Phân công lao động trong nông nghiệp – nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa - thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU . 3 Chương I :ThẾ nào là kinh tẾ nong thôn ( KTNT ) 1.1.Khái niệm 4 1.2.Cơ cấu kinh tế . 4 1.3.Vai trò của KTNT 5 Chương II :ThỰc trẠng nỀn KTNT ViỆt Nam HiỆN NAY 2.1.Những thành tựu của nền kinh tế nông thôn Việt Nam 6 2.2.Những tồn tại trong nền kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam . 10 Chương III : QUÁ TRÌNH CNH-HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 3.1.Thế nào là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn? 14 3.2.Nội dung CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin . . 15 3.3.Sự cần thiết phải phát triển KTNT trong quá trình CNH-HĐH . 16 Chương IV : NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KTNT VIỆT NAM 4.1.Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững 18 4.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế . 19 4.3.Giải pháp đối với vốn đầu tư và chương trình phát triển . . 19 4.4.Sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã . . 20 4.5.Vấn đề ngân sách, tài chính, tiền tệ và tín dụng . . 21 4.6.Những vấn đề bức xúc về xã hội . 22 KẾT LUẬN . 24

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3432 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân công lao động trong nông nghiệp – nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa - thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nay kinh tế nông thôn còn dựa vào công nghiệp để phát triển nhưng là sự phát triển đầy đủ, tổng hợp, đa ngành nghề, với những biến đổi quan trọng trong phân công lao động xã hội tại khu vực nông thôn tạo ra nhiều lưc lượng sản xuất mới. Kinh tế nông thôn có nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội đồng thời tạo ra sản phẩm xuất khẩu Kinh tế nông thôn nhất thiết phải có công nghiệp gắn với nông-lâm-ngư nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến. Cùng với sự phát triển đó công nghiệp ở nông thôn còn phát triển thêm nhiều ngành khác như công nghiệp cơ khí sửa chữa máy móc nông nghiệp ,còn một bộ phận tiểu thủ công nghiệp với các trình độ khác nhau, sản xuât các hàng hoá không có nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra còn có các loại hình dịch vụ thương nghiệp, tín dụng, khoa học và công nghệ, tư vấn… Các loại hình này cùng với các cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ là những bộ phận hợp thành của kinh tế nông thôn và sự phát triển manh mẽ và hợp lý của chúng là biểu hiện trình độ phát triển của kinh tế nông thôn. 1.2.Cơ cấu kinh tế : Kinh tế nông thôn là một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu thành phần thì nền kinh tế nông thôn có bấy nhiêu thành phần. Tuy nhiên các thành phần kinh tế đó trong nông thôn sẽ có những đặc điểm riêng biệt và đặc thù của nền kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn nhất thiết phải có thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các thành phần kinh tế khác. Bộ phận tiêu biểu cho kinh tế nhà nưởc trong nông thôn là các nông trường quốc doanh và các trạm, trại kỹ thuật nông nghiệp, cơ sở hạ tầng… Kinh tế hộ gia đình không tham gia hợp tác xã thuộc thành phần kinh tế cá thể hoặc tiểu thủ. Trong kinh tế nông nghiệp, hộ gia đình và hợp tác xã được tổ chức theo chính sách và luật mới là đơn vị cơ bản làm nông nghiệp. Kinh tế hợp tác sẽ trở nên đa dạng hơn không những trong nông nghiệp mà còn trong công nghiệp, thương nghiệp, tín dụng… Kinh tế hợp tác sẽ cùng kinh tế nhà nưởc trong nông thôn hợp thành nền tảng của kinh tế nông thôn theo định hướng XHCN. Kinh tế nông thôn tất yếu có thành phần kinh tế tư bản tư nhân và cũng có thành phần tư bản nhà nước. Sự phát triển của kinh tế nông thôn theo đinh hướng XHCN đòi hỏi phải tìm ra những hình thức kinh tế thích hợp để từng bước đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn. 1.3.Vai trò của KTNT : 1.3.1.Phát triển KTNT góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo đảm thắng lợi cho tiến trình CNH – HĐH : Phát triển kinh tế nông thôn trước hết là phát triển kinh tế nông nghiệp một cách mạnh mẽ và ổn định, tạo cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân , nhất là cho công nghiệp một cơ sở vững chắc về nhiều phương diện, trước hết là về lương thực thực phẩm. Mặc dù ngày nay nước ta đang trên con đường CNH nhưng nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng. Nó thoả mãn nhu cầu ăn. Người xưa nói “Có thực mới vực được đạo”. Với việc phát triển đồng bộ các ngành nghề ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm không chỉ cung cấp cho trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước trên thế giới. 1.3.2.Phát triển KTNT sẽ thực hiện được quá trình CNH-HĐH tại chỗ : Gắn bó công nghiệp với nông nghiệp, vấn đề đô thị hoá sẽ được giải quyết tại chỗ theo phương thức đô thị hoá tại chỗ, làm cho người lao động có việc làm tại chỗ, giảm sưc ép của sự chênh lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và không phát triển. Nước ta phải có các biện pháp phát triển thích hợp, đồng đều giữa các nền kinh tế trong nước, làm cho toàn bộ nền kinh tế chuyển mạnh sang một nền kinh tế hàng hoá phát triển . 1.3.3.Sự phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hoá ở nông thôn : Nông thôn vốn là vùng kinh tế-văn hoá lạc hậu, sản xuất và sinh hoạt phân tán, nhiều hủ tục, ít theo pháp luật thống nhất. Mặt khác nông thôn là nơi truyền thống cộng đồng còn sâu đậm. Phát triển kinh tế nông thôn tạo điều kiện để giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bài trừ văn hoá lạc hậu. Mặc dù nông thôn Việt Nam nay còn tồn tại nhiều vấn đề, xuất hiện nhiều vấn đề phi văn hoá, tệ nạn xã hội nhưng việc bảo tồn các giá trị văn hoá vẫn được nhà nước quan tâm và phát triển. 1.3.4.Sự phát triển kinh tế nông thôn gắn liền với phát triển xã hội, văn hoá, chính trị và kiến trúc thượng tầng theo định hướng XHCN ở nông thôn, góp phần quyết định đến thắng lợi của CNXH trên đất nước ta : Một nước mà nền kinh tế phát triển đồng nghĩa với việc phát triển văn hoá, chính trị, y tế, khoa học. Đó cũng là thắng lợi của việc giữ vững và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền và lợi ích quốc gia. Một nước có nền kinh tế nông thôn phát triển, đời sống nhân dân ấm no về vật chất ,yên ổn và tươi vui về tinh thần sẽ là một nhân tố quyết định củng cố chắc trận địa lòng dân, thắt chặt mối liên minh công-nông, bảo đảm cho nhân dân ta có thể đánh bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Có thể nói rằng kinh tế nông thôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Cùng với sự phát triển của xã hội với quá trình CNH đã tạo ra một bước phát triển mới cho nông thôn Việt Nam. Hiện nay nước ta đang trên con đường đổi mới và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ, chúng ta đang ngày càng phát triển không chỉ ở lĩnh vực công nghệp, dịch vụ mà cả nông nghiệp. Đảng ta luôn kiên định phát triển kinh tế theo định hướng XHCN, trong đó sự phát triển kinh tế nông thôn luôn gắn liền với sự phát triển văn hoá xã hội, khoa học, kỹ thuật. Đó cũng là nhân tố giúp phát triển kinh tế nông thôn nước ta hiện nay. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển sẽ tạo điều kiện cho các máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chương II : ThỰc trẠng nỀn KTNT ViỆt Nam HiỆN NAY 2.1.Những thành tựu của nền kinh tế nông thôn Việt Nam : Thực hiện CNH-HĐH trong thời kỳ đổi mới nhất là trong những năm gần đây nông nghiệp Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng kể : 2.1.1.Sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá đã có bước phát triển mới : Mô hình trang trại gia đình được nhân rộng khắp các vùng trong cả nước, từ vùng đồng bằng ven biển, trung du cho đến miền núi. Tây Nguyên lấy sản xuất hàng hoá đa ngành làm hướng phát triển chính. Đến năm 2002 đã có gần 65000 trang trại, tăng gần 10000 trang trại so với năm 2000. Trong đó trang trại trồng cây tăng 27,9%, chăn nuôi tăng 2,9% lâm nghiệp tăng 2,7%, nuôi trồng thuỷ sản tăng 27,9%, kinh doanh tổng hợp tăng 3,3%. Mô hình trang trại ngày càng gia tăng là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế nông thôn Việt Nam. Ngày nay với sự quan tâm của Đảng và chính phủ, nông thôn đã có nền nông nghiệp thống nhất với sự quản lý đúng đắn, mô hình phong phú kết hợp với nhiều loại hình trang trại tạo ra sự phong phú và đa dạng trong nông nghiệp. Các trang trại đã thu hút được lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn, giải quyết công ăn việc làm mang lại thu nhập cho họ. Trong các trang trại sử dụng một lượng lao động khá đông đảo, đến năm 2001 các trang trại đã sử dụng 400.000 lao động trong đó có 197764 lao động là thuê ngoài. Do tính chất thời vụ nên lực lượng lao động làm thuê cho các trang trại chủ yếu là lao động thời vụ, chiếm 70,9% trong tổng số lao động làm thuê. Mô hình trang trại phát triển đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, tránh được tình trạng thất nghiệp dẫn đến các tệ nạn xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân. Các trang trại không ngừng đầu tư và phát triển sản xuất. Năm 2002 tổng số vốn đầu tư của các trang trại đạt tới 9798,5 triệu đồng. Trong đó vốn đầu tư chủ yếu là vốn của các chủ trang trại chiếm 84,6%, vốn vay của ngân hàng 13,2 %, và các nguồn khác 2,2%. Doanh thu của các trang trại đạt 133,6 triệu đồng, cao nhất là vùng đồng bằng sông Hồng đạt 175,3 triệu đồng. Mặc dù các trang trại mới đầu tư và phát triển gần đây nhưng đã tạo ra một khối lượng sản phẩm tương đối lớn, đó là kết quả thực hiện thắng lợi chính sách điện khí hoá trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Sản xuất lương thực phát triển tốt, đảm bảo an ninh quốc gia và biến Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Sản lượng lương thực 19,6 triệu tấn năm 1988, 31,8 triệu tấn năm 1998, 35,7 triệu tấn năm 2000 và gần 40 triệu tấn năm 2002, bình quân một năm tăng hơn 1,5 triệu tấn. Sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về năng suất và diện tích. Cả nước năm 1990 mới gieo được 6 trỉệu ha thì đến năm 2000 tăng lên 7,67 triệu do khai hoang và tăng vụ. Cơ cấu mùa vụ và cây trồng đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân, lúa hè thu, giảm diện tích lúa mùa có năng suất thấp, tạo điều kiện tăng năng suất lúa từng vụ trong năm. Thành tựu đó thể hiện rõ nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. 10 năm qua sản xuất lúa nước ta còn đạt được trình độ thâm canh tăng năng suất và chất lượng gạo. Trình độ thâm canh của nông dân cùng với sự tác động tích cưc của khoa học kỹ thuật, nhất là việc tạo ra giống lúa mới tăng năng suất và chất lượng gạo có giá trị xuất khẩu. Sản lượng lúa phát triển ổn định, từ 32 tạ/ha năm 1990 lên 39 tạ/ha năm 1998, 42,6 tạ/ha năm 2000.Trung bình mỗi năm tăng hơn 1 tạ/ha và tổng sản lượng đạt 32,7 triệu tấn năm 2000. Việc tăng nhanh sản lượng lúa đã góp phần đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong điều kiện thời tiết không thuận lợi. Măc dù gặp nhiều thiên tai lũ lụt hạn hán nhưng chúng ta vẫn thu được lợi nhuận cao từ việc xuất khẩu gạo sang nước bạn. Chất lượng gạo của chúng ta đã được tăng lên rõ rệt thể hiện ở mức chênh lệch về giá gạo giữa Việt Nam và Thái Lan năm 1995 là 40-45 USD/tấn nay chỉ còn 15-20 USD/tấn. Không chỉ có sản lượng lúa tăng nhanh mà hoa màu và lương thực vẫn phát triển khá ổn định trong những năm qua đã góp phần bổ sung nguồn lực cho người và thức ăn cho gia súc, sản lượng màu quy thóc trung bình mỗi năm tăng gần 3 triệu tấn. Trong đó tăng nhanh nhất là ngô, với sản lượng gần 2 triệu tấn, diện tích canh tác khoảng 30 vạn ha. Sản lượng ngô tăng nhanh trong những năm gần đây và trở thành cây hoa màu chủ yếu của nước ta hiện nay và trong tương lai.Việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật như việc tạo ra cây giống mới, thực hiện các biện pháp chăm bón và tưới tiêu hợp lý để tăng nhanh năng suất và chất lượng của các giống ngô. Đa dang hoá cây trồng có nhiều tiến bộ. Trong trồng trọt nước ta bước đầu đã có bước chuyển lớn trong trồng trọt như thực hiện phương châm “đất nào cây ấy" để tăng hiệu quả, chuyển dần những vùng đất trồng cây lương thực có giá trị thấp sang cây trồng co giá trị cao hơn. Trong những năm gần đây sn lượng tăng nhanh, so với những năm trước thì : sản lượng lạc tăng 34%, cà fê tăng 2,8 lần, cao su tăng 87% , hồ tiêu 68%, chè 27,3 % . Mặc dù trong nhưng năm gần đây giá cà fê giảm nhưng sản lượng xuất khẩu cà fê vẫn tăng nhanh. Cùng với cây cà fê là cây cao su là mặt hàng xuất khẩu có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 sau gạo và cà fê , sản lượng cao su xuất khẩu cao,Việt Nam đang mở rộng xuất khẩu rộng ra 30 nước trên thế giới , trong đó Trung Quốc là thị trường lớn nhất, thu hút đến 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Mía là cây công nghiệp ngắn ngày có tốc độ tăng trưởng nhanh, diện tích canh tác không ngừng được mở rộng đến nay có khoảng 400 ngàn ha. Sản lượng mía cũng tăng nhanh, hằng năm tăng khỏang 10% và hiện nay đạt 22 triệu tấn. Diện tích trồng mía cũng như sản lượng không ngừng được tăng lên là vì nhu cầu làm nguyên liệu cho các nhà máy đường hoạt động. Các loại cây ăn quả có chất lương cao phát triển cao, nhất là nho, vải thiều, mận, cam, thanh long, chôm chôm… đã đem lại hiệu quả kinh tế rõ nét ở vùng Nam Bộ và một số tỉnh phía Bắc, như Bắc Giang, Quảng Ninh đã vươn lên làm giàu nhờ mở rộng diện tích và tăng năng suất vải thiều, nổi bật là huyện Lục Ngạn (Bắc Giang). Trong cả nước sản lượng vải cam, chôm, bưởi, nho… không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng quả tươi cũng được tăng lên. Chăn nuôi phát triển toàn diện. Cùng với các ngành khác trong nông nghiệp chăn nuôi cũng có vị trí rất quan trọng, sự phát triển của nó đã tạo ra thu nhập và tạo mức lợi nhuận cho xã hội. Trong những năm gần đây số lượng đàn gia súc tăng liên tục, trung bình hàng năm đàn trâu tăng 5%, bò 10%, lợn 20%, đàn gia cầm tăng 25%. Trong đó chăn nuôi bò sữa là một nghề mới của thành phố HCM và HN. Năng lực của ngành thuỷ sản được tăng cường. Số hộ gia đình tham gia sản xuất thuỷ hải sản tăng nhanh. Hiện nay có 509 nghìn hộ chiếm 3,5% tổng số hộ sản xuất nông nghiệp. Số lượng tàu đánh bắt thuỷ hải sản tăng, có trên 123000 chiếc. Có nhiều tàu nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nét nổi bật nhất trong nuôi trồng thuỷ hải sản là số trang trại tham gia nuôi trồng cao, đem lại hiệu quả thiết thực. Cả nước có 16952 trang trại nuôi trồng thuỷ hải sản, được phân bố khắp 8 vùng trong cả nước. 2.1.2.Cơ cấu ngành nghề có chuyển biến tích cực : Cơ cấu ngành nghề trong nông thôn đã có sự thay đổi về tỷ trọng, khá rõ nét theo hướng tích cực. Số lượng các nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh. Tỷ lệ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng, trong năm 2001 chiếm 5,8%. Cơ cấu trong các nhóm hộ nông lâm thuỷ sản, hộ lâm nghiệp tăng lên, hộ nông nghiệp giảm xuống… 2.1.3.Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn được nghiên cứu và hoàn thiện : Thực hiện đường lối đổi mới theo hướng CNH-HĐH trong thời kỳ đổi mới trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có các biện pháp để xây dựng và nâng cao kết cấu hạ tầng nông thôn qua nhiều dự án phát triển của chính phủ : Điện khí hoá : điện khí hoá nông thôn đã có sự phát triển vượt bậc và khá toàn diện, cả nước có 7712 xã có điện (86,2%) các vùng chiếm tỷ lệ tăng cao nhất là miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Đặc biệt giá điện nông thôn cũng có xu hướng giảm. Đường giao thông : sau điện đường giao thông là một trong những yếu tố được nhà nước ta quan tâm và đầu tư trong những năm qua. Cả nước có 8641 xã có đường ô tô đến UBND xã. Tuy chất lượng đường giao thông còn thấp nhưng cũng đã có những tiến bộ vượt bậc. Trường học và y tế : hệ thống trường học ở nông thôn phát triển toàn diện. Đến nay có 99.9% số xã có trường tiểu học, 84,5% có trường trung học cơ sở. Hệ thống trường học được mở rộng trên toàn quốc, điều đó khuyến khích con em đến trường để nâng cao trình độ và hiểu biết của mình. Đồng thời với sự quan tâm và chính sách ưu đãi của nhà nước nên trẻ em các vùng dân tộc vùng sâu vùng xa, hải đảo đến trường ngày một nhiều hơn. Trong y tế việc mở rộng các cơ sở khám bệnh và tăng cường cán bộ ngành y cho cơ sở cung được quan tâm, thực hiện chủ trương đưa bác sỹ về miền núi khám và chữa bệnh cho nhân dân. Hiện nay đã có 8863 xã có trạm y tế, chiếm 99%. Thông tin liên lạc và cơ sở văn hoá : hệ thống thông tin liên lạc được Nhà nước hỗ trợ và phát triển đáng kể. Điểm bưu điện văn hoá xã là một mô hình thông tin văn hoá nông thôn mới được phát triển trong những năm gần đây, nhưng đã được phát triển trong cả nước. Hệ thống điện thoại không chỉ được phát triển đến trung tâm xã mà còn được toả ra đến các hộ gia đình ở nông thôn. Hệ thống cơ sở văn hoá tiếp tục phát triển, đến nay cả nước có 1452 xã có nhà văn hoá, 724 xã có thư viện. Trong đó cao nhất là ĐBSH .Măc dù số nhà văn hoá chưa nhiều nhưng đã và đang được khắc phục và đang từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Mạng lưới chợ : sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo cơ chế thị trường, lấy sản xuât hàng hoá làm hướng chính tạo tiền đề và điều kiện để phát triển mạng lưới chợ. Đến nay cả nước có 7153 xã có chợ. Không chỉ tăng nhanh về số chợ mà chất lượng chợ cũng được tăng nhanh. Tỷ lệ chợ được xây kiên cố tăng còn chợ tạm giảm xuống. Cơ cấu về mặt hàng ở chợ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Những tiến bộ mà nhà Nước đạt được trong nông nghiệp đã chứng tỏ nền kinh tế nông thôn Việt Nam ngày càng phát triển và đang đi theo con đường CNH-HĐH. Bộ mặt nền kinh tế nông thôn ngày càng khởi sắc, theo hướng đi lên đến trình độ văn minh hiện đại. 2.2.Những tồn tại trong nền kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam : 2.2.1.Chuyển đổi kinh tế nông thôn còn chậm : Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn rất chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hoá. Trong cơ cấu tổng thu nông-lâm-ngư nghiệp thuỷ sản thì thu từ ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn (79,9%). Trong trồng trọt thì trồng cây lương thực vẫn là chủ yếu. Nhiều loại cây công nghiệp cho hiệu quả kinh tế lớn chưa được đầu tư đúng mức, tỷ trọng cây công nghiệp còn thấp (10%). Cơ cấu các ngành nông-lâm nghiệp và thuỷ sản cũng có sự thay đổi hướng theo chiều tăng của thuỷ sản và giảm nông-lâm nghiệp nhưng quá trình diễn ra còn rất chậm, so với yêu cầu của CNH-HĐD nông thôn thì quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động của hộ nông thôn còn chậm và phát triển không đều. 2.2.2.Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng phục vụ sản xuất nông nghiệp : Mặc dù đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung chuyên sản xuất hàng hoá nhưng hiện tại các yếu tố phục vụ sản xuất, công nghệ vẫn còn thiếu và không đồng bộ. Kết cấu hạ tầng còn thấp kém đã làm hạn chế việc khai thác và phát huy thế mạnh các tiềm năng kinh tế. Cụ thể là : Hệ thống thuỷ lợi : hiện tại chủ yếu phục vụ sản xuất lúa, chưa đáp ứng được nhu cầu của cây trồng khác. Nhiều vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày như cà fê, hồ tiên… đang thiếu nước trầm trọng làm giảm năng suất, chất lượng sản phẩm. Việc chú trong phát triển không đồng đều về hệ thống thuỷ lợi đã làm cho nền nông nghiệp phát triển chậm và chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt và hạn hán. Hệ thống giao thông vận tải : trên đồng ruộng cũng như đường sá vận chuyển đến nơi tiêu thụ xấu, làm tăng chi phí vận chuyển, giảm chất lượng sản phẩm, làm mất sức cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay bình quân 1km2 đất nông nghiệp chỉ có 320m đường ôtô, ở miền núi chỉ đạt 100m mà chủ yếu là đường đất chất lượng thấp không đảm bảo cho vận chuyển lớn, có 50% đường cấp xã mùa mưa không thể đi vào được. Đây là vấn đề cấp bách hiện nay, với đường xá như vậy là một khó khăn lớn cho phát triển kinh tế nông thôn . Hệ thống điện khí hoá : mặc dù nhà nước đã có nhiều biện pháp cung cấp điện cho từng hộ gia đình trong cả nước nhưng vẫn còn một số khó khăn chưa giải quyết được. Vẫn còn 1238 xã chưa có điện, chiếm 14%. Hơn thế nữa giá điện ở đây rất đắt. Ở nông thôn thu nhập thấp thì giá điện lại cao còn ở thành thị thu nhập cao hơn thì giá điện lại rẻ hơn. Giá điện dùng cho nông ngiệp chủ yếu là đáp ứng nhu cầu nhỏ cho thuỷ lợi, xay xát gạo, chế biến nông sản… còn cao. Cơ khí hoá nông nghiệp còn hạn chế : do hạ tầng nông nghiệp nông thôn còn thấp kém đất canh tác chia nhỏ cho từng hộ gia đình nên việc đưa cơ khí hóa vào sản xuất là khó khăn nên vẫn chủ yếu là lao động thủ công. Một khó khăn nữa cho nền kinh tế nông thôn là nông dân còn nghèo, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển, máy móc thô sơ. Hệ thống trường học : hiện nay đã được nhà nước đầu tư và quan tâm nhưng vẫn tồn tại nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta tuy có giảm nhưng vẫn còn cao. Số trẻ em đến trường chưa cao đặc biệt là ở vùng cao. Người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của học thức thêm vào đó là kinh tế còn nghèo không có điều kiện cho con đến trường. Đây là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm. Sự phân bố mạng lưới y tế : ở nông thôn không đồng đều. Ở miền núi các trạm y tế vẫn chưa phát triển đặc biệt là vùng Đông Bắc và Tây Nguyên. Các trạm y tế chưa có đủ máy móc để khám và chữa bệnh. Y tế có vai trò rất quan trọng vì có sức khỏe thì mới có thể tham gia lao động và sản xuất. 2.2.3.Các hoạt động dịch vụ chưa phục vụ kịp thời cho sản xuất nông nghiệp : Dịch vụ cung ứng phân bón và vật tư nông nghiệp : hệ thống tổ chức và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động này còn chưa hợp lý. Dịch vụ cung ứng giống cây trồng vật nuôi của các cơ sở nhà nước : không đáp ứng đủ nhu cầu mà chủ yếu do tư nhân đảm nhiệm, chưa được quản lý chặt chẽ nên chất lượng chưa cao, sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ về vốn : còn nhiều yếu kém. Các tổ chức cung ứng vốn của nhà nước quy mô vốn nhỏ, khả năng cấp vốn nhỏ, chưa có các chính sách cũng như biện pháp đầy đủ để phát triển, điều kiện thế chấp còn nhiều bất cập và chưa phổ biến. Sự phân định cơ chế thị trường và chính sách ưu đãi tín dụng chưa rõ ràng. Mặt khác thị trường tài chính nông thôn còn chưa phát triển nên chưa phục vụ cho sản xuât hàng hoá ở nông thôn. Dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật : còn chưa phát triển do chưa gắn với thực tế, chưa gắn với sản xuất kinh doanh của nông dân. Ngược lại quyền lợi của một số trung tâm nghiên cứu chưa cao. 2.2.4.Chất lượng nông sản hàng hoá chưa đáp ứng thị trường, chủng loại đơn điệu, khả năng cạnh tranh kém, giá trị thấp khó tiên thụ : Nhiều nông sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế, sản phẩm qua chế biến, tinh chế chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, lượng xuất lớn nhưng giá trị thấp. Bao bì mẫu mã chưa được cải tiến nên chưa thu hút được người mua. Hơn nữa giá thành hàng nông sản còn cao. Công nghệ sau khi thu hoạch như bảo quản, chế biến trong tình trạng cũ kỹ và lạc hậu dẫn đến tổn thất sau khi thu hoạch là rất lớn. Trong chế biến mức tiêu hao cao, tỷ lệ thu hồi thấp, giá thành cao nhưng chất lượng sản phẩm thấp, chưa đảm bảo chất lượng quốc tế. Tác động của công nghiệp đến nông nghiệp chưa rõ rệt, công nghiệp chế biến hàng nông sản yếu kém, các khâu làm đất, vận chuyển, thu hoạch... vẫn sử dụng nhiều công đoạn thủ công và lao động sống. Do vậy mà năng suất lao động thấp và chất lượng chưa cao. Thêm vào đó là đất đai bị chia nhỏ với mức bình quân đầu người thấp. Việc phân chia như thế có tác dụng đảm bảo cho “người cày có ruộng” nhưng lại có nhược điểm là tính bình quân quá cao ràng buộc chặt hơn giũa người nông dân và ruộng đất, với trồng trọt dẫn đến lao động dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp làm cho khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa. 2.2.5.Thị trường nông sản phẩm : Thị trường trong nước: do hộ cá thể, tư nhân đảm nhiệm cho nên chưa có tổ chức, hàng hoá ứ đọng, khó tiêu thụ, giá không tăng được mà còn bị ép giá. Phương thức tiêu thụ tản mạn và không gắn bó với sản xuất, tình trạng hộ nông dân vừa sản xuất vừa lo tìm nơi tiêu thụ khá phổ biến. Chưa xây dựng được chiến lược thị trường nông sản nội địa, việc sản xuất, tiếp thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng hoá nên chưa có hiệu quả đối với sản xuất. Tình trạng ứ đọng hàng hoá, giá cả không ổn định. Cơ chế chính sách về thị trường và chính sách quản lý vĩ mô luôn thay đổi làm cho không ít các doanh nghiệp lúng túng thay đổi không kịp không định hướng được hoạt động kinh doanh. Nay hàng nhập lậu vào Việt Nam rất nhiều, hàng giả thao túng chèn ép nông sản hàng hoá ngay trên thị trường nội địa. Thị trường xuất khẩu : Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới trong điều kiện thế giới đang phân chia. Các doanh nghiệp còn non trẻ, hệ thống quản lý con yếu đã phải cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn là các nhà xuất khẩu chính nhưng do chân hàng yếu hoặc không ổn định nên thường phải gom hàng qua trung gian. Kết quả là không chủ động trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm. Hơn nữa các tổ chức thông tin còn kém phát triển nên chưa nắm bắt được thông tin kip thời. Cùng với đó là trình độ quản lý yếu kém điều hành sản xuất thiếu đồng bộ chưa phù hợp với thông luật quốc tế, về khả năng tiếp thị của doanh nghiệp còn yếu nên giá bán nông sản thường bị ép giá thua thiệt trên thị trường thế giới. Tiêu thụ nông sản khó khăn, giá cả bất hợp lý đó là vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam, nó tác động tiêu cực tới nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân và thực tế đã giảm đi cầu của công nghiệp và dich vụ. Thị trường nông thôn yếu kém đã ảnh hưởng tới đầu ra của sản phẩm nông nghiệp. Tư thương đã chi phối gần như tất cả thị trường nông thôn cả miền Nam cũng như miền Bắc. Chương III : QUÁ TRÌNH CNH-HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 3.1.Thế nào là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn? 3.1.1.Định nghĩa : CNH-HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hoá điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm. CNH-HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nghành dịch vụ và công nghiệp, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. 3.1.2.Một số quan điểm của Đảng ta trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam : CNH nông nghiệp nông thôn là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng trong quá trình CNH-HĐH. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực cho CNh-HĐH nông nghiệp nông thôn. Chú trọng phát huy nguồn lực con người và phát triển lực lượng sản xuất, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá với quy mô lớn với chất lượng cao. Đồng thời không quên nhiệm vụ bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên va giảm nhẹ thiên tai. CNH nông nghiệp nông thôn phải dựa vào nội lực là chủ yếu đồng thời phải tăng sự đầu tư của nước ngoài, phát huy mọi tiềm năng kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa các vấn đề xã hội nhằm giải quyết tốt công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Đầu tư và phát triển kinh tế ở các khu vực quan trọng của đất nước như các vùng xung yếu, các vùng hải đảo, biên giới. Phù hợp với chiến lược quốc phòng an ninh toàn dân. 3.2.Nội dung CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin : Theo Lênin CNH nông nghiệp nông thôn là quá trình cơ khí hoá tự động hoá các nghành sản xuất nông nghiệp, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng, bao gồm nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp dịch vụ, thúc đẩy phân công lao động, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hiện đại hoá là quá trình nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng nâng cao đời sống tinh thần, hệ thống giáo dục, y tế, hoàn thiện con người. 3.2.1.Hợp lý hoá phân công lao động xã hội : Thực hiện quá trình tách rời, độc lập hoá chuyên môn hoá ngành nghề ở nông thôn, Lenin đã khẳng định thực hiện sự phân công lao động xã hội là nhằm “biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng mà cả việc sản xuất riêng từng bộ phận riêng của sản phẩm và không những việc sản xuất sản phẩm mà cả từng thao tác trong việc chế biến sản phẩm tiêu dùng, thành một ngành công nghiệp riêng biệt”. Ông chỉ rõ phân công lao động công nghiệp và phân công lao động trong nông nghiệp. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong phương pháp luận đối với việc chỉ đạo quá trình phân công lao động xã hội trong nông nghiệp. Chuyên môn hoá trong nông nghiệp biểu hiện trong việc hình thành các vùng chuyên doanh trồng trọt, vùng chăn nuôi, vùng công nghiệp chế biến. Điều này đòi hỏi một trình độ khoa học phát triển và sự chỉ đạo sáng suốt của chính phủ. Thực hiện tiết kiệm lao động, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. Đứng trên quan điểm xã hội thì năng suất lao động tăng đồng nghĩa với việc tăng tiết kiệm lao động. C.Mac viết “nguyên vật liệu phải được tiêu dùng một cách hợp lý, bởi vì vật liệu hay nguyên vật liệu lao động bị tiêu một cách hoang phí là những lượng lao động vật hoá bị tiêu hao một cách vô ích do đó chúng ta không được tính đến và không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm”. Lênin cũng rất coi trọng viêc phân bố hợp lý lực lượng sản xuất đối với nhiệm vụ CNH-HĐH. Theo ông phân bố hợp lý lực lượng sản xuất đòi hỏi phải sử dụng đầy đủ các nguồn dự trữ lao động và tài nguyên thiên nhiên của tất cả các vùng, bố trí sản xuất ngay tại địa phương để tiện chuyên chở và sản xuất, sử dụng nguồn lao động tại chỗ. 3.2.2.Áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp : Đó chính là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Lenin đánh giá cao vai trò của KHKT trong việc phát triển kinh tế nông thôn. Ông cho rằng một nước nông dân đặc sệt, muốn nâng cao trình độ lao động của họ lên thì phải trải qua nhiều năm phát triển KHKT. 3.2.3.Thực hiện liên kết công-nông nghiệp : Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong phân công lao động xã hội. Một nền kinh tế muốn phát triển tất yếu phải có sự phát triển và sự phối hợp đồng đều giữa các ngành trong nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến cho thấy nông nghiệp phát triển như thế nào. Ông viết “sự phát triển kỹ thuật chế biến nông sản thường gắn liền với sự tiến bộ của KHKT trong nông nghiệp, một mặt việc sản xuất nguyên liệu chế biến đòi hỏi phải cải tiến nông nghiệp, mặt khác những phế liệu trong việc chế biến thường đem dùng vào nông nghiệp làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên. Hình thức liên kết của công nghiệp và nông nghiệp là một hình thức lưu thông hàng hoá, qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Hình thức này làm thúc đẩy sản xuất phát triển và sự phân công trong sản xuất cũng sâu sắc hơn. 3.2.4.Cơ khí hoá tự động hoá sản xuất nông nghiệp : là cơ sở kinh tế duy nhất của CNXH. Thực hiện cơ khí hoá nông nghiệp nông thôn là áp dụng có hiệu quả các thành tựu của công nghiệp cơ khí, KHKT như máy móc công cụ cải tiến. Lenin cho rằng một nền công nghiệp dựa vào trình độ KHKT hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp đó là điện khí hoá cả nước. 3.2.5.Hoàn thiện nhân tố con người : Đây là một nội dung quan trọng trong CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn . CNH đòi hỏi không chỉ những con người có trình độ KHKT, thành thạo chuyên môn mà còn cần có tác phong làm việc công nghiệp, kỹ thuật lao động, tinh thần chủ động và ý thức trách nhiệm. Để tạo ra được những con người như vậy đòi hỏi phải bảo đảm các điều kiện về văn hoá giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các vùng nông thôn, có chính sách thu hút cán bộ KHKT làm việc ở nông thôn. 3.3.Sự cần thiết phải phát triển KTNT trong quá trình CNH-HĐH : CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn làm biên đổi cơ bản, toàn diện KT-XH về cả nội dung lẫn hình thức tổ chức sản xuất, cả quy hoach tổ chức sản xuất, quy hoạch đồng ruộng, quy hoach nông thôn lẫn đời sống nhân dân. Mục tiêu của quá trình này gồm các vấn đề : chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấucây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ ngoài đồng, nhằm xoá đói giảm nghèo, công bằng xã hội, đô thị hoá nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn gắn liền với việc hợp tác hoá và phát triển nông nghiệp chế biến hàng nông sản. Hợp tác là con đường tiến tới sản xuất lớn và là nền tảng của nền kinh tế nông thôn. Hiện nay Việt Nam đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới do đó không chỉ giới hạn trong việc hợp tác với các doanh nghiệp trong một nước mà còn liên doanh với nhiều nước trên thế giới. Hợp tác xuất phát từ sự tự giác do bản thân mỗi người. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn không thể thiếu ngành chế biến sản phẩm nông sản, nhờ đó mới chuyển nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá. CNH-HĐH áp dụng các tiến bộ KHKT nhằm tạo nhiều chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, có giá trị lớn. KHKT đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế nông thôn. Chỉ có KHKT mới có thể tạo ra được những giống lúa mới, nâng cao cơ sở vật chất, thiết bị máy móc hiện đại tạo điều kiện tốt cho nông nghiệp phát triển. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn kết hợp chặt chẽ vấn đề KT-XH để giải quyết việc làm, xoá đòi giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất. Văn hoá giáo dục, y tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông thôn. Đó là một trong những nhân tố để giúp cho nông nghiệp nông thôn thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn thúc đẩy sự phân công lao đông xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo ra năng suất và giá trị mới. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích tối đa mọi nguồn đầu tư trong nước và quốc tế nhằm phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn, kể cả việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là một số khu công nghiệp quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế xã hội ở nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. Ở đây, vấn đề quan trọng là phải làm sao cho không để nông thôn bị bần cùng hoá do không có đất sản xuất, thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình CNH-HĐH. Trong những năm qua CNH nông thôn đã có những bước phát triển tốt, cơ cấu thị trường thay đổi, đáp ứng nhu cầu thị trường, kết hợp các làng nghề thủ công, phát triển và đổi mới công nghệ trên cơ sở các ngành nghề cũ. Nhiều mặt hàng có giá trị đã xuất hiện trên thị trường. Các ngành nghề chế biến nông lâm thuỷ sản phát triển. Chương IV : NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KTNT VIỆT NAM 4.1.Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững : Trước tình trạng tuy được mùa, nhưng thu nhập của nông dân bị giảm sút do giá nông sản xuống thấp (Theo đại biểu Hà Văn Phụng, Bắc Cạn, thì năm nay, giá sụt giảm 20 - 30% so với năm 2000); giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới có chiều hướng đi xuống cũng làm tăng thêm sức ép đối với đời sống nông dân; Chính phủ đã đề ra chính sách cho mua tạm trữ một triệu tấn gạo với giá ưu đãi (1300 đồng/kg lúa). Nhiều đại biểu Quốc hội đã nêu vấn đề ai là người hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách này? thay vì nông dân, thì chính mạng lưới thu mua trung gian được hưởng lợi nhiều hơn. Ðối với nông nghiệp và nông thôn, các công trình thuỷ lợi có tầm quan trọng sống còn, do đó, bên cạnh đầu tư của địa phương và đóng góp của nhân dân như hiện nay, nhà nước cần chú trọng đầu tư vào nâng cấp các công trình thuỷ lợi phục vụ dự trữ và tưới tiêu; đặc biệt các công trình kịp phục vụ thoát lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Sức mua ở nông thôn đang có chiều hướng giảm nghiêm trọng do thu nhập ngày càng sút kém và chi phí sản xuất lại tăng lên. Một số đại biểu kiến nghị hàng loạt các biện pháp hỗ trợ qua thuế để giảm chi phí đầu vào cho nông dân và tăng khả năng và hiệu quả ổn định tiêu thụ hàng nông sản như: Miễn toàn bộ không phân biệt hoặc miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạn điền: đất canh tác lúa từ 1-2 ha thì miễn, diện tích đất trên 2 ha thì giảm 50% thuế giảm miễn thuế nhập khẩu vật tư nông nghiệp, thuế từ dịch vụ thủy lợi cho nông dân; hạn chế nhập khẩu nông sản qua chính sách thuế nhập khẩu đối với nông sản; có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản. Giải pháp kích cầu phải đi đôi với các chính sách giáo dục cộng đồng khác về ý thức tiêu thụ hàng sản xuất trong nước; nhất là sản phẩm mua bằng nguồn kinh phí của Nhà nước thì phải ưu tiên mua sản phẩm trong nước; kết hợp với tăng cường có hiệu quả mặt trận chống buôn lậu và áp dụng các biện pháp nghiêm khắc đối với hành vi buôn lậu. Ðể kích cầu tiêu thụ, nên nghiên cứu các cơ chế tín dụng ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện bán hàng, vật tư trả chậm cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn. Ðối với việc đưa điện về nông thôn, cần có đầu tư từ ngân sách công và nỗ lực của ngành điện để thúc đẩy nhanh các công trình đưa điện về nông thôn, giảm bớt chênh lệch giá điện giữa thành thị và nông thôn. 4.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu nền kinh tế: hiện nay có tình trạng nông dân rất linh hoạt trong việc tự chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị cao để tự cứu mình, nhưng cấp huyện, cấp tỉnh chạy theo nông dân còn Trung ương thì bị bỏ lại ở sau khá xa, hỗ trợ không hiệu quả, không lâu dài, bền vững. Quảng Bình cho rằng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn nhiều lúng túng và bị động, chủ yếu là tự phát nên thường dẫn đến sự mất cân đối giữa sản xuất và thị trường tiêu thụ, giữa vùng nguyên liệu và khả năng chế biến của các nhà máy, do đó đã nhiều năm xảy ra tình trạng người nông dân phải tự phá bỏ cây này, con này để chuyển sang trồng cây khác và nuôi con khác gây nên thiệt hại to lớn đối với người nông dân và sự bế tắc, thua lỗ của các nhà máy chế biến, rõ nhất là mía đường, cà phê, cao su.Cần tăng cường vai trò cung cấp thông tin, dự báo về nhu cầu thị trường quốc tế để nông dân có hướng sản xuất thích hợp tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Tuyên Quang và Lai Châu nêu vấn đề người dân không thấy có thu nhập đáng kể từ việc giữ, chăm sóc rừng. Mức khoán khoanh nuôi rừng bảo hộ ở mức 50000 đồng/ha không đủ khuyến khích; việc trồng rừng bán làm nguyên liệu giấy cũng bấp bênh do cơ chế thu mua không ổn định, giá cả thấp, thiếu mối liên kết giữa người sản xuất, chế biến công nghiệp và lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Về tổ chức kinh doanh ở nông thôn, An Giang đề xuất tổng kết các mô hình Hợp tác xã theo quy mô phát triển và có chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế đối với các hợp tác xã loại này, phát triển loại hình Hợp tác xã tín dụng thương mại nông thôn và nghiên cứu củng cố lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh ở nông thôn. 4.3.Giải pháp đối với vốn đầu tư và chương trình phát triển : Trong các công trình sử dụng vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn ODA làm thế nào để chặn đứng tình trạng vốn chờ công trình, tốc độ giải ngân thấp, chậm; hạn chế nạn đầu tư dàn trải, đầu tư không đồng bộ, hiệu quả kinh tế của công trình không cao? Cần đề cao trách nhiệm phối hợp của các cấp, các ngành trong việc chỉ đạo, điều hành kể cả việc hợp nhất các mục tiêu của Chương trình, tập trung đầu tư mạnh vào thủy lợi, xây dựng đường sá, trung tâm cụm xã, Quảng Nam hoan nghênh Chính phủ đề ra biện pháp nhằm cải tiến đơn giản thủ tục cùng với việc tăng cường cơ chế, giám sát, quản lý, đầu tư. Có thể giao cho tổ chức Hội cựu chiến binh chủ trì giám sát những công trình này. Một trong những lý do tình hình xây dựng cơ bản triển khai chậm là do thủ tục đầu tư xây dựng quá rườm rà, vốn tín dụng và Ngân hàng thì ứ đọng, cần có chính sách khuyến khích khôi phục các ngành nghề truyền thống và doanh nghiệp ở nông thôn mới có tiềm năng khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi. Mặt khác, thủ tục vay vốn, bảo lãnh, thế chấp hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế khả năng sử dụng vốn. Liên quan tới vấn đề thế chấp, Chính phủ cũng cần nghiên cứu lại chính sách thu tiền sử dụng đất lần đầu đối với đất thổ cư nhằm đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà, chứng nhận quyền sử dụng đất ở để góp phần giải quyết vấn đề vốn cho người phát triển ngành nghề. Một lý do khác gây chậm tiến độ các dự án đầu tư là do chính sách đền bù trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa nhất quán và thiếu kiên quyết, giá đền bù không hợp lý. Mặt khác, thời gian đấu thầu thường kéo dài vì chủ đầu tư không có quyền và nhiều nhà thầu giảm giá quá thấp. Chính phủ sớm trình dự thảo Pháp lệnh về đấu thầu và giao trách nhiệm thẩm quyền quyết định chọn thầu cho chủ đầu tư, đơn giản bớt các thủ tục thanh toán. Về chính sách đầu tư, phải tăng đầu tư cho nông nghiệp từ 10% hiện nay lên 15 - 20% trong năm tới. Để tăng hiệu quả đầu tư các công trình nhà nước, song song với nhiều biện pháp khác, cần tăng cường vai trò thực chất của Quốc hội trong lĩnh vực phân bổ và giám sát thực hiện ngân sách, chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả, nhiều công trình đầu tư không sử dụng hết công suất, vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu. 4.4.Sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã : Tới đây, cần củng cố doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hợp tác xã như thế nào để đảm bảo thực hiện những nội dung cơ bản của Nghị quyết Ðại hội IX trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và phải trên nền tảng đó để phát triển các thành phần kinh tế khác. Về hoạt động của DNNN, An Giang kiến nghị cần gắn kết doanh nghiệp với nông dân, nói một cách khác là gắn kết sản xuất nguyên liệu với chế biến và thị trường. Ðể phát huy vai trò của DNNN, phải mạnh dạn tách rời quản lý Nhà nước với quyền tự chủ của doanh nghiệp; các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động kinh tế của mình, cũng cần có cách nhìn mới về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp nhà nước qua hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kinh doanh chứ không phải là làm chính sách xã hội hay nhiệm vụ chính trị xã hội thay cho Ðảng và Nhà nước. Về vai trò hợp tác xã, Quảng Bình nhận thấy nhiều tỉnh đã hoàn thành việc chuyển đổi hoặc thành lập mới các hợp tác xã theo Luật hợp tác xã nhưng vai trò của các hợp tác xã còn rất hạn chế, ở một số nơi lại sa vào tính hình thức, kém hiệu quả và đang gặp rất nhiều khó khăn. Vốn và tài sản của hợp tác xã còn nhỏ bé, công nợ dây dưa từ trước để lại, còn nhiều khoản nợ khó đòi, khó trả, trình độ quản lý của cán bộ và chính sách đối với cán bộ hợp tác xã còn nhiều bất cập. Chính phủ sớm tổng kết mô hình kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ, kinh tế trang trại, tổng kết thực hiện Luật Hợp tác xã, tháo gỡ khó khăn, xử lý tồn tại cũ (thanh toán công nợ tồn đọng, thực hiện khoanh nợ, xóa nợ) cho các hợp tác xã. Ðồng ý rằng kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, nhưng điều đó không có nghĩa là cố bám giữ lấy những doanh nghiệp kém hiệu quả. Hiện nay vẫn còn một số vướng mắc trong xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài. Ninh Bình kiến nghị: Chính phủ cần tập trung chỉ đạo các cơ quan có liên quan tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước như xác định giá trị của Doanh nghiệp, xử lý công nợ tồn đọng, giải quyết lao động dôi dư... Ðể dứt điểm giải quyết khoảng 30% số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài nhưng chưa được xử lý. Với cách tiếp cận hỗ trợ qua thuế, Tây Ninh cho rằng thành phần kinh tế hợp tác xã hiện vẫn chịu mức thuế 32% là quá cao so với một số thành phần kinh tế khác, cần điều chỉnh giảm để khuyến khích phát triển hợp tác xã. 4.5.Vấn đề ngân sách, tài chính, tiền tệ và tín dụng : Dự toán ngân sách nhà nước năm 2001 có những bất hợp lý nào không? Trong khi chỉ tiêu tăng trưởng GDP đặt ra là 7,5% nhưng dự toán ngân sách lại giảm so với thực hiện năm 2000 là 3,6%; nên khắc phục mâu thuẫn này như thế nào, cần quyết định thay đổi chỉ tiêu dự toán hay là điều chỉnh mức thu, chi trên cơ sở những giải pháp tăng thu, tiết kiệm chi? Mối quan hệ lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay, lãi suất của VND và USD đã phù hợp chưa? Vệc đánh giá mức thực hiện dự toán ngân sách của Nhà nước năm 1999- 2000 không sát với tình hình thực tế, làm ảnh hưởng tới việc quyết định của Quốc hội về các vấn đề liên quan đến chi ngân sách và mức bội chi ngân sách của Nhà nước, vì vậy Chính phủ cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cần giám sát chặt chẽ những số tăng thu thêm ở những năm quyết toán. Về cho vay tín dụng sản xuất, Hà Tây kiến nghị cần tăng cho vay trung và dài hạn phù hợp với chu kỳ sản xuất cây, con và ngành nghề, không nên phụ thuộc vào cơ cấu cho vay giữa dài hạn và ngắn hạn. 4.6.Những vấn đề bức xúc về xã hội : Vấn đề phân hóa giàu nghèo, bảo đảm quyền lợi của người lao động, giải quyết việc làm trong xuất khẩu lao động, trong sử dụng lao động; làm cách nào để ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nghiện ma túy công khai, sự thác loạn ở các vũ trường thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay, nạn mãi dâm, HIV, AIDS? các giải pháp chống tham nhũng phải được thể hiện như thế nào để thực hiện nghị quyết Ðại hội IX? Về bảo đảm quyền lợi của người lao động ở các trung tâm công nghiệp : Bình Dương - ở khu vực có đông số công nhân "ngụ cư" từ các địa phương khác, kiến nghị Nhà nước cần có chính sách cho phép các doanh nghiệp được hạch toán vốn xây dựng nhà ở cho công nhân vào tài sản cố định cho doanh nghiệp và được khấu hao, vì hiện nay do doanh nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân, nhường cho thị trường nhà trọ tự phát gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của công nhân. Mức thuế suất thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (50%) là cao và hạn chế sự đầu tư cho giáo dục, đào tạo chất xám. Nên quy định không quá 32%- bằng với mức thuế suất tối đa của thuế thu nhập doanh nghiệp. Nói đến quyền lợi của người lao động, vùng đồng bằng bắc bộ Khuất Hữu Sơn (Hà Tây) đời sống khó khăn của người lao động nông nghiệp, càng ngày hố ngăn cách về thu nhập giữa dân thành thị và dân nông thôn ngày càng xa (dân thành thị thu nhập gần gấp 4 lần người dân ở nông thôn). Trong tình trạng lao động dư dôi ở khu vực nông nghiệp có chiều hướng tăng, các cơ sở tuyển dụng lao động ở nước ngoài lại lợi dụng tình thế này gây nhiều phức tạp xã hội, đại biểu Nhà nước cần nghiên cứu vấn đề này để tổ chức tốt đáp ứng yêu cầu lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao động. Cần triển khai bảo hiểm xã hội cho nông dân và về lâu dài không nên bỏ thuế sử dụng đất mà chuyển thành một nguồn đóng góp hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội này. Chế độ trợ cấp cho một số đối tượng chính sách bằng lương cơ bản tối thiểu là 210.000đ và phụ cấp cho trưởng thôn nên điều chỉnh tăng lên (mức 90.000đ hiện nay là thấp và chưa tương xứng với chức danh và chức trách). Miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long đề nghị nghiên cứu lại chế độ tiền lương trong ngành y tế để khuyến khích nhân viên y tế giỏi yên tâm và tận tâm phục vụ, không phải lo làm thêm; chính sách viện phí, bảo hiểm y tế cũng cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Ngân sách cho chăm sóc sức khỏe ở tuyến y tế cơ sở cần tăng cường một cách hiệu quả. Chống lại các tệ nạn xã hội là một vấn đề bức xúc, nhưng rất khó khăn, vụ sau lớn hơn vụ trước, chống ở đô thị thì tệ nạn tràn về nông thôn. Chính tệ nạn xã hội đã trở thành bạn đồng hành với nạn tham nhũng. Cần phải phát động xã hội hóa việc đấu tranh chống tệ nạn xã hội từ gia đình đến trường học, công sở, đường phố, xử lý nghiêm những cán bộ công chức vi phạm và cần có chính sách đầu tư cho các trường giáo dưỡng, dạy nghề, tạo việc làm cho những người lầm lỡ đã hoàn lương. Về vấn đề chống tham nhũng, nên nghiêm túc thực hiện quy định người có chức vụ, quyền hạn phải kê khai tài sản; kết hợp đấu tranh chống tham nhũng với các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường nêu gương các doanh nghiệp làm ăn giỏi, các giám đốc chủ doanh nghiệp thành công trong điều kiện cạnh tranh khó khăn của cơ chế thị trường sản xuất ra của cải vật chất, làm giàu cho đất nước Cần phát biểu nhiều ý kiến xung quanh các vi phạm Bộ luật lao động từ phía người sử dụng lao động và cơ chế bảo hộ kém hiệu quả hiện nay về an toàn, vệ sinh lao động và quyền lợi của người lao động. Tóm lại : các chính sách kinh tế của nhà nước sử dụng để điều khiển, dẫn dắt hoạt động các chủ thể trong nông nghiệp vận hành phù hợp với lợi ích chung của xã hội, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên để đạt tới mục tiêu phát triển đề ra. Khi sử dụng các chính sách tác động vào sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, diều cần chú ý mỗi chính sách cụ thể có phương hướng tác dụng khác nhau và đạt những mục tiêu khác nhau. Do vậy việc phân tích kinh tế các chính sách trong nông nghiệp là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. KẾT LUẬN Trong quá trình CNH-HĐH nông thôn và xây dựng nông thôn mới, sự phân cômg lao động mới tất yếu sẽ xảy ra. Khi chyển sang nền kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp hàng hoá thì cơ cấu xã hội sẽ thay đổi. Cơ cấu xã hôi giai cấp thuần nông trước đây bị phá vỡ. Cơ cấu giai cấp mới xuất hiện, bao gồm những tầng lớp xã hội khác nhau : người lao động cá thể, người lao động trong cùng các tổ chức xã hội người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước… Bên cạnh những tầng lớp xã hội mà nguồn gốc thu nhập dựa vào hoặc chủ yếu dựa vào lao động của bản thân, sẽ xuất hiện những tầng lớp xã hội mà thu nhập dựa vào chiến hữu lao động thặng dư… Do vậy sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá lợi ích kinh tế cùng với khả nâng xung đột về lợi ích kinh tế là điều khó tránh khỏi. Để phát triển kinh tế nông thôn theo định hướng XHCN đòi hỏi phải hạn chế và ngăn chặn, tháo gỡ kịp thời những xung đột để khômg trở thành mâu thuẫn đối kháng về lợi ích trong nông thôn, giữa nông thôn và thành thị. Để đạt được những yêu cầu này, một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về lợi ích là điều tất yếu của kinh tế, khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, người đã giàu càng giàu thêm, tiến tới mọi người cùng giàu có. Mặt khác, không để sự chênh lệch ấy dẫn tới sự đối kháng về lợi ích, bằng cách thực hiện các chính sách và pháp luật, đặt biệt là chính sách phân phối sao cho mọi người điều được hưởng những thành tựu của sự phát triển. Trong thời gian tới cần khuyến khích và định hướng phát triển các loại hình kinh tế, tạo điều kiện cho tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh nông nghiệp, nhất là đầu tư vào công nghiệp phục vụ nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng thời khuyến khích tư bản tư nhân, các chủ trang trại, hộ gia đình liên kết với doanh nghiệp nhà nước xây dựng cơ sở chế biến, tìm thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá... vì đó là nấc thang tiến bộ trên con đường phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn và xã hội hoá kinh tế nông thôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Chức năng kinh tế của Nhà nước (NXB.Công an nhân dân) Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (NXB.Chính trị quốc gia HN 1999) Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam (Phó GS-TS Mai Ngọc Cường) Một số vấn đề phát triển nông nghiệp – nông thôn (NXB.Sự thật 2002) Nghị quyết TW lần 3 khóa IX Sự nghiệp xây dựng XHCN ở Việt Nam (TS.Lê Nhị - XNB.Chính trị quốc gia) Website : Bộ Kế hoạch & Đầu tư (www.vin.com.vn) Bộ NN & PTNT (www.ismard.org.vn) Thời báo Kinh tế Việt Nam (www.vneconomy.com.vn) Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn) … và một số tư liệu, giáo trình khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân công lao động trong nông nghiệp – nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa - thực trạng và giải pháp.doc