Phân tích chiến lược phát triển ngành du lịch của Việt Nam

Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch, góp phần nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn nhân lực phải được phát triển một cách có hệ thống cả về số lượng và chất lượng. Ngoài việc đào tạo mới thì việc đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động hiện tại cũng cần được chú trọng. Đội ngũ cán bộ quản lý và giám sát du lịch phải được đào tạo chuyên sâu và có bài bản cả về trình độ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ, tin học và có sự hiểu biết về pháp luật. Cần tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân bằng nhiều hình thức về vai trò vị trí, lợi ích của du lịch, về trách nhiệm phát triển du lịch, về cách ứng xử , giao tiếp với khách nước ngoài đến thăm quan địa phương. Đảm bảo chính sách thông thoáng, tạo điều kiện cho sự đi lại, ăn ở của du khách trong suốt quá trình lưu trú

doc26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3172 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích chiến lược phát triển ngành du lịch của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đời sống con người ngày càng được nâng cao, khi nhu cầu vật chất đã được thỏa mãn thì nhu cầu về tinh thần như: vui chơi, giải trí … ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Vì thế mà du lịch đang là một trong những ngành có triển vọng phát triển không chỉ của Việt Nam mà còn của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực, đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, ngành du lịch nước ta vẫn còn nhiều bất cập, chưa khai thác một cách hiệu quả nguồn lực, tiềm năng phong phú của đất nước để phục vụ cho phát triển ngành du lịch. Vì vậy, việc hoạch định chiến lược phát triển ngành du lịch là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết, nhờ có chiến lược cụ thể mà ngành du lịch nước ta có thể phát triển một cách bền vững và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Để làm rõ chiến lược phát triển ngành du lịch nước ta trong những năm qua cũng như những định hướng trong thời gian tới, nhóm xin trình bày đề tài: “ Phân tích chiến lược phát triển ngành du lịch của Việt Nam”. Từ đó, nhóm đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển ngành du lịch Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của chiến lược thương mại Khái niệm: Chiến lược thương mại là định hướng phát triển thương mại quốc gia trong dài hạn với các mục tiêu tổng quát và hệ thống các giải pháp nhằm huy động tối ưu các nguồn lực và tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm đẩy mạnh phát triển thương mại. Chiến lược thương mại có tính định hướng, tính tổng quát, tính chọn lọc, tính khoa học và thực tiễn. Vị trí, vai trò của chiến lược thương mại: Chiến lược thương mại là bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành một chiến lược tổng hợp nhằm khuyến khích xuất khẩu và phát triển công nghiệp. Nó có vai trò rất quan trọng đối với một quốc gia hay một doanh nghiệp, nó hỗ trợ và giúp các nhà quản lý thương mại chủ động kế hoạch kinh doanh và thích nghi với môi trường. Chiến lược thương mại cho phép huy động phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong và ngoài ngành thương mại có liên quan đến sự phát triển của quốc gia, tạo cơ sở xây dựng các chính sách, các quyết định của cơ quan quản lý thương mại sao cho đúng đắn, hợp lý với điều kiện quốc gia, đồng thời góp phần hạn chế rủi ro tiềm năng và hỗ trợ tăng cường khả năng tận dụng các cơ hội cho hoạt động kinh doanh thương mại của quốc gia. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của du lịch *) Khái niệm du lịch Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization - một tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc), Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư. Du lịch là ngành công nghiệp không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, thư giãn vừa biết thêm nhiều điều hay, mới lạ mà du khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan...). *) Đặc điểm của ngành du lịch - Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp: Xuất phát từ nhu cầu du lịch là nhu cầu tổng hợp về đi lại, ăn ở, tham quan, giả trí, mua sắm và các nhu cầu khác trong chuyến đi và tại điểm đến du lịch .Cho nên đòi hỏi phải có nhiều ngành nghề khác nhau cung ứng các hàng hóa và dịch vụ cho khách để đáp ứng các nhu cầu nói trên. Do vậy ngành du lịch sẽ bao gồm các tổ chức và doanh nghiệp khác nhau như công ty lữ hành, khách sạn, đơn vị vận chuyển , ngân hàng ,bưu điện , y tế. - Du lịch là ngành dịch vụ : Du lịch được xếp vào nhóm ngành sản xuất phi vật chất mặc dù trong ngành vẫn tồn tại một bộ phận sản xuất ra các sản phẩm hứu hình (như sản phẩm ăn uống, đồ lưu niệm...) nhưng doanh thu từ bộ phận này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập từ du lịch. Nhận thức được đầy đủ các đặc điểm của dịch vụ và các ứng xử thích hợp trong kinh doanh dịch vụ là những vấn đề cơ bản đặt ra trong ngành và các doanh nghiệp du lịch. - Du lịch là ngành kinh tế phát triển nhanh: Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế lớn đối với một số quốc gia. Đối với một số quốc gia, du lịch thường chiếm một trong ba vị trí hàng đầu của các ngành kinh tế chủ yếu ở quốc gia đó. Số lượng người đi du lịch ngày một tăng trong phạm vi toàn thế giới - Du lịch là ngành kinh doanh có tính chất thời vụ: Hoạt động du lịch nói chung vẫn mang tính chất thời vụ do đặc điểm thời vụ của cung và cầu du lịch. Đặc điểm này làm cho chính phủ của các quốc gia và các doanh nhân phải cân nhắc một cách thận trọng việc phát triển ngành du lịch.  - Du lịch là ngành công nghiệp không biên giới: Du lịch có tính chất hướng ngoại vì bản chất của hoạt động du lịch là sự di chuyển ra khỏi phạm vi ranh giới hoặc biên giới quốc gia và cả do xu thế toàn cầu hóa về kinh tế là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến tính chất quốc tế hóa của ngành du lịch trên cả phương diện cung và cầu du lịch. 1.2. Tầm quan trọng của chiến lược trong phát triển ngành du lịch Chiến lược phát triển du lịch hình thành nhằm đưa ra những mục tiêu tổng quát và cụ thể cần đạt được để phát triển ngành du lịch trong một thời gian cụ thể đi kèm với đó là những giải pháp cơ bản nhất để nhằm thực hiện chiến lược, nó góp phần hỗ trợ và giúp các nhà quản lý chủ động trong kế hoạch đầu tư phát triển ngành du lịch, tạo cơ sở xây dựng các chính sách, các quyết định đúng đắn, phù hợp với điều kiện sẵn có về tài nguyên du lịch của nước ta. Hoạch định chiến lược cho phép ngành du lịch có thể huy động phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong và ngoài ngành có liên quan đến sự phát triển của quốc gia. Từ đó ngành có thể tận dụng tối đa các nguồn lực phục vụ phát triển du lịch, đồng thời thúc đẩy các ngành có liên quan phát triển. Chiến lược còn giúp vạch ra những hướng đi cụ thể cho ngành du lịch, góp phần hạn chế những rủi ro và tận dụng những cơ hội của ngành du lịch. Chiến lược cũng đưa ra những mục tiêu, nhiệm vụ mà ngành du lịch cần đạt được trong một thời gian nhất định. Từ đó, đánh giá kết quả của việc thực hiện mục tiêu đó, những gì mà ngành đã đạt được và chưa đạt được để có những giải pháp tốt nhất nhằm phát triển ngành du lịch trong tương lai. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH 2.1. Thực trạng phát triển ngành du lịch của nước ta hiện nay 2.1.1. Đặc điểm của ngành du lịch nước ta Việt Nam là một đất nước giàu tiềm năng du lịch, chúng ta có những lợi thế rất lớn cả về điều kiện tự nhiên và văn hóa. Vì vậy chúng ta có điều kiện để trở thành một quốc gia phát triển về Du lịch. Nước ta với hơn 3000km bờ biển, nhiều khu vực có đảo, biển đẹp như Hạ Long, Nha Trang, Phú Quốc…Dọc bờ biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch, trên 30 bãi biển được đầu tư và khai thác trong đó có các khu vực có tiềm năng lớn đã được đầu tư phát triển. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên hệ động thực vật rất phong phú và đa dạng, diện tích rừng khá lớn chiếm khoảng 37% diện tích đất. Chúng ta đã thành lập được trên 100 khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm 27 vườn quốc gia, 44 khu bảo tồn và 34 khu rừng văn hóa, lịch sử, môi trường. Đến hết năm 2010, Việt Nam được UNESCO công nhận 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tài nguyên sinh vật nước ta có giá trị ý nghĩa to lớn về kinh tế, du lịch. Các điều kiện tự nhiên, khí hậu nước ta rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Với những lợi thế tự nhiên này, chúng ta có thể phát triển du lịch sinh thái, thành lập các khu thăm quan nghỉ dưỡng gần gũi với thiên nhiên đặc biệt là rất tốt cho sức khỏe của du khách khi đến đây. Tài nguyên du lịch của nước ta phân bố tương đối tập trung. Điều đó góp phần hình thành các lãnh thổ du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi lãnh thổ du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa vùng này với vùng khác nên thường không làm nhàm chán khách du lịch. Việt Nam có 54 dân tộc cùng với nó là những nét văn hóa đa dạng mang bản sắc riêng độc đáo của từng vùng miền. Chính những nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc dân tộc Việt Nam. Các lễ hội văn hóa có sức hút to lớn đối với du khách thập phương trong và ngoài nước. Các di tích lịch sử - văn hóa là tài nguyên hàng đầu của du lịch. Cho đến nay nước ta có khoảng 4 vạn di tích các loại trong đó gần 3000 di tích được bộ văn hóa - thông tin xếp hạng. Các di tích này đã và đang được khai thác nhất định vào phát triển du lịch. Sự đa dạng của nguồn tài nguyên cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, đảo nước khoáng, lớp phủ thực vật, động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan thiên nhiên độc đáo điển hình…) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, phong tục tập quán, các làng nghề thủ công truyền thống, sự đa dạng về bản sắc văn hóa của các dân tộc…), là điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch với thời gian dài ngắn khác nhau. Điểm nổi bật là của du lịch Việt Nam là sự an toàn. Đây là một yếu tố tối quan trọng trong việc lựa chọn điểm đến của du khách. Với những hình ảnh của tổng thống Nga Dmitry Medvedev đi bộ từ hồ Gươm về khách sạn, tổng thống Mỹ Bill Clinton đi dạo quanh hồ Gươm đã đủ minh chứng cho điều này đối với du khách quốc tế. Bên cạnh đó Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn như APEC 14, ASEAN 17, ASEM 9... Đây có thể coi là những tiềm năng rất lớn giúp ngành du lịch của Việt Nam phát triển. 2.1.2. Thực trạng của ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Ở Việt Nam, ngành du lịch đã được hình thành và phát triển hơn 50 năm, song hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi động từ thập niên 90 của thế kỷ trước, gắn liền với chính sách mở cửa hội nhập. Trong các giai đoạn phát triển, mặc dù có những khó khăn nhất định, nhưng du lịch Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng, dần khẳng định vị trí là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế, trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt nam đã khởi sắc và ngày càng có tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Kết quả, du lịch Việt Nam đã thu hút được nhiều khách trong nước và quốc tế. Theo thống kê, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam không ngừng tăng, từ 1.351.000 lượt khách quốc tế năm 1995 lên 2.140.000 lượt năm 2000 và năm 2010, số lượt khách quốc tế đến nước ta đã đạt 5 triệu. Lượt khách nội địa cũng tăng nhanh, đến năm 2010 đạt 28 triệu lượt khách. Hệ thống sản phẩm, dịch vụ du lịch ngày càng được chú trọng nâng cao về số lượng cũng như chất lượng. Nhiều loại hình du lịch ra đời, cùng với đó là vệc tạo ra các dịch vụ du lịch trọn gói chất lượng cao đã đem đến cho khách hàng sự hài lòng và tin tưởng. Du lịch Việt Nam ngày càng có sự liên kết đa quốc gia, phát triển du lịch quốc tế nhờ đó mà nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động du lịch ngày càng tăng. Trong những năm qua, ngành du lịch nước ta với việc chú trọng thực hiện các chương trình quảng bá và xúc tiến du lịch đã góp phần tích cực đưa hình ảnh Việt Nam thân thiện mến khách đến với bạn bè quốc tế. Ngành du lịch ngày càng phát triển và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đáng kể vào thu nhập quốc dân. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì thu nhập ngoại tệ từ dịch vụ đó thu nhập du lịch đã tăng từ 6,4 ngàn tỉ đồng năm 1995 lên 17,5 ngàn tỉ đồng năm 2000 và trên 96 ngàn tỉ đồng năm 2010. Tốc độ du lịch năm 2008 đạt 4,02 tỉ đô la, chiến trên 55% trong cơ cấu của xuất khẩu dịch vụ và đứng thứ 5 trong các ngành tạo thu nhập ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh những mặt sáng của ngành du lịch nước ta thì hiện nay ngành du lịch nước ta vẫn còn tồn tại nhều vấn đề bất cập. Trong nhiều năm nay, cho dù ngành du lịch Việt Nam ra sức thu hút du khách với những hoạt động khá rầm rộ, những lọai hình tour du lịch đa dạng, với những nỗ lực cải tiến địa điểm du lịch, xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam tại hải ngọai… nhưng nói chung, du lịch Việt Nam xem chừng như vẫn “lận đận”, thu hút khách quốc tế ở mức khiêm tốn so với các nước trong khu vực. Một thực trạng trong ngành du lịch ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đó là chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, loại hình chưa phong phú, độc đáo và đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam, chưa tập trung cho sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá cả so với một số khâu dịch vụ còn cao dẫn tới kém sức cạnh tranh quốc tế. Nhiều khu du lịch khai thác tự phát, chưa đầu tư đúng tầm. Quảng bá du lịch ra nước ngoài còn hạn chế, tính chuyên nghiệp chưa cao, cung cấp chưa đủ và kịp thời thông tin cho du khách và nhà đầu tư. Công tác quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư khu du lịch còn có những bất cập. Quy hoạch không được thực hiện triệt để dẫn tới đầu tư không đồng bộ, manh mún, dàn trải, không tạo nên hiệu quả tổng thể. Cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức như vấn đề phương tiện giao thông cũ nát, đường xấu khách mất nhiều thời gian di chuyển trên đường,.. Ngoài ra tình trạng, vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường… tại các điểm du lịch đang là vấn nạn thách thức của ngành du lịch nước ta. Từ thực trạng trên dẫn đến năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp, chỉ xếp thứ 97 trên tổng số 113 nước. Việt Nam chưa có được những sản phẩm du lịch đặc thù, mang đậm bản sắc dân tộc, chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, giá cả thiếu cạnh tranh, phát triển du lịch theo lãnh thổ còn thiếu sự gắn kết giữa các địa phương. 2.2. Phân tích môi trường ngành du lịch 2.2.1. Phân tích đối thủ cạnh tranh Xét về vẻ đẹp tự nhiên, giá trị văn hóa, Việt Nam hoàn toàn không thua kém các nước có ngành du lịch phát triển như Singapore, Thái Lan, Malaysia… Thế nhưng hiệu quả từ ngành du lịch nước ta lại thua kém họ rất lớn. Nguyên nhân căn bản là chúng ta chưa biến được những lợi thế so sánh thành những lợi thế cạnh tranh vốn chỉ tồn tại một thời gian và sẽ trôi qua nếu như chúng ta không biết tận dụng mọi cơ hội. Khi so với các quốc gia Đông Nam Á, tính cạnh tranh giá cả của Việt Nam là tốt nhất, nhưng lại kém hơn các quốc gia cạnh tranh còn lại trên mọi phương diện khác. Singapore kém cạnh tranh nhất về phương diện môi trường do mật độ dân cư của quốc gia này quá cao nhưng lại dẫn đầu về tính cạnh tranh của tất cả các phương diện còn lại. Thái Lan luôn có tính cạnh tranh tốt hơn Việt Nam xét trên mọi phương diện ngoại trừ giá cả và môi trường. Tuy nhiên, đối với phòng ngủ là một khoản chi tiêu lớn nhất của khách du lịch thì hai đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam là Malaysia và Thái lan vẫn có mức giá cạnh tranh hơn Việt Nam. Thái Lan được coi là nước cạnh tranh nhất về giá khách sạn. Đối thủ cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam hầu hết là các quốc gia láng giềng và các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, với nhữnng tiềm năng lớn mạnh về các điểm đến cũng như tài chính thì hiện nay Thái Lan vẫn được coi là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ngành du lịch Việt Nam. Các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài với năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm lâu năm và lợi thế quy mô cũng sẽ là thách thức lớn nhất cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam. 2.2.2. Phân tích về người mua Từ năm 2000, sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam tuy đã có những bước phát triển nhưng vẫn còn nghèo nàn hơn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Vì thế mà nhu cầu đi du lich đặc biệt là du lịch quốc tế đối với người Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, từ khi bước vào thiên niên kỉ mới đặc biệt là sau sau khi nước ta gia nhập WTO, sự hội nhập kinh tế kéo theo đó là sự giao thoa văn hóa giữa các quốc gia làm cho tư tưởng người Việt Nam được đổi mới, và cầu du lịch cũng cao hơn. Người có thu nhập trung bình thì nhu cầu đi du lịch nội địa, với những người có thu nhập cao, họ không chỉ có nhu cầu đi du lịch mà còn muốn đi du lịch nước ngoài. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp du lịch phát triển. Kết quả theo báo cáo mới do trang web du lịch Travelocity.com thực hiện thì 30% trong số 1.403 người tiêu dùng được khảo sát cho biết sẽ đi du lịch nhiều hơn trong năm 2011, chỉ 1% nói không dự định đi bất cứ nơi nào so với 4% vào năm ngoái. Những người nước ngoài, đặc biệt là khách phương tây thì đi du lịch với họ là nhu cầu thiết yếu. Thị trường du lịch chủ yếu của Việt Nam có thể kể đến như Mỹ, Nga hay Nhật Bản... Đây là những nước có lượng khách hàng năm đến du lịch ở nước ta nhiều nhất. Nước Nga không có nhiều nắng ấm nên người Nga thích đến những vùng có khí hậu ấm. Họ rất thích biển, đặc biệt là du lịch biển ở Việt Nam. Khách du lịch Nga có nhu cầu đi du lịch rất lớn, tuy nhiên việc tiếp thị và giới thiệu du lịch Việt Nam đối với khách này chưa nhiều, khiến cho khách Nga "quên" hình ảnh Việt Nam. Khách du lịch Nga thường dành một khoảng thời gian trong năm để đi du lịch trong nước và nước ngoài theo nhóm gia đình hoặc riêng lẻ. Nhóm khách du lịch Nga được xem là thích "xài sang" không kém khách du lịch phương Tây. Đối với khách du lịch Nhật Bản, họ rất nhạy cảm trước những tin tức tiêu cực, như những bất ổn về chính trị, rủi ro... Sự kiện 11/9 tại Mỹ hay cuộc chiến Iraq mà Mỹ phát động năm 2003 đã khiến lượng khách Nhật thích đi vãn cảnh nước ngoài giảm mạnh. Người Nhật yêu thích thiên nhiên tươi đẹp, các di sản thế giới, sự yên bình, sự hấp dẫn về ẩm thực, hàng thủ công mỹ nghệ... của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam hiện là một trong 20 điểm đến hàng đầu của du khách Nhật. Tuy nhiên, khách Nhật lại ít quay lại Việt Nam, đặc biệt ít đối với lần thứ ba. Nguyên nhân là do họ thiếu thông tin, không hài lòng lắm khi đi mua sắm (sản phẩm còn nghèo nàn) và không thấy thông tin về hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, lý do còn là cơ sở hạ tầng của Việt Nam yếu kém và du lịch Việt Nam chưa thực sự hướng tới khách du lịch giàu có. Mỹ được xem là một trong những quốc gia có người dân đi du lịch nước ngoài nhiều nhất. Khách du lịch Mỹ có thể chia làm 4 nhóm, căn cứ vào sở thích du lịch của họ. Nhóm du khách thích thiên nhiên và du lịch sinh thái được xem là hạng sang, họ sẵn sàng bỏ một số tiền lớn để tham gia những tour du lịch phù hợp với sở thích của mình. Nhóm khách này được đánh giá có mức chi tiêu trung bình khoảng 15.000 USD cho một lượt. Nhóm 2, được xem là bậc trung, có mức chi tiêu thấp hơn rất nhiều, chỉ khoảng 1.000 USD/lượt. Loại khách du lịch này thích và quan tâm đến việc tìm hiểu văn hóa, ẩm thực và ngôn ngữ. Nhóm 3 là du lịch ba lô, tức loại du khách đi một mình, không tham gia đoàn và mua tour. Nhóm này thuộc loại thích mạo hiểm và đang có xu hướng gia tăng. Nhóm 4 là những du khách đi theo sự kiện, đặc biệt là thể thao. Bất kể thuộc nhóm nào, thì sự an toàn vẫn luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất đối với du khách người Mỹ. Nhìn chung, nhu cầu du lịch của người Việt Nam nói riêng và của con người nói chung đang rất nóng đặc biệt khi đời sống con người ngày càng nâng cao. Chúng ta cần nắm rõ những sở thích, thị hiếu cũng như tâm lý của du khách, để có hướng đi đúng đắn nhất cho sự phát triển của ngành du lịch nước ta. 2.2.3. Phân tích về người bán Việt Nam đang tiến hành thực hiện các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ đại lý lữ hành và kinh doanh lữ hành, sắp xếp chỗ trong khách sạn ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp du lịch lữ hành khai thác khách du lịch quốc tế của Việt Nam. Việc cho phép thêm các doanh nghiệp du lịch lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ kinh doanh gửi khách tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác khách du lịch trong những năm tới sẽ phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, lượng khách du lịch công vụ, hội nghị sẽ tăng mạnh khi Việt Nam được lực chọn đăng cái các sự kiện lớn quốc tế. Hội nhập trong lĩnh vực du lịch cũng là sức ép buộc các doanh nghiệp du lịch trong nước phải có sự cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Ngoài ra, Chính phủ cũng cho phép áp dụng rất nhiều ưu đãi đối với du lịch như miễm thị thực cho khách nước ngoài, miễn visa cho khách ở một số nước khi đi du lịch vào Việt Nam... Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng ngày càng tổ chức nhiều các tour du lịch với các hình thức đa dạng, giá cả phù hợp để đáp ứng thị hiếu của du khách. Về cơ sở hạ tầng, đường giao thông, dịch vụ vệ sinh, cấp nước và xe lửa thì Việt Nam thua xa đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Đây là một vấn đề nan giải đối với ngành Du lịch Việt Nam khi mà việc cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cần có thời gian và nguồn vốn đầu tư lớn... Có thể nói điểm yếu lớn nhất của các doanh ngiệp du lịch việt Nam là năng lực tài chính yếu, kinh nghiệm ít, không phát huy được lợi thế theo quy mô, khả năng khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như các nguồn lực khác còn hạn chế, do đó việc đánh mất thị trường là điều tất yếu. Nhu cầu của khách quốc tế đối với các sản phẩm du lịch chuyên biệt như du lịch khám phá thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch từ thiện...là rất lớn. Trong khi đó các chương trình loại này tại Việt Nam thực sự là hàng hiếm. Cùng với đó là sự nghèo nàn về các sản phẩm đi kèm. Việt Nam có hàng trăm làng nghề truyền thống rải rác trên cả nước nhưng khách du lịch quốc tế rất khó tìm ra được được một món quà lưu niệm "Made in Vietnam". Điều này lý giải một phần tại sao du khách quốc tế đến Việt Nam lại tiêu dùng ít hơn so với khi đến các nước khác (một khách tới Thái Lan bỏ ra trên dưới 500 USD để mua sắm, thì tại Việt Nam chỉ dừng lại không quá 100 USD). Nhìn chung, ngành du lịch còn nhiều yếu kém nhưng những nỗ lực của các doanh nghiệp cũng như của các cơ quan có thẩm quyền đang dần dần đưa ngành du lịch nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa. 2.2.4. Phân tích hàng hóa và dịch vụ lưu thông trên thị trường Du khách quốc tế đặc biệt ưa chuộng những món quà lưu niệm làm bằng tay (handmade), làng nghề truyền thống ở Việt Nam có mặt ở khắp nơi trên cả nước... Cầu có, cung có nhưng nói về sản phẩm du lịch làm quà lưu niệm cho du khách khi đến Việt Nam vẫn hết sức đơn điệu và nghèo nàn. Sapa, thị trấn trong sương cuốn hút du khách quốc tế nhờ vẻ hoang sơ và không khí trong lành của rừng núi. Thổ cẩm được coi là món quà lưu niệm đặc sắc nhất của thị trấn này và được khách mua nhiều nhất. Tuy nhiên, rất khó để tìm được một cửa hàng bán thổ cẩm chuyên nghiệp dù địa danh Sapa đã trở thành điểm đến của du khách trong và ngoài nước hàng chục năm nay. Tình trạng nghèo nàn, đơn điệu của sản phẩm du lịch trong nước dẫn đến hàng loạt các cửa hàng chuyên bán đồ lưu niệm cho du khách đều có xuất xứ từ Trung Quốc, Thái Lan... Dịch vụ lưu trú, trước nhu cầu khách sử dụng dịch vụ lưu trú ngày càng cao, vào thời điểm lễ hội hay mùa cao điểm, nhà tour nhức đầu vì phải lo giành giật trữ phòng để bán cho khách. Từ tháng 6-9 là mùa khách nội địa, nhu cầu sử dụng dịch vụ dưới 3 sao cao, dịch vụ lưu trú bình dân không đáp ứng được nhu cầu của lượng khách tập trung vào những điểm đến truyền thống, được quảng bá tốt: Đà Lạt, Nha Trang, Hội An, Hà Nội... Trong khi đó, vào mùa khách ngoại từ tháng 12 đến tháng 3 hàng năm thì dịch vụ lưu trú cao cấp (4-5 sao) lại không đủ đáp ứng cho nhu cầu khách nước ngoài. Nói chung, khả năng cung ứng dịch vụ lưu trú của các doanh nghiệp chứ đủ đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh đó, dịch vụ ăn uống là điểm yếu lớn nhất ở việt Nam, chưa đảm bảo được các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm làm cho nhiều du khách phải đắn đo e ngại khi lựa chọn khẩu phần ăn. Xét một cách tổng thể thì các hàng hóa và dịch vụ du lịch của Việt Nam còn nhiều yếu kém cần tập trung phát triển để tăng tính hấp dẫn hơn nữa đối với du khách. 2.3.1. Chiến lược phát triển ngành du lịch 2.3.1.1. Mục tiêu Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010 là phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện CNH, HĐH đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010, du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển trong Chiến lược đến 2020, tầm nhìn 2030 thể hiện kỳ vọng phấn đấu của toàn ngành du lịch. Đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp trong khu vực; ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế có tính chuyên nghiệp, hiện đại, có chất lượng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam và thân thiện môi trường. Nước ta đã đặt ra mục tiêu là đến năm 2020 sẽ đón 7 - 8 triệu lượt khách quốc tế; 32 - 35 triệu lượt khách nội địa; thu nhập trực tiếp từ du lịch đạt 10 - 11 tỷ USD, đóng góp 5,5 - 6% GDP, tạo ra 2,2 triệu việc làm trong đó 620.000 việc làm trực tiếp; đến năm 2020 phấn đấu đón 11 - 12 triệu lượt khách quốc tế; 45 - 48 triệu lượt khách nội địa; thu nhập trực tiếp du lịch đạt 18 - 19 tỷ USD, đóng góp 6,5 - 7% GDP, tạo ra 3 triệu việc làm, trong đó 870.000 việc làm trực tiếp. Nhiệm vụ Để đạt được những mục tiêu trên, Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn tới cần bám sát xu hướng hội nhập, hợp tác và cạnh tranh toàn cầu, giao lưu mở rộng và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong bối cảnh kinh tế tri thức đồng thời đưa ra những giải pháp mang tính đột phá trên cơ sở thực trạng và nguồn lực phát triển của đất nước. Phát triển du lịch theo vùng Phân vùng và tổ chức không gian phát triển du lịch. Chiến lược xác định phát triển du lịch theo 7 vùng đặc trưng so với 3 vùng trước đây, đó là: (1) Vùng Trung du, miền núi phía Bắc; (2) Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc; (3) Bắc trung bộ; (4) Nam Trung bộ; (5) Tây nguyên; (6) Đông Nam bộ và (7) Tây Nam bộ. Trong mỗi vùng sẽ tập trung ưu tiên phát triển các địa bàn trọng điểm du lịch và các khu du lịch quốc gia và tạo điều kiện hình thành tổ chức phát triển vùng. Có kế hoạch đẩy mạnh phát triển du lịch đối với các địa bàn du lịch trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đà Lạt, Ninh Thuận, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tiên, Phú Quốc và các tuyến du lịch quốc gia có ý nghĩa liên kết các vùng, các địa phương có tiềm năng du lịch trên toàn quốc, các điểm du lịch thuộc các tuyến du lịch quốc gia phù hợp trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả nước. Đầu tư phát triển du lịch Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch. Ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề. Kết hợp đầu tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với đầu tư cho tuyên truyền, quảng bá và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch để tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù cho từng vùng du lịch và cả nước. Đối với các thành phố du lịch như: Hạ Long, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Lạt; các đô thị du lịch như: Sa Pa, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Hội An, Phan Thiết, Hà Tiên cần phải đầu tư cho phát triển du lịch một cách hợp lý bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển đô thị với phát triển du lịch bền vững, nhằm tăng tính hấp dẫn của hoạt động du lịch. Thực hiện xã hội hoá trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường, các lễ hội, hoạt động văn hoá dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch. Phân đoạn thị trường Phân đoạn thị trường theo mục đích du lịch và khả năng thanh toán; ưu tiên thu hút khách du lịch có khả năng chi trả cao, có mục đích du lịch thuần tuý, lưu trú dài ngày. Phát triển mạnh thị trường nội địa, chú trọng khách nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nghỉ cuối tuần, công vụ, mua sắm. Đối với thị trường quốc tế tập trung thu hút phát triển mạnh thị trường khách quốc tế cao cấp: Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), Đông Nam Á và Thái Bình Dương (Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Australia); Tăng cường khai thác thị trường khách cao cấp đến từ Tây Âu (Pháp, Đức, Anh, Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha, Scandinavia), Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) và Đông Âu (Nga, Ucraina); mở rộng thị trường mới từ Trung Đông. Phát triển nguồn nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch gồm: dạy nghề, đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học về du lịch. Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch; đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch; gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững, tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch. Xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch Đẩy mạnh xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch với các hình thức linh hoạt; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; tranh thủ hợp tác quốc tế trong hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên trường quốc tế; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và của nhân dân về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hội nhập, hợp tác quốc tế về du lịch Tăng cường củng cố và mở rộng hợp tác song phương và hợp tác đa phương với các tổ chức quốc tế, các nước có khả năng và kinh nghiệm phát triển du lịch. Thực hiện tốt hợp tác du lịch với các nước đã thiết lập quan hệ hợp tác, nhất là hợp tác du lịch Việt Nam - Lào - Campuchia, Việt Nam - Lào - Thái Lan, Việt Nam - Lào - Campuchia- Thái Lan - Myanmar; tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác du lịch sông Mêkông - sông Hằng. Thực hiện các cam kết và khai thác quyền lợi trong hợp tác du lịch với Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (PATA) và Hiệp hội du lịch Đông Nam á (ASEANTA), Liên minh châu Âu (EU). Chuẩn bị điều kiện để hội nhập ở mức cao với du lịch thế giới khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu du lịch, các dự án tạo sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho phát triển nguồn nhân lực, công nghệ và bảo vệ môi trường du lịch. Đánh giá tình hình thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam Thành tựu Trong những năm qua, từ khi có Chiến lược phát triển du lịch đầu tiên 2001-2010 cũng là giai đoạn gắn liền với sự nghiệp đổi mới, mở cửa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, có nhiều thuận lợi nhưng không ít khó khăn và thách thức. Ngành du lịch đã có nhiều tiến bộ và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Lượng khách du lịch quốc tế và nội địa không ngừng tăng cao. Năm 1995 cả nước đón 1,35 triệu lượt khách quốc tế thì đến 2008 con số lên tới 4,23 triệu lượt (năm 2009 giảm xuống 3,8 triệu lượt do suy thoái kinh tế toàn cầu), tỷ lệ tăng trưởng bình quân trên 9,1%/năm; đến năm 2010 chúng ta đã đón lượt khách quốc tế thứ 5 triệu. Khách du lịch nội địa tăng trưởng đều trên 10,7%/năm từ 5,5 triệu lượt năm 1995 lên 25 triệu lượt 2009. Thu nhập du lịch tăng bình quân 16,8%/năm; năm 2009 đạt trên 69 ngàn tỷ đồng (tương đương 4,1 tỷ USD) và chiếm tỷ trọng khoảng 5,05% GDP (không tính thu nhập gián tiếp du lịch). Từ chỗ toàn ngành có 81.000 lao động năm 1995, đến nay ngành du lịch đã tạo việc làm cho trên 434.240 lao động trực tiếp và trên 1 triệu lao động gián tiếp. Đầu tư của Nhà nước và khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, hệ thống khu du lịch và sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống doanh nghiệp du lịch đã làm thay đổi căn bản diện mạo ngành du lịch. Vị thế, vai trò của ngành du lịch từ đó đã được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng và thể chế hóa trong luật du lịch năm 2005. Điểm đột phá trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 thể hiện trong quan điểm phát triển du lịch bền vững theo hướng có chất lượng, có thương hiệu, chuyên nghiệp, hiện đại; khai thác hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm mọi nguồn lực và lợi thế quốc gia; phát huy tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa với vai trò động lực của các doanh nghiệp. Về sản phẩm du lịch, yếu tố mới thể hiện ở chỗ tập trung xây dựng sản phẩm, loại hình du lịch có hệ thống, có kiểm soát chất lượng và có tính đặc trưng, đặc sắc; phát triển mạnh du lịch biển với quy mô, tầm cỡ quốc tế; phát triển du lịch văn hóa làm nền tảng; phát triển du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm và liên kết phát triển sản phẩm vùng, khu vực. Điểm mới trong xác định thị trường mục tiêu là đã phân đoạn thị trường theo mục đích du lịch và khả năng thanh toán. Phát triển mạnh cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế, khai thác các thị trường cao cấp và mở rộng thị trường quốc tế. Nội dung mới trong Chiến lược là đặt nhiệm vụ phát triển thương hiệu trở thành yếu tố then chốt trong cạnh tranh quốc tế và nâng cao hiệu quả; phấn đấu hình thành và phát triển một số thương hiệu nổi bật của du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Xúc tiến quảng bá du lịch sẽ được chuyên nghiệp hóa và thực hiện theo chương trình, chiến dịch có trọng điểm tập trung vào thị trường mục tiêu đã xác định; lấy điểm đến, sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch làm đối tượng xúc tiến trọng tâm; liên kết giữa nhà nước và doanh nghiệp được đẩy mạnh thông qua vai trò của Hiệp hội Du lịch. Điểm đáng chú ý khác trong phát triển nguồn nhân lực du lịch là xác định tính chuyên nghiệp là mục tiêu; xác định nhân lực là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ và ưu tiên đào tạo nhân lực bậc cao, đội ngũ quản lý, lực lượng “máy cái” để thúc đẩy chuyển giao, đào tạo, huấn luyện tại chỗ theo yêu cầu công việc. Chiến lược trong đầu tư du lịch cũng có bước tiến, thể hiện ở việc xác định lĩnh vực ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, manh mún; tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật những khu du lịch với quy mô, tầm cỡ quốc tế; xúc tiến, quảng bá, phát triển thương hiệu, phát triển nguồn nhân lực, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bảo vệ môi trường và phát triển du lịch xanh; về địa bàn ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, hải đảo; về đối tượng ưu tiên phát triển cộng đồng gắn với xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhìn nhận khái quát, Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn tới tạo bước đột phá mạnh về chất lượng dịch vụ với chiều sâu văn hóa và môi trường, phân cấp mạnh và tăng cường liên kết, hợp tác công - tư hướng tới hiệu quả và cạnh tranh bền vững. 2.3.2.2. Hạn chế Không thể phủ nhận, ngành du lịch đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường và giữ vững an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, so với tiềm năng và lợi thế của đất nước thì kết quả tăng trưởng vừa qua chưa thực sự đáp ứng kỳ vọng phát triển của ngành; phát triển nhưng còn ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững; chưa đánh giá đúng và khai thác tối ưu lợi thế quốc gia về tài nguyên tự nhiên và nhân văn; đầu tư còn manh mún; sản phẩm còn nghèo nàn, đơn điệu, thiếu đặc sắc; chất lượng và hiệu quả thấp, kém sức cạnh tranh và chưa có tiếng vang. Do những khó khăn, thách thức trong giai đoạn đầu phát triển về nguồn lực con người, tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và năng lực hội nhập nên bài toán phát triển còn thiếu những giải pháp đột phá cả trong tư duy và hành động, cả trong chính sách và triển khai thực tế. Mặc dù có luật du lịch, có chiến lược và quy hoạch, có Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch, có chương trình hành động quốc gia... Nhưng những bước đi vẫn còn dò dẫm, thiếu chủ động, thiếu tự tin và chuyên nghiệp và còn thua thiệt trong cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, đánh giá tổng thể vị thế, vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn vẫn chưa được khẳng định rõ nét. Ngành du lịch Việt Nam chưa có chiến lược cụ thể cho việc phát triển sản phẩm du lịch. Sản phẩm đi kèm trong du lịch còn khá nghèo nàn, Có thể nói chúng ta thiếu các sản phẩm đặc trưng, nếu có thì hàng thật làm tại Việt Nam cũng thua kém về mẫu mã chất lượng so với hàng nhái nhập từ các bạn nước láng giềng. Đây là một trong những nguyên nhân mà khách du lịch tiêu dùng ít, thậm chí không biết tiêu gì khi đi du lịch ở Việt Nam. Chiến lược xúc tiến, quảng bá về du lịch của nước ta đã được chú trọng hơn, nhưng so với các nước bạn như Singapore, Thái Lan, Indonexia… thì số tiền chi cho quảng bá du lịch của Việt Nam vẫn còn quá nhỏ. Bên cạnh đó, chúng ta không nắm được phương pháp quảng bá du lịch hiệu quả, khi được cấp một khoản tài chính để chi cho quảng bá hình ảnh của Việt Nam thậm chí chúng ta sử dụng mọi cách thức nhưng cũng không thể dùng hết khoản tiền đó. Vì vậy, Việt Nam ít được biết đến với một điểm đến du lịch hấp dẫn, và lượng khách du lịch đến Việt Nam cũng ít hơn hẳn so với các nước trong khu vực. CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH 3.1. Dự báo về tiềm năng phát triển ngành du lịch 3.1.1. Xu thế quốc tế nói chung Du lịch thế giới phát triển mạnh và trở thành ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước. Năm 2010 dự báo thế giới có trên 1 tỷ người đi du lịch. Du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống dân cư và trong xã hội và là một trong những ngành kinh tế phát triển nhất trên thế giới. Du khách thế giới ngày càng có xu hướng đi du lịch tới châu Á nhiều hơn và những cường quốc du lịch trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan sẽ sớm trở thành những nước đón lượng du khách đứng đầu thế giới.Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. 3.1.2. Dự báo về các tiềm năng du lịch của Việt Nam Du lịch văn hóa Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của mỗi quốc gia, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Việt Nam có rất nhiều các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông đã tạo cho Việt Nam sức hấp dẫn về du lịch. Du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Hiện nay xu thế phát triển du lịch sinh thái không chỉ còn là một hiện tượng “mốt” nhất thời mà là xu thế của thời đại và có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của ngành du lịch trên quan điểm tài nguyên và môi trường. Với những thế mạnh về tự nhiên và nhân văn Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái thành mũi nhọn của ngành du lịch. Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, lãnh thổ Việt Nam trải dài trên 15 độ vĩ tuyến với 3/4 là địa hình đồi núi và cao nguyên, đường bờ biển dài, hàng ngàn hòn đảo, trải dài ở thềm lục địa Việt Nam là các rạn san hô quần tụ nhiều loài sinh vật khác nhau, nhiều loài có màu sắc sặc sỡ và có giá trị kinh tế cao. Các tiềm năng nhân văn cho phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng rất đa dạng và phong phú. Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước với nền văn hóa đa dạng bản sắc của 54 dân tộc anh em, trong đó có nhiều tài nguyên đặc biệt có giá trị. Chỉ tính riêng về các di tích, trong số khoảng 40.000 di tích hiện có thì hơn 2.500 di tích được Nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu nhất Cố Đô Huế; đô thị cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dự báo về tiềm năng phát triển du lịch biển Việt Nam có hơn 3.200km bờ biển, hơn 1 triệu km2 diện tích mặt nước biển, hơn 2.770 đảo ven bờ cùng hàng loạt các bãi tắm đẹp từ Bắc vào Nam với những đặc trưng khác nhau. Đó là lợi thế thiên nhiên ban tặng cho Việt Nam để phát triển du lịch biển. Có khoảng 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch và hơn 30 trong số này đã được các địa phương khai thác tốt để để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Trong số các bãi biển, vịnh biển của Việt Nam, có một số điểm đến đã nổi tiếng với việc thu hút nhiều du khách quốc tế tới du lịch hàng năm. Đó là Vịnh Hạ Long , Vịnh Nha Trang - một trong những vịnh đẹp nhất thế giới; bãi biển Đà Nẵng được bầu chọn là một trong sáu bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Vùng biển hàng năm cũng thu hút khoảng 70% số lượng khách quốc tế tới Việt Nam và 50% khách nội địa, mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước(đóng góp 5% GDP cả nước, năm 2010, ngành du lịch Việt Nam đã khẳng định vị thế của mình với nền kinh tế quốc dân) Đây là những lĩnh vực du lịch có khả năng sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới. Chỉ cần tận dụng được hết các tiềm năng sẵn có về du lịch thì tham vọng đưa Việt Nam trở thành cường quốc du lịch sẽ không xa và hoàn toàn có thể thực hiện được. 3.2. Các giải pháp cho phát triển ngành du lịch Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp Cơ sở hạ tầng du lịch gồm các hệ thống giao thông, các địa danh du lịch trọng điểm, các khách sạn, khu nghỉ dưỡng…Cơ sở hạ tầng yếu kém là nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế rất khó chịu khi đi du lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ giao thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ sở hạ tầng của Việt Nam thấp. Việc phát triển cơ sở hạ tầng là nền tảng cho ngành du lịch phát triển. Vì vậy, cần ưu tiên vốn vay trước hết cho phát triển cơ sở hạ tầng du lịch so với các ngành nghề khác- những ngành không được coi là ngành mũi nhọn. Khối lượng đầu tư cho du lịch phải hợp lý và dài hạn. Huy động vốn của cả nước ngoài và tư nhân. Bên cạnh việc quy hoạch khai thác nguồn du lịch sẵn có của thiên nhiên, các di tích lịch sử văn hóa dân tộc, cần đầu tư các cơ sở hạ tầng hiện đại. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch Ngoài các hình thức du lịch như tham quan, tìm hiểu thiên nhiên văn hóa, lịch sử, nghỉ dưỡng sức khỏe… cần phát triển thêm các loại hình sản phẩm du lịch mua sắm (thông qua các chợ ẩm thực, trung tâm thương mại…) và các sự kiện tháng khuyến mại giảm giá, các loại hình dịch vụ chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, làm đẹp…Để có sản phẩm du lịch hợp với thị trường, cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, xác định thị trường trọng điểm phù hợp với mỗi loại hình sản phẩm du lịch. Hình thành các trung tâm mua sắm hiện đại cho du khách trong nước và quốc tế tại các trung tâm du lịch lớn. Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng. Đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ du lịch hướng tới làm phong phú và đảm bảo chất lượng, nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng của du khách. Ngoài ra, cần tập trung các sản phẩm du lịch có chất lượng cao, quy mô lớn để có khả năng khai thác số lượng khách lớn, có khả năng chi trả cao, tăng thời hạn lưu trú và mức chi của du khách. Tăng cường công tác xúc tiến và quảng bá du lịch Việt Nam ra bên ngoài Quảng bá du lịch Việt Nam nhằm cung cấp thông tin du lịch nước ta tới du khách một cách thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Muốn vậy, phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường bên ngoài, các thị hiếu về sản phẩm và dịch vụ du lịch của thị trường các nước trong khu vực và thế giới. Từ đó có cách quản lý và phục vụ riêng cho phù hợp với từng loại du khách. Hội nghị APEC và sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) được coi là những cơ hội quảng bá du lịch ra bên ngoài tốt nhất từ trước đến nay. Tăng cường sự hiện diện của du lịch Việt Nam tại các hội chợ, Hội nghị và hội thảo quốc tế. Tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề quảng bá du lịch Việt Nam. Thậm chí có thể thuê các công ty quảng bá chuyên nghiệp của nước ngoài thực hiện, xây dựng các văn phòng đại diện, thông tin du lịch Việt Nam ở các thị trường nước ngoài như Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và khả năng cạnh tranh cho ngành du lịch Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch, góp phần nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn nhân lực phải được phát triển một cách có hệ thống cả về số lượng và chất lượng. Ngoài việc đào tạo mới thì việc đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động hiện tại cũng cần được chú trọng. Đội ngũ cán bộ quản lý và giám sát du lịch phải được đào tạo chuyên sâu và có bài bản cả về trình độ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ, tin học và có sự hiểu biết về pháp luật. Cần tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân bằng nhiều hình thức về vai trò vị trí, lợi ích của du lịch, về trách nhiệm phát triển du lịch, về cách ứng xử , giao tiếp với khách nước ngoài đến thăm quan địa phương. Đảm bảo chính sách thông thoáng, tạo điều kiện cho sự đi lại, ăn ở của du khách trong suốt quá trình lưu trú Trong kinh doanh du lịch, điều quan trọng trước hết là phải biết tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch. Cần có những biện pháp giảm hoặc miễn visa cho du khách quốc tế đến Việt Nam. Có chế độ ưu đãi nhất định đối với những du khách đã từng đến Việt Nam… KẾT LUẬN Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được xây dựng trong bối cảnh chuyển giao thập kỷ, xu thế toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, công nghệ cao, chuẩn mực giá trị mới và chịu tác động của biến đổi khí hậu. Trong quá trình xây dựng chiến lược, việc đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển du lịch của từng giai đoạn được coi là nội dung vô cùng quan trọng. Qua việc phân tích chiến lược, thực tình hình thực hiện chiến lược phát triển ngành du lịch nước ta, đã làm sáng tỏ vị thế thực tại của ngành du lịch, những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm mà ngành du lịch nước ta cần quan tâm đến, đồng thời đặt trong bối cảnh và xu thế chung của khu vực và thế giới để xác định quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu và những định hướng đột phá của ngành du lịch Việt Nam cho giai đoạn tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchien_luoc_phat_trien_nganh_du_lich_viet_nam_5126.doc
Luận văn liên quan