhiễm môi trường sinh thái đất do chất thải đô thị Người ta có thể xử lý rác bằng chế biến phân hữu cơ, chôn hoặc đốt, nhưng bằng cách gì như hiện nay thì môi trường sinh thái đất cũng sẽ bị ảnh hưởng. Sự tạo thành khí CH4 trong điều kiện yếm khí sẽ gây thêm chất độc cho môi trường sinh thái đất và sau đó nếu không sử dụng gas này, nó sẽ bốc lên và tăng hiệu ứng nhà kính. Sự phân giải cũng gây ô nhiễm như các sản phẩm trung gian hoặc vi khuẩn gây hại cho đất và nước ngầm nếu chôn rác không đúng kỹ thuật. Ô nhiễm môi trường đất từ các bãi rác và hầm cầu tự hoại Ở thành phố lớn vấn đề xử lý các bãi rác là một khó khăn không nhỏ. Ở đây ta xét về bãi rác gây cho môi trường đất: Mùi hôi thối gây cho không khí đất ngột ngạt ảnh hưởng đến động vật trong đất. Các chất độc sinh ra và trong quá trình lên men khuếch tán và thấm vào đất, nằm lại ở trong đó. Nước rỉ ra từ các bãi rác và hầm cầu là ô nhiễm trầm trọng về mặt sinh học. Các chất thải kim loại nặng từ các bãi rác thấm vào đất. 2.4 Ô nhiểm đất do thiên nhiên và do các tác nhân sinh học Ô nhiễm phèn: Phèn tồn tại trong đất chứa nhiều độc chất Al3+, Fe3+, SO42- phèn cũng có thể do nước phèn từ nơi khác gây nhiễm phèn cho môi trường sinh thái đất. Quá trình thứ nhất gọi là quá trình phèn hóa, quá trình thứ hai gọi là quá trình nhiễm phèn. Dù nguyên nhân nào thì trong dung dịch đất lượng độc chất Al3+, Fe2+, SO42-, cũng rất cao và pH môi trường xuống thấp, khả năng trao đổi và khả năng đệm của môi trường đất bị phá vỡ nên khả năng tự làm sạch của đất bị giảm sút; từ đó môi trường đất bị ô nhiểm nặng, động vật, thực vật, vi sinh vật bị tiêu diệt hàng loạt. Nếu ô nhiễm nhiều phèn nhôm thì tình độc càng mạnh và nhanh hơn phèn sắt, tính đa dạng sinh học của môi trường không còn nữa. Ô nhiễm mặn: Do nước biển, trong nuớc biển chứa chủ yếu là muối NaCl, nó bị tràn vào do vỡ đập hay sóng thần hay do mạch nước ngầm theo mao dẫn lên lớp mặt làm ô nhiễm môi trường đất. Gây hại chủ yếu ở nồng độ muối vượt quá 1% sẽ gây chết cho cây cối và các ion Na+ và Cl- quá cao. Môi trường đất được xem là ô nhiểm mặn khi nồng độ tổng số muối tan > 0.3%, trong đó muối Cl- > 0.15% và Na+ có hàm lượng trên meq/ gr, sau giờ bị ngập nước mặn hoặc bị bốc mặn lên mặt. Nồng độ cao của muối gây hạn sinh lý cho thực vật và tiêu diệt vi sinh vật cùng động vật trong môi trường đất. Ô nhiễm môi trường đất đầm lầy và tăng hiệu ứng nhà kính: Các đầm lầy là nơi tập trung một kim lọai nặng Fe, Al, Cd, Hg, Cd, Zn … Những vùng có kênh rạch thành phố đổ vào không có một cây nào mọc được chính vì ô nhiểm kim lọai nặng và quá nhiều hơi độc. Quá trình phân giải yếm khí không hoàn toàn chất hữu cơ sinh ra CO2, CH4, NOx và hơi nuớc. Các chất khí này từ môi trường sinh thái đất bay vào không khí tăng thêm lượng CO2, CH4 và hơi nước. Đó là những chất gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Mối hiểm họa toàn cầu. Các nhà khoa học đã chứng minh tất cả các khí ô nhiểm môi truờng đất và nông nghiệp đã đóng góp vào 15% hiệu ứng nhà kính. Ô nhiễm do phóng xạ: Nguyên nhân của ô nhiễm phóng xạ trong đất là do các chất phóng xạ có sẵn trong thành phần địa chất, chất thải phóng xạ từ các nhà máy điện hoặc chất thải phóng xạ từ các trung tâm nghiên cứu khoa học. Có hai loại chất thải phóng xạ: Phóng xạ tự nhiên gồm có Uranium, Radi, Teri… có sẵn trong lòng đất. Trong điều kiện môi trường thuận lợi, các nguyên tố này phân rã và tạo ra phóng xạ với nồng độ cao và gây hại môi trường đất. Sự tác hại này thường xảy ra ở những vùng mỏ phóng xạ nơi tập trung một lượng phóng xạ khá cao. Phóng xạ nhân tạo: do các thảm họa từ các nhà máy điện hạt nhân, các vụ thử hạt nhân… gây hại cho môi trường. Chúng thấm xuống nước ngầm, đất tiếp xúc với nước sinh hoạt và gây hại cho con người và môi trường trong nhiều năm liền. 2.5 Ô nhiễm môi trường đất do dầu Tác hại của dầu lên môi trường đất: Biểu hiện các mặt sau đây: Khi trên bề mặt có một lớp dầu bao phủ, dù rất mỏng, chỉ 0.2 – 0.5 mm, cũng đủ làm cho môi trường đất “ngạt thở”, thiếu không khí vì các quá trình trao đổi khí bị cắt đứt. Kết quả là các vi sinh vật (vi sinh vật, động thực vật) đều bị thiếu oxi, dẫn đến chết. Lớp dầu này cũng ngăn quá trình trao đổi năng lượng mặt trời của môi trường đất. Khi dầu đã thấm vào trong đất, chúng là một chất ghét nước, nên chúng đẩy tất cả nước ra ngoài, làm cho môi trường đất hầu như không còn nước. Mặt khác, chúng cũng chiếm chỗ hết tất cả các lỗ hỏng kể cả phi mao quản và mao quản, đẩy hết không khí ra ngoài. Như vậy, môi trường đất giảm thiểu lượng không khí và, gây nguy hại cho hệ sinh thái. Khi dầu xâm nhập vào đất, chúng làm thay đổi kết cấu, đặc tính lý học và hóa học của đất. Chúng biến các hạt keo thành “trơ”; không có khả năng hấp phụ trao đổi nữa. Nó đã làm dung dịch đất bị phân “tướng” rõ: ưa dầu và ghét dầu, mất tính đệm, tính oxi hóa, độ dẫn điện và dẫn nhiệt thay đổi mạnh. Tính trương co, tính dính giảm thiểu. Dầu thấm qua đất đến mạch nước ngầm sẽ làm ô nhiễm, gây hại nguồn nước ngầm. Dầu là những hợp chất hữu cơ cao phân tử có đặc tính diệt sinh vật. Vì vậy, bất cứ ở đâu khi có dầu thấm vào môi trường đất, chúng đều tiêu diệt một cách trực tiếp hầu hết các thực vật, động vật nhất là vi sinh vật (trừ một số sinh vật ăn được dầu). Rõ ràng tác hại của dầu là rất lớn, có thể biến đất thành đất chết. Ảnh hưởng đến sự nảy mầm của cây trồng: dầu thô làm chậm và làm giảm tỷ lệ nảy mầm, nghĩa là trồng trọt trên đất ô nhiễm dầu mà không bón thêm chất dinh dưỡng sẽ làm cho tỷ lệ nảy mầm thấp hơn so với cây trồng trên đất không bị ô nhiễm. Ảnh hưởng của dầu đến sự phát triển của cây trồng: ô nhiễm dầu có sự tương quan chặt chẽ với tất cả những thông số phát triển của cây trồng. Sự khác nhau trong chiều cao của cây giữa vùng đất không bị ô nhiễm và đất bị ô nhiễm dầu (không bổ sung chất dinh dưỡng) khác nhau từ 24% - 33% so với đối chứng(chiều cao cực đại của cây được ghi nhận). Tác động của dầu đến môi trường đất: sự tác động của dầu lên môi trường đất chủ yếu bằng cách kiềm hãm quá trình vận chuyển, bay hơi và phân hủy sinh học diễn ra trong đất. Tác dụng của lực hấp dẫn kéo các chất lỏng theo chiều đi xuống (ngược với lực giữ lại các chất lỏng đó) nên sẽ xảy ra sự hấp thụ trên hạt khoáng hoặc nằm trong các lỗ hổng cấu trúc của đất. Hậu quả và thực trạng ô nhiễm môi trường đất: Hậu quả: Ô nhiễm và suy thoái môi trường đất gây ra rất nhiều tác hại. Trước hết, phải kể đến hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất bị mất do trầm tích và rửa trôi theo các dòng nước. Thông thường, hàm lượng các chất dinh dưỡng (N, P, K) trong trầm tích đất cao gấp 10 lần trong đất do các chất này bị hoà tan và trôi đi. Giá trị lượng dinh dưỡng bị mất đi có thể được tính thông qua lượng dinh dưỡng cần bổ sung vào. Khi đất xuống cấp, khả năng giữ nước của đất cũng sẽ bị yếu đi, tổn thất nước mưa tăng lên và do đó xói mòn cũng tăng theo. Người ta tính được rằng, khi lượng mưa thất thoát 20-50% tổng lượng mưa thì lượng đất bị xói mòn sẽ tăng lên 8-10%. Xói mòn đất còn làm cho các chất ưa nước dễ tan hơn, những phần màu mỡ dễ bị rửa trôi hơn. Như vậy, suy thoái và ô nhiễm môi trường đất có thể gây ra hàng loạt các tác hại cho môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội. 3.2 Tình trạng môi trường đất ở Việt Nam Theo bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường. 1994 thì môi trường của nước ta bị suy thoái và ô nhiễm trầm trọng. Trong đó có suy thoái và ô nhiễm về đất. Có hơn 13 triệu đất suy thoái, đất trồng đồi núi trọc. Đô ẩm cao, mưa nhiều, bão lớn nên các quá trình suy thoái diễn ra nhanh chóng, nhất là vùng đất dốc không có rừng che phủ. Các chất dinh dưỡng bị rữa trôi có thể đến 150 -170 tấn/ha/năm ở đất dốc 20 – 220. Ngoài ra hàm lượng khoáng vi lượng rất ít, pH giảm, lớp mặn bị kết vón, đá ong hóa dẫn tới khả năng mất canh tác. Ngoài việc đất mất canh tác, hay giảm độ phì nhiêu của đất, thì việc sử dụng không hợp lý đất và nước trên các lưu vực sẽ gây hiện tượng bồi lấp dòng sông, lòng hồ, cửa biển. Ở miền Trung gió đẩy các cồn cát duyên hải vào đất liền gây suy thoái đất trầm trọng. Ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, hàng trăm hàng ngàn ha đất màu mỡ đã bị nhiễm mặn và nhiễm phèn. Đất còn bị xói lở các vùng dân cư ven sông, ven biển. Ngoài ra đất còn bị suy thoái hoặc ô nhiễm do khai thác nông nghiệp quá đáng, không bù đắp đủ số chất khoáng lấy đi qua nông sản. Việc dùng phân tươi để bón ruộng hay việc dùng các chất độc hại làm ô nhiễm đất Biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường đất: Chống ô nhiễm đất đang là vấn đề bức thiết đặt ra cho nhiều quốc gia. Một số biện pháp cơ bản hiện nay là: Khống chế các chất thải rắn, lỏng, khí. Mở rộng và phát triển công nghệ tuần hoàn kín hoặc xử lý chất thải để giảm hoặc loại bỏ các chất gây  ô nhiễm; Khi lợi dụng nước thải để tưới ruộng, cần nắm được thành phần chất ô nhiễm, hàm lượng và trang thái, khống chế số lượng nước tưới hoặc thực hiện xử lý chần thiết; Khống chế việc sử dụng nông dược hoá học, hạn chế sử dụng các thuốc có độc tính cao, khả năng tồn tại lớn, phát triển các loại thuốc nông nghiệp mới có hiệu quả cao, độc tính thấp, lượng tồn trữ ít. Bón phân hoá học một cách hợp lý. Tích cực áp dụng rộng rãi các kỹ thuật sinh học phòng trị sâu hại, lợi dụng các loài chim có ích, côn trùng có ích và một số vi sinh vật gây bệnh để chống lại các loại sâu hại, biện pháp này đang được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng. Biện pháp khắc phục Khắc phục ô nhiễm dầu trong đất có nhiều cách, nhưng có thể có nhiều cách, nhưng có thể có các cách chủ yếu sau: Cày xới lên và xử lý tầng đất ô nhiễm để nó tiếp xúc với không khí cho bay hơi hay vì vi sinh vật phân hủy. Xử lý đất bằng hóa chất Trồng cây ưa dầu, có khả năng chịu đuợc nồng độ dầu. Thí nghiệm các cách khác nhau, chọn ra phương pháp thích hợp. Bốc lớp đất bị ô nhiễm (nếu mỏng) đưa đi xử lý. Tạo cho đất khả năng tự làm sạch, hoặc bằng tiếp xúc không khí hoặc vi sinh vật, hoặc bằng rửa trôi, chuyển hóa êm dịu. Sa mạc hoá: 1. Khái niệm về sa mạc hóa: 1.1 Định nghĩa sa mạc hoá: Sa mạc hóa là sản phẩm cuối cùng của sự thoái hóa tài nguyên môi trường (soil degradation) xảy ra ở vùng khô và bán khô. Đây là kết quả của sự thay đổi thời tiết, khí hậu và sự tác động của con người. Suốt những năm 1968 – 1973, nạn sa mạc hóa đã diễn ra chủ yếu do sự chăn thả quá mức. Sa mạc Sahara đang tiến dần vào vùng Sahel với tốc độ trung bình khoảng 50 km/ năm. 1.2 Nguyên nhân sa mạc hoá: Sa mạc hóa gần đây là kết quả của sự tác động qua lại giữa hạn hán (bao gồm cả các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, . . . ) và việc sử dụng tài nguyên môi trường không hợp lý (do áp lực của con người trong việc khai thác đất đai). 1.3 Cơ chế chung của sự sa mạc hoá: Mở rộng và tăng cường sử dụng đất trên những vùng đất khô cằn, làm nông nghiệp khi đất còn ẩm ướt (gồm cả chăn nuôi, trồng trọt, và khai thác rừng). Sự xói mòn do gió hoặc do nước. Sự thay đổi khí hậu, thời tiết. Sự chăn thả tăng lên trong những năm đất còn ẩm ướt làm cho mặt đất rắn chắc lại và số lượng thú nuôi tăng nhanh gây áp lực cho cây trồng lâu năm. Kết quả là mặt đất bị phô ra vào mùa khô và gió dễ dàng xói mòn bề mặt. Hoạt động canh tác trong những năm ẩm ướt làm tăng sự thoát hơi nước và tăng sự xói mòn do gió vào mùa khô. Trong những năm khô hạn sau đó, vấn đề xói mòn do gió làm cho khả năng tích lũy nước tầng mặt giảm xuống. Việc giảm số lượng các cây lâu năm cũng làm cho nước ngầm tụt xuống ngay cả mùa khô cũng như mùa khô. Nhìn chung, sa mạc hóa là một trong những quá trình mà tiềm năng sản xuất của đất khô hay bán khô bị giảm đi một cách đáng kể. 1.4 Các mức độ sa mạc hoá: Năng suất sản xuất giảm 10 – 25%: sa mạc hóa bắt đầu. Năng suất sản xuất giảm 25 – 50%: sa mạc hóa trung bình. Năng suất sản xuất > 50%: sa mạc hóa nghiêm trọng, trong những trường hợp này có sự xuất hiện các rãnh hay các ụ cát lớn. Sa mạc hóa và việc lạm dụng đất đai ở một số nơi (x 1000km2)  Những vùng đất khô có thể bị sa mạc hóa  DT sa mạc hóa nhẹ và trung bình  DT sa mạc hóa mạnh và nhiều  Tổng DT bị sa mạc hóa   Châu Phi Châu Á Châu Úc Châu Âu Bắc Mĩ Nam Mĩ Tổng cộng  1286 1671,8 663,3 299,7 732,4 516,6 5169,2  245,3 326,7 86 94,6 72,2 72,8 897,6  74 43,7 1,6 4,9 7,1 6,3 137,6  319,3 370,4 87,6 99,5 79,3 79,1 1035,2   2. Hậu quả và thực trạng của sa mạc hoá: 2.1 Hậu quả: 2.1.1 Về mặt sinh thái học: Do điều kiện khí hậu ở sa mạc rất khắc nghiệt, cho nên ở đây khá nghèo nàn về chủng loại động - thực vật, hay nói cách khác, đa dạng sinh học ở đây là rất thấp. Sự đa dạng về loài của động - thực vật có liên quan rất mật thiết tới nhau và có lên quan trực tiếp tới lượng mưa. Nhìn dưới góc độ sinh thái học thì lượng mưa là yếu tố rất quan trọng vì nó quyết định đến năng suất cây trồng và sự phong phú, đa dạng của sinh vật. Lượng mưa có thể được xem như là nhân tố giới hạn chủ yếu đến các quá trình sinh học cùng với các yếu tố khác: nhiệt độ, dinh dưỡng... làm giới hạn đến năng suất sinh khối,vì thế giới hạn tính phong phú và đa dạng của động - thực vật. Ở sa mạc chỉ có những thực vật có tính thích nghi cao mới có thể tồn tại: xương rồng, các cây gai, cây bụi... nhưng khả năng cho sinh khối của chúng rất thấp. Sự nghèo nàn của thực vật đã làm cho động vật không có điều kiện phát triển. Một số loài động vật đặc trưng như chuột, một số loài bò sát, đà điểu… có cuộc sống gắn liền với lượng sinh khối thực vật là các trảng cỏ, cây thân bụi… thì có khả năng tồn tại nhưng tình trạng đa dạng sinh học vẫn rất nghèo nàn. Các động vật ở sa mạc cần có khả năng thích nghi cao để có thể tồn tại trong điều kiện khắc nghiệt do khí hậu sa mạc gây ra. Ví dụ: đà điểu sống ở những vùng khô cằn ở châu Phi do có kích thước lớn nên không thể tránh được cái nắng gay gắt và chúng phản ứng lại bằng cách thở hổn hển và dựng đứng lông vào ban ngày. Nếu có gió thì chúng không thở mạnh nữa mà chỉ dựng đứng bộ lông tưa thớt trên lưng. Khi đó, hơi nóng sẽ mật đi do đối lưu nhiệt. Vào ban đêm, khi nhiệt độ hạ thấp xuống thì bộ lông trên lưng chúng xẹp lại để tạo ra một tầng cách ly nhiệt để ổn định thân nhiệt. Ngoài ra, tại những nơi đang bị sa mạc hóa dữ dội thì tính đa dạng sinh học cũng bắt đầu bị giảm sút,tiểu khí hậu thay đổi theo chiều hướng khắc nghiệt hơn trạng thái ban đầu, hạn hán liên tiếp xảy ra và đe dọa đến đời sống động - thực vật…Tất cả những yếu tố trên đã tác động mạnh mẽ vào mặt đất, làm cho mặt đất ngày một xấu đi, mất dần các chức năng canh tác và chức năng giá đỡ cho động - thực vật, tạo ra một sự du nhập giống loài mới có thể thích nghi cao hơn với điều kiện khí hậu mới. 2.1.2 Về mặt xã hội: Sa mạc hóa kéo theo sự thiếu hụt trầm trọng lương thực, thực phẩm. Thực tế, tốc độ tăng sản lượng lương thực, thực phẩm cao nhờ công nghệ sinh học, tuy nhiên sự phân chia không đều dẫn đến một số nơi lạm dụng và khai thác đất thiếu khoa học. Thế giới đang đối mặt với một vấn đề nan giải, đó là: “dân số gia tăng theo cấp số nhân còn lương thực, thực phẩm gia tăng theo cấp số cộng”. Để giải quyết các vấn đề trên thì không có cách nào khác hơn là con người phải tấn công vào tự nhiên, bắt tự nhiên phục tùng ý muốn điên rồ của mình. Vì vậy, diện tích đất sa mạc hóa ngày càng tăng lên, đất canh tác giảm xuống. Nạn đói và tranh chấp xảy ra, môi trường xã hội xuống cấp. Đó là hậu quả về mặt xã hội của nạn sa mạc hóa. 2.2 Thực trạng sa mạc hoá: 2.2.1 Thế giới với vấn đề sa mạc và hoang mạc hóa: Theo Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc (LHQ) Ban Ki Mun, Một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt là hiện tượng sa mạc hóa. Đây là một vấn đề toàn cầu đang tác động đến 1/3 trái đất và đe dọa cuộc sống của 1,2 tỷ người trên hành tinh. Vào tháng 6/2007, LHQ đã tiến hành một cuộc nghiên cứu và kết quả thu được thật sự đáng lo ngại. Tình trạng sa mạc hóa đang gia tăng với tốc độ báo động, gấp đôi so với những năm 1970. Theo tính toán, đến năm 2025 sẽ có 2/3 diện tích đất canh tác ở châu Phi, 1/3 diện tích đất canh tác ở châu Á và 1/5 diện tích đất canh tác ở Nam Mỹ không còn sử dụng được. Trên thế giới, vùng bị sa mạc hóa nhiều nhất là Trung Á và Nam sa mạc Sa-ha-ra, nơi đại bộ phận dân chúng đều sống trong cảnh nghèo khổ và phải đối mặt với tình trạng xâm thực của cát bụi. Châu Á có hơn 1,7 tỉ ha đất khô cằn và bán khô cằn. Những vùng đất bị khô hạn và thoái hoá bao gồm các sa mạc rộng lớn ở Trung quốc, Pakistan, Mông Cổ, Iran, Ấn Độ, Nepal và Lào. Ước tính, 67% “nước ảo” dùng để sản xuất nông nghiệp; 23% dùng cho chăn thả gia súc gia cầm và 10% dùng trong ngành sản xuất công nghiệp. Sri Lanka và Nhật Bản là 2 quốc trong tốp các nước phải nhập khẩu Virtual Water Vào thập niên 1930 tại Hoa Kỳ, vì quá tải chăn nuôi mục súc và canh nông ở vùng Đại Bình nguyên Bắc Mỹ cùng với cơn hạn hán dài hạn, kết quả là trận "Dust Bowl" vĩ đại làm hư hại đất canh nông và hàng chục nghìn người phải xiêu tán. Sau đó với nhiều cải tiến về lối canh tác đất và sử dụng nước con người đã phản ứng kịp thời nên vấn nạn Dust Bowl không còn tái diễn. Tuy vậy ở những quốc gia đang phát triển nạn sa mạc hóa vẫn tiến hành, ảnh hưởng đến hàng chục triệu người. Nạn nhân mãn và phép hỏa canh làm rẫy ở vùng nhiệt đới là nguyên do chính của nạn phá rừng. Khi đã mất thảm thực vật, hậu quả là đất đai bị soi mòn, mất chất màu và cuối cùng là biến thành sa mạc. Hiện tượng này rõ nhất ở vùng cao nguyên Madagascar nơi 7% diện tích là đất cằn đồi trọc, không còn khả năng trồng cấy được nữa. Nạn quá tải mục súc là vấn nạn ở Phi châu như vùng núi Waterberg ở Nam Phi và dải Sahel. Sa mạc Sahara hiện nay đang tiến dần về phía nam với tốc độ 45 km/năm. Các nước Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Trung Hoa, Tajikistan, Afghanistan, Turkmenistan, Iran và Uzbekistan cũng bị ảnh hưởng nặng. Riêng Kazakhstan kể từ năm 1980, gần 50% diện tích trồng trọt đã bị bỏ hoang vì đất quá cằn trong tiến trình sa mạc hóa. 2.2.2Việt Nam với sa mạc hoá: Hiện nay, Việt Nam vẫn còn khoảng 9,3 triệu ha đất liên quan tới sa mạc hóa (chiếm khoảng 28% tổng diện tích đất đai trên toàn quốc), trong đó có 5,06 triệu ha đất chưa sử dụng, khoảng 2 triệu ha đất đang được sử dụng đã bị thoái hóa nặng và hơn 2 triệu ha đang có nguy cơ thoái hóa cao. Độ phì nhiêu của đất đang bị giảm xuống do xói mòn, rửa trôi, đá ong hoá, chua mặn hoá. Tài nguyên rừng cũng bị suy giảm đáng kể. Nếu như năm 1943 Việt Nam có tỷ lệ che phủ của rừng là 43% thì sau nhiều nỗ lực khắc phục các nguyên nhân mất rừng suốt 60 năm qua, tỷ lệ che phủ hiện nay mới chỉ là 37,6% (Số liệu công bố tháng 12/2006). Rừng bị tàn phá đặc biệt nghiêm trọng vào hai thời kỳ: 1960 - 1970 và 1976- 1990. Rừng bị mất đã làm tăng diện tích đất hoang hoá, kéo theo sự giảm sút đáng kể các hệ sinh thái, làm suy thoái vùng đầu nguồn. Bên cạnh đó, ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng do tình trạng lạm dụng hoá chất trong nông nghiệp, do quản lý chất thải công nghiệp và sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh môi trường. Tài nguyên nước ngầm đang bị cạn kiệt dần về số lượng, suy giảm về chất lượng. Nguy cơ thiếu nước trong những thập kỷ tới rất cao. Trong 10 năm gần đây, do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng và khô hạn, nạn hạn hán đã hoành hành ở một số nơi, nhất là ở miền Trung, Tây Bắc và Tây Nguyên. Đặc biệt, đợt hạn hán kéo dài 9 tháng liền trong năm 2004-2005 trên diện rộng đã gây ra hậu quả nặng nề đối với sản xuất nông lâm nghiệp của nhiều địa phương, trong đó địa bàn bị ảnh hưởng nhiều nhất là miền Trung và Tây Nguyên. Sự cố nứt đất và trượt lở đất cũng xảy ra ngày một nghiêm trọng hơn, nhất là ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Bắc và miền Trung. Các kết quả khảo sát đã ghi lại 51 điểm sụt lở làm mất hàng năm 350 ha đất với thiệt hại ước tính hàng ngàn tỷ đồng. Theo dự báo thì số lượng sụt lở còn tiếp tục gia tăng và tổng diện tích đất bị mất có thể lên tới 10.000 ha. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên biển, phát triển nuôi trồng thuỷ sản không có sự kiểm soát chặt chẽ ở một số địa phương cũng là yếu tố gây mất rừng phòng hộ ven biển, làm suy thoái đất đai và nguồn nước. Nước và đất ven biển đã bắt đầu bị ô nhiễm với mức độ ngày càng tăng. Việt Nam có sa mạc cục bộ, đó là các dải cát hẹp trải dài dọc theo bờ biển miền Trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận với diện tích khoảng 419.000 ha và ở Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 43.000 ha. Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng 462.000 ha cát ven biển (chiếm khoảng 1,4% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc) và 87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động. Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng. Mỗi năm có khoảng 10-20 ha đất canh tác bị lấn bởi cát di động. Ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, thời tiết đặc biệt khô nóng vào mùa khô, lượng mưa trung bình hàng năm ở một số nơi chỉ đạt khoảng 700 mm (như Ninh Thuận và Bình Thuận). Chiếm đến 90% diện tích đất đang chịu tác động sa mạc hoá là các khu vực đất trống, đồi trọc bị thoái hoá mạnh, đất bị đá ong hoá do tình trạng phá rừng và sử dụng đất không hợp lý trong suốtnhiềunăm. Phần còn lại là các khu vực đụn cát, bãi cát di động tại các tỉnh ven biển miền Trung (419.000ha), hiện tượng đất khô tại các tỉnh Nam Trung Bộ và đất bị xói mòn tại các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL. Bộ NNPTNT cho hay, dù không có những vùng sa mạc tập trung lớn song diện tích đất bị hoang mạc hoá, thoái hoá phân bổ rải rác trên khắp cả nước bên cạnh sự gia tăng của quá trình thoái hoá đất, suy giảm nguồn nước... Trong các vùng bị sa mạc hóa tấn công, hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận được xem là vùng có tốc độ sa mạc hóa nhanh nhất cả nước với diện tích hoang mạc hóa ở Ninh Thuận đã lên gần 90.000 ha và Bình Thuận là 81.000 ha. Trong các khu vực nguy cơ cao thì vùng Nam Trung bộ và Tây Nguyên là đáng quan tâm hơn cả. Vào mùa khô mực nước sông ở khu vực này rất thấp, thậm chí nhiều sông suối nhỏ khô kiệt hoàn toàn trở thành những dòng sông chết, "Lòng Sông" là một ví dụ điển hình. Hiện tượng Elnino cùng với bão lũ khô hạn xảy ra thường xuyên và ác liệt,dẫn đến nguồn nước suy giảm. Trong khi đó, nhu cầu về nước lại tăng nhanh. Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái và ô nhiễm nguồn nước đang diễn biến rất nhanh, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội của khu vực này. Sự phát triển kinh tế thiếu quy hoạch, không đồng bộ ở nhiều vùng, việc di dân khó kiểm soát, việc phát triển đàn gia súc: bò, dê, cừu trong khi chưa chủ động được nguồn thức ăn chăn nuôi là những nguyên nhân gây ra nguy cơ sa mạc hóa, hoang mạc hóa, đe dọa sự phát triển bền vững. Ước tính quá trình sa mạc hoá mỗi năm làm mất khoảng 20ha đất nông nghiệp do nạn cát bay, cát chảy và hàng trăm nghìn hecta đất tiếp tục bị thoái hoá. Loại đất  Diện tích (ha)  Phân bố   Đất trống bị thoái hoá mạnh  7 triệu  Toàn quốc   Đụn và bãi cát di động  400.000  Ven biển miền Trung   Đất bị xói mòn  120.000  Tây Bắc, Tây Nguyên   Đất nhiễm mặn, phèn  30.000  Đồng bằng sông Cửu Long   Đất khô hạn theo mùa hoặc vĩnh viễn  300.000  Nam Trung bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận và Khánh Hoà)   3. Biện pháp khắc phục và đề phòng sa mạc hoá: 3.1 Thành lập các vành đai xanh quanh các sa mạc: Đây là một biện pháp rất có giá trị và được ứng dụng rộng rãi để ngăn cản sự mở rộng của sa mạc. Ngoài ra, nó còn có tác dụng trong việc bảo vệ đất đai, chống lại các quá trình rửa trôi, giữ ững độ phì cho đất, bảo vệ mùa màng, điều hòa thời tiết… 3.2 Kiểm soát bề mặt che phủ: Nguyên tắc cơ bản nhất để kiểm soát quá trình sa mạc hóa là kiểm soát bề mặt che phủ, hay nói chính xác hơn là bảo vệ mặt đất khỏi sự tác động trực tiếp của các yếu tố thời tiết bất lợi. Bởi vì nếu kiểm soát tốt bề mặt che phủ thì mặt đất sẽ được bảo vệ tránh khỏi các yếu tố như xói mòn và rửa trôi. 3.3 Ứng dụng những kĩ thuật hiện đại: Sử dụng ảnh vệ tinh trong việc theo dõi các yếu tố thời tiết, khí hậu nhằm tìm mối quan hệ giữa các yếu tố thời tiết đó với nạn sa mạc hoá. Các dẫn liệu về đất đai, khí hậu, thời tiết sẽ cho phép ta giải đoán chính xác diễn biến của hiện tượng sa mạc hóa. Tuy nhiên, sẽ không có biện pháp nào hữu hiệu nếu như không kiểm soát tốt những hành động của con người. Vì con người là một tác nhân qua trọng làm gia tăng diện tích sa mạc. 3.4 Biện pháp chống sa mạc hoá tại Việt Nam: Đối với Việt Nam, khái niệm "chống sa mạc hóa” có nghĩa là "chống hoang mạc hóa, chống thoái hóa đất và hạn chế ảnh hưởng của hạn hán". Theo cách hiểu này, tất cả các hoạt động chống thoái hóa đất và hạn chế ảnh hưởng của hạn hán như chống xói mòn đất, ngăn mặn, ngăn phèn, bảo vệ và phát triển rừng, chống cát di động, quản lý nguồn nước... cần được gắn kết chặt chẽ với xóa đói giảm nghèo trong một chương trình hành động quốc gia chung thông qua các chương trình/dự án đa mục tiêu với các giải pháp cụ thể, có sự tham gia tích cực của nhân dân. Đó là lý do cho sự ra đời của Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa 2006-2010 và định hướng tới 2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 204/2006/QĐ-TTg ngày 2/9/2006 (tên tiếng Anh gọi tắt là NAP 2006). Những nhiệm vụ chính của Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa giai đoạn 2006-2010 và Định hướng tới 2020 được chia làm năm nhóm, cụ thể là: a) Hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước để phòng, chống sa mạc hóa, đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới. b) Nâng cao nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở nghiên cứu phục vụ công tác phòng, chống sa mạc hóa. c) Điều tra, đánh giá thực trạng sa mạc hóa và nghiên cứu xác định nguyên nhân chủ yếu gây sa mạc hóa, đề xuất giải pháp phòng, chống sa mạc hóa tại Việt Nam. d) Tổ chức các hoạt động kinh tế, chuyển giao công nghệ để bảo vệ, quản lý và phát triển tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng đất bị ảnh hưởng bởi sa mạc hóa. e) Hợp tác quốc tế để thực hiện Công ước chống sa mạc hóa. PHẦN KẾT LUẬN Qua bài tiểu luện ta đã hiểu rõ hơn về tình hình ô nhiễm môi trường đất và hiện trạng sa mạc hoá hiện nay. Vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường đất nói riêng đã và đang là vấn đề cần thiết và cấp bách đối với thề giới trong đó có cả Việt Nam mà nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này chính là do tác động trực tiếp hay gián tiếp của con người. Từ những rác thải, phế thải, chất thải rắn trong công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt đến các loại thuốc, hoá chất, phân bón các sản phẩm đã gây độc hại cho đất. Đồng thời cùng với vấn đề sa mạc hoá đang xảy ra trên toàn thế giới do tác động của thời tiết, khí hậu và trong đó có cả con người. Hai vấn đề trên đã gây ảnh hưởng đến đời sống của con người cũng như những sinh vật khác trên hành tinh này dẫn đến tình trạng thiếu đất ở, trồng trọt khi dân số đang ngày một gia tăng nhanh chóng, gây ảnh hường xấu đến sức khoẻ của con người làm xuất hiện những căn bệnh mới nguy hiểm đe doạ mạng sống của con người. Do đó để khắc phục được hai vấn đề này ta cần phải có những biện pháp thích hợp để cải tạo lại môi trường sống tốt. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đến việc nâng cao ý thức của con người trong việc bảo vệ môi trường để giảm bớt ô nhiễm môi trường và chống lại sa mạc hoá. DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO Đại học công nghiệp thành phố HCM- Viện khoa học công nghệ và quản lý môi trường- Môi trường cơ bản- Thạc sĩ Võ Đình Long. Đại học quốc gia- Môi trường- Giáo sư Tiến sĩ khoa học Lê Huy Bá Đại học quốc gia- Sinh thái môi trường đất- Giáo sư Tiến sĩ khoa học Lê Huy Bá Trang web: www.ebook.edu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÔ nhiễm đất và sa mạc hóa.doc