Phương pháp dùng để làm rõ tình hình biến động theo mức độ phân trăm (%) của các chỉ tiêu kinh tế trong thời gian nào đó. So sánh tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu giữa các năm và so sánh tốc độ tăng trưởng giữa các chỉ tiêu. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Cùng với phương pháp so sánh số tuyệt đối, phương pháp so sánh số tương đối cũng rất quan trọng để thực hiện việc phân tích tình hình huy động vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cả 2 phương pháp này thường được sử dụng chung để nhìn nhận và đánh giá chính xác hơn những biến động của các khoản mục.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3189 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn thương tín chi nhánh Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KINH TẾ - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 402
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN CHI NHÁNH CẦN THƠ
Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện
ThS. Trương Hoàng Phương Phạm Thị Hồng Thắm
Mã số SV: 0954020204
Lớp: ĐHTCNH 4B
Cần Thơ, 2013
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Cơ sở hình thành đề tài
Cùng với sự vận động của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế của tỉnh Cần Thơ cũng đang trên đà phát triển. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng đó đòi hỏi phải có đủ điều kiện và vốn là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Do đó, tín dụng ngân hàng hết sức quan trọng, nhằm đáp ứng kịp thời vốn đầu tư cho người dân và các tổ chức kinh tế để tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Qua những năm hoạt động, Sacombank chi nhánh Cần Thơ bên cạnh việc cung cấp vốn đáp ứng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, thì Ngân hàng cũng đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của tỉnh.
Ngân hàng ra đời với mục đích là tập trung nguồn vốn và phân phối nguồn vốn đó nhằm giúp cho quá trình lưu thông được diễn ra liên tục và phát triển kinh tế sản xuất, phục vụ nhu cầu đời sống của người dân. Tuy nhiên việc đưa vốn đến hộ nông dân, các thành phần kinh tế như thế nào và bằng cách nào để có hiệu quả nhất, vừa đảm bảo thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính vì vậy cần phải có những giải pháp thích ứng, phù hợp trong việc đầu tư để đều có lợi cho các chủ thể tham gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển cả hai bên. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này, chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài “Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chi nhánh Cần Thơ”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ, từ đó tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cá nhân.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Dựa vào số liệu doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ và nợ xấu qua 3 năm để phân tích hoạt động tín dụng cá nhân của Sacombank Cần Thơ.
- Đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ.
- Đề xuất một số giải pháp cải thiện hoặc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình cho vay và huy động vốn
- Các báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, một số tỷ số tài chính
- Một số tài liệu khác được cung cấp từ phía ngân hàng
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi không gian
- Đề tài được thực hiện tại phòng Kinh Doanh của Sacombank Cần Thơ
1.3.2.2. Phạm vi thời gian
- Trong thời gian thực tập bắt đầu từ tháng 2/2013 đến tháng 4/2013.
- Số liệu phân tích trong đề tài là số liệu chung về hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ năm 2010 đến năm 2012.
1.4. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng nói chung bao gồm nhiều lĩnh vực như tín dụng cá nhân, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách tín dụng khác nhau như có ngân hàng tập trung vào tín dụng cá nhân, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn, có ngân hàng chủ yếu cho vay trung và dài hạn. Trong hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng và tín dụng cá nhân là mảng vô cùng quan trọng. Phân tích và đề xuất một số ý kiến để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng cá nhân là vấn đề được quan tâm đặc biệt tại hầu hết các Ngân hàng.
Bố cục nội dung nghiên cứu
Chuyền đề này được trình bài theo bố cục gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Phân tích thực trạng tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank
Chương 4: Một số giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng cá nhân tại Sacombank
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp luận
2.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hóa, nó kinh doanh loại hàng hóa rất đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực tế các NHTM kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Nghĩa là các NHTM nhận tiền gửi của công chúng, của các tổ chức kinh tế xã hội. Sử dụng số tiền đó cho vay và làm phương tiện thanh toán với những điều kiện ràng buộc là phải hoàn lại vốn gốc và lãi nhất định theo thời hạn đã thoả thuận.
Theo pháp lệnh “các tổ chức tín dụng ”(1990) của Việt Nam thì NHTM được định nghĩa như sau:
“Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
2.1.2. Các nguồn vốn của NHTM
2.1.2.1. Vốn tự có
Vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng là bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số nguồn vốn khác của ngân hàng theo quy định của Ngân hàng Trung Ương.
a) Vốn điều lệ
Là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của ngân hàng là do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp vốn điều chuyển …Mức vốn điều lệ và phương thức đóng góp vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được ghi trong điều lệ hoạt động của từng ngân hàng và được Ngân hàng Trung ương phê duyệt. Mức vốn điều lệ của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào mức góp vốn của các chủ sở hữu ngân hàng, song nhìn chung không được thấp hơn mức vốn pháp định mà Chính phủ quy định. Trong quá trình hoạt động của các NHTM có thể tăng thêm vốn điều lệ của mình nhưng phải được sự đồng ý chấp nhận của Ngân hàng Trung Ương.
b) Các quỹ dự trữ
Các quỹ dự trữ của NHTM được hình thành và tạo lập trong quá trình hoạt động của ngân hàng nhằm sử dụng cho có mục đích nhất định.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hàng năm tổ chức tín dụng phải trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ sau:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% trên lợi nhuận ròng, mức tối đa của quỹ do chính phủ quy định.
- Các quỹ khác: Quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng…các quỹ quỹ này cũng được trích lập sử dụng theo quy định của pháp luật.
Các quỹ dự trữ sau khi đã được trích lập các NHTM được sử dụng theo mục đích lập quỹ. Tuy nhiên, khi số tiền của quỹ chưa sử dụng đến thì các NHTM có thể tạm thời huy động theo nguyên tắc hoàn trả làm nguồn vốn kinh doanh.
c) Các nguồn vốn khác
Một số nguồn vốn khác được coi như vốn tự có của ngân hàng, bao gồm:
- Lợi nhuận giữ lại
-Thu nhập lớn hơn chi phí
- Khấu hao tài sản cố định
Nguồn vốn huy động
a) Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (Các quỹ: đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng…)
* Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khi gửi vào, khách hàng gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng.
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với Ngân hàng, loại tiền gửi này thường có sự dao động lớn vì người gửi tiền có thể gửi tiền và rút ra bất cứ lúc nào, do đó Ngân hàng chỉ có thể sử dụng tỷ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.
* Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền mà khi khách hàng gửi tiền vào có sự thỏa thuận về thời hạn rút ra giữa ngân hàng và khách hàng.
Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi đáo hạn.
Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng hoặc tiền để dành của cá nhân, vì mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm mục đích kiếm lợi tức. Đối với Ngân hàng, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà Ngân hàng áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gửi tiền theo định kỳ dài hạn, thông thường Ngân hàng áp dụng lãi suất cao đối với các khoản tiền gửi dài hạn (vì tiền gửi định kỳ giúp Ngân hàng có thể sử dụng vốn đó để kinh doanh qua việc cho vay trung, dài hạn, mua sắm các thiết bị cũng như đầu tư vào một số lĩnh vực….)
b) Tiền gửi tiết kiệm
Là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật và bảo hiểm tiền gửi.
*Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Là loại tiền gửi không có thời hạn đáo hạn mà người gửi muốn rút ra phải thông báo cho Ngân hàng biết trước một thời gian. Tuy nhiên, ngày nay các Ngân hàng cho phép khách hàng rút ra không cần báo trước. Tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế và Chính phủ. Nhưng do nhu cầu chi tiêu không xác định được trước nên khách hàng chỉ gửi tiền không kỳ hạn nghĩa là có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do đó Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi này có mức lãi suất thấp.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Người ký thác tiền này ở Ngân hàng để sử dụng vào mục đích nhất định như mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái... Ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp thêm phần thiếu hụt khi sử dụng vào mục đích của người gửi tiền tiết kiệm.
Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Nếu rút vốn trước hạn thì phải được chấp nhận của lãnh đạo ngân hàng và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Về hình thức, theo truyền thống, người gửi tiền được cấp một sổ gọi là sổ tiết kiệm, trên sổ này ghi rõ tất cả các khoản tiền gửi vào rút ra và lãi suất. Mỗi lần gửi tiền hoặc rút tiền, khách hàng phải xuất trình sổ tiết kiệm cho ngân hàng để ngân hàng ghi bút toán. Ngày nay, nhiều ngân hàng đã bỏ sổ tiết kiệm, thay vào đó cung cấp cho khách hàng bảng kê lúc gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả các số phát sinh.
Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng không những đem lại cho ngân hàng một nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh, mà còn giúp cho ngân hàng có thể nắm bắt được thông tin, tư liệu chính xác về tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng có căn cứ để quy định mức vốn để đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó. Vốn tiền mà ngân hàng huy động được trên các khoản tiền gửi của khách hàng còn là cơ sở cho các tổ chức thanh tra, kiểm toán thực hiện được nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác phát hiện kịp thời tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng, xử lý kịp thời những kẻ vi phạm pháp luật.
c) Nguồn vốn huy động thông qua các chứng từ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua.
* Giấy tờ có giá ngắn hạn :
Là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
* Giấy tờ có giá dài hạn:
Là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát hành đến hết hạn, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác.
Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác
Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng Nhà nước.
a) Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng có lúc phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, và ngược lại cũng phát sinh tình trạng tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với ngân hàng, cũng có lúc ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự có thời điểm cho vay vốn lớn, nhưng khả năng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được không đáp ứng đủ. Vì vậy trong trường hợp đó ngân hàng có thể tiếp tục gửi vốn tam thời chưa sử dụng vào ngân hàng khác để lấy lãi, hoặc đi vay các ngân hàng khác.
b) Vay từ Ngân hàng Trung Ương
Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các NHTM sẽ được NHTW cho vay vốn.
Việc cho vay vốn của NHTW đối với NHTM thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM. Ngoài ra, NHTW còn thực hiện cho vay bổ sung thanh toán bù trừ giữa các NHTM. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Chính phủ chấp thuận, NHTW còn cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng thanh toán. Khoản vay này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức tín dụng.
2.1.3. Những nguyên tắc trong việc quản lý tiền gửi của Khách hàng
Các nguyên tắc trong quản lý tiền gửi khách hàng ra đời nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, tạo niềm tin cho khách hàng và góp phần tạo sự hoạt động kinh doanh ổn định. Các nguyên tắc đó như sau:
- Ngân hàng phải đảm bảo thanh toán kịp thời cho khách hàng. Để thực hiện được nguyên tắc này, Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm tiền gửi nhất định để cho vay, số còn lại làm quỹ dự trữ bảo đảm thanh toán cho khách hàng.
Quỹ bảo đảm thanh toán bao gồm:
+ Tiền mặt tại quỹ
+ Ngân phiếu thanh toán
+ Tín phiếu kho bạc.
+ Tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiền gửi dự trữ tối thiểu bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng phải đảm bảo tương ứng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có ý nghĩa tương đối.
Ngân hàng chỉ được thực hiện các khoản giao dịch trên tài khoản của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc có sự uỷ nhiệm của chủ tài khoản.
Ngoại trừ trường hợp khách hàng vi phạm luật chi trả theo quy định của cơ quan có thẩm quyền về thực hiện các nghiệp vụ thanh toán thì khi đó ngân hàng mới có quyền tự động trích tài khoản thanh toán có liên quan.
Ngân hàng phải đảm bảo an toàn và bí mật cho chủ tài khoản.
Ngân hàng phải có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách hàng, các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng quy định. Ngân hàng phải kiểm tra con dấu và chữ ký của khách hàng, nếu không phù hợp thì ngân hàng có thể từ chối thanh toán.
Khi có các nghiệp vụ có liên quan đến tài khoản của khách hàng thì ngân hàng phải kịp thời gửi giấy báo cho khách hàng. Cuối tháng, ngân hàng phải gửi bản sao tài khoản hoặc giấy báo số dư cho khách hàng.
2.1.4. Những vấn đề chung về tín dụng
2.1.4.1. Khái niệm
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.
Như vậy trong định nghĩa trên chứa đựng những nội dung sau:
Quan hệ tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, một bên chuyển giao tiền hoặc hàng hoá cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên chuyển giao tiền hoặc hàng hoá được gọi là người cho vay (lender). Bên nhận tiền hay hàng hoá được gọi là người đi vay (borrower).
Người đi vay chỉ sử dụng tiền hay hàng hoá trong thời gian nhất định, hết thời hạn cam kết người đi vay phải hoàn trả lại lượng giá trị nêu trên cho người đi vay. Thường thì giá trị khoản trả lớn hơn giá trị khoản vay. Đó là phần lợi tức mà người cho vay nhận được.
Quy trình vận động của tín dụng có thể diễn tả theo sơ đồ sau:
Người cho vay
Người đi vay
T: Giá trị tín dụng
T+L: Giá trị tín dụng +lãi
Hình 1: Quy trình vận động của tín dụng
Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa dạng và có đủ tất cả các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng.
2.1.4.2. Bản chất - chức năng – vai trò của tín dụng
a) Bản chất
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế xã hội. Mặc dù tín dụng có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình thái kinh tế xã hội với nhiều hình thức khác nhau, song đều có tính chất quan trọng sau:
Tín dụng trước hết chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi giá trị sử dụng chúng.
Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”.
Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
b) Chức năng
* Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản của tín dụng, nhờ chức năng này mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để sử dụng nhằm phát triển nền kinh tế.
Ở khâu tập trung vốn tiền tệ, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội.
Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nguồn vốn cho sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đều được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả, vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, nó thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
* Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
Hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông thẻ tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu, séc, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán… cho phép thay thế một lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền…
Với sự hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một khả năng lớn trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng với các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ cho nhau, giúp giải quyết nhanh chóng các mối quan hệ kinh tế, tạo điều kiện cho các nền kinh tế xã hội phát triển.
* Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hoá, chi phí trong các xí nghiệp các tổ chức kinh tế. Vì vậy, tín dụng không những là tấm gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp…, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
c) Vai trò
* Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển
Tín dụng là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội.
Tất cả đều hợp lực và tác động lên đời sống kinh tế – xã hội, tạo ra động lực phát triển rất mạnh mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được.
* Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả
Tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là trong các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ.
Mặt khác, do cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ làm ra ngày càng nhiều đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định thị trường giá cả trong nước.
* Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, và ổn định trật tự xã hội
Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội.
Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức cho vay, vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động. Do đó, nó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần ổn định trật tự xã hội.
* Tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế
Sự phát triển của tín dụng không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
d) Phạm vi áp dụng
- Bên cho vay: là các tổ chức tín dụng được thành lập, được cấp giấy phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam theo quy định của Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính đều được phép huy động vốn và cho vay ngắn hạn tài trợ cho hoạt động kinh doanh trong các tổ chức kinh tế bao gồm:
- Bên đi vay: là những pháp nhân, thể nhân hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật Việt Nam.
e) Nguyên tắc vay vốn
- Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả vốn gốc và lãi vay theo đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế.
- Việc đảm bảo tiền vay đúng quy định của chính phủ và thống đốc Ngân hàng nhà nước.
f) Đối tượng cho vay
Giá trị vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị bao gồm cả thuế giá trị gia tăng nằm trong tổng giá trị lô hàng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống.
Số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu, khách hàng phải làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay.
Số lãi tiền vay trả cho tổ chức tín dụng cho vay trong thời hạn thi công, chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung hạn, dài hạn để đầu tư tài sản cố định đó, mà khoản trả lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó.
Số tiền khách hàng vay để trả cho các khoản vay tài chính cho nước ngoài mà các khoản vay đó đã được tổ chức tín dụng trong nước bảo lãnh.
Các nhu cầu tài chính khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ và phục vụ đời sống theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
g) Thời hạn cho vay
NHNo & PTNT nơi cho vay và khách hàng thỏa thuận về thời hạn cho vay gồm hai loại:
- Cho vay ngắn hạn: Tối đa 12 tháng
- Cho vay trung - dài hạn:
+ Cho vay trung hạn: Từ 12 tháng – 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Từ 60 tháng trở lên và không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc theo giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án cho vay phục vụ đời sống.
h) Lãi suất cho vay
Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết.
Lãi suất cho vay được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất theo quy định của Chính phủ và người hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
i) Mức cho vay
Mức cho vay được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với trị giá tài sản làm đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay.
Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trừ trường hợp đối với những khoản vay từ nguồn vốn ủy thác của chính phủ, của các tổ chức cá nhân. Trường hợp khách hàng vay vượt quá 15% vốn tự có tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
j) Biện pháp bảo đảm tiền vay
- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Ngoài ra, Ngân hàng còn có biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tín chấp.
2.1.4.3 Các chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động và sử dụng vốn của NHTM
Trong quyển Nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện đại do PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn chủ biên, do nhà xuất bản Thống Kê xuất bản năm 2005 có đề cập đến các chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động và sử dụng vốn của NHTM. Các chỉ tiêu này đã được các nhà kinh tế và các chuyên viên ngân hàng thiết lập và sử dụng. Các chỉ tiêu này bao gồm:
a) Phân tích tổng quát nguồn vốn
Số dư từng khoản mục nguồn vốn
Tổng nguồn vốn
Tỷ lệ % từng khoản nguồn vốn = x 100%
Chỉ số này sẽ giúp nhà phân tích biết được cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. Mỗi một khoản nguồn vốn để có những yêu cầu khác nhau về chi phí, tính thanh khoản, thời hạn hoàn trả khác nhau…do đó ngân hàng cần phải quan sát, đánh giá từng loại nguồn vốn để kịp thời để có những chiến lược huy động tốt nhất trong từng thời kỳ nhất định.
b) Phân tích nguồn vốn huy động
- Vốn huy động / vốn tự có : giúp các nhà phân tích xác định được khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM.
- Tỷ lệ phần trăm từng loại tiền gửi:
Số dư từng loại tiền gửi
Tỉ lệ phần trăm từng loại tiền gửi = x 100%
Tổng vốn huy động
Tỷ lệ này nhằm xác định cơ cấu vốn huy động của Ngân hàng. Qua đó giúp Ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào cho Ngân hàng.
c) Phân tích vốn vay
Vốn vay
Tỷ lệ vốn vay / tổng nguồn vốn = x 100%
Tổng nguồn vốn
Phản ánh mức hỗ trợ vốn từ Ngân hàng Trung Ương (NHTW) và các tổ chức tín dụng khác.
d) Phân tích vốn tự có của Ngân hàng
Để xác định mức độ an toàn của Ngân hàng vì khả năng thanh toán cuối cùng của một Ngân hàng có liên quan mật thiết với mức vốn tự có. Việc đánh giá khả năng thanh toán cuối cùng thường được thực hiện thông qua chỉ số sau:
Tổng vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có / từng khoản tài sản = x 100%
Tổng tài sản
2.4.1.4. Các chỉ tiêu phân tích hoạt động sử dụng vốn
Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động
Chỉ số này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động. Nó giúp cho nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với nguồn vốn huy động.
Dư nợ ngắn (trung, dài) hạn / Tổng dư nợ
Chỉ số này dùng xác định cơ cấu tín dụng theo thời hạn. Từ đó giúp nhà phân tích đánh giá được cơ cấu đầu tư như vậy có hợp lý hay chưa và có giải pháp điều chỉnh kịp thời.
2.4.1.5. Phân loại nợ
Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại. (QĐ18/2007/QĐ-NHNN)
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu). (QĐ18/2007/QĐ-NHNN)
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 10 ngày, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu tiên phân loại vào nhóm 2 theo qui định.
- Các khoản nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. (QĐ18/2007/QĐ-NHNN)
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai. (QĐ18/2007/QĐ-NHNN)
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn được trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý. (QĐ18/2007/QĐ-NHNN)
Nợ xấu: là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5.Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
2.1.4.6. Các chỉ tiêu dùng để phân tích và đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng
a) Doanh số cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động chính yếu và quan trọng nhất của bất cứ một ngân hàng thương mại nào. Sự chuyển hoá từ vốn tiền sang vốn tín dụng để bổ sung cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế không chỉ có ý nghĩa đối với nền kinh tế mà cả đối với bản thân Ngân hàng. Bởi vì nhờ cho vay mà tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng để từ đó bồi hoàn lại tiền gửi của khách hàng, bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động cho vay là hoạt động mang tính rủi ro lớn, vì vậy cần phải quản lý các khoản cho vay một cách chặt chẽ thì mới có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro.
b) Doanh số thu nợ
Ngân hàng là tổ chức trung gian đi vay để cho vay. Tiền đi vay qua dân cư, qua các tổ chức tín dụng, qua NHNN…đều phải trả lãi. Đó là chi phí khi ngân hàng sử dụng vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay nên vốn của nó phải được bảo tồn và phát triển. Khi các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng vốn của ngân hàng thì họ phải trả lãi cho ngân hàng. Phần lãi này phải bù đắp phần lãi mà ngân hàng đi vay, phần chi phí cho hoạt động của ngân hàng và đảm bảo có lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động cho vay là hoạt động có nhiều rủi ro, đồng vốn mà ngân hàng cho vay có thể được thu hồi đúng hạn, trễ hạn hoặc có thể không thu hồi được. Vì vậy công tác thu hồi nợ được ngân hàng đặt lên hàng đầu, bởi một ngân hàng muốn hoạt động tốt, không phải chỉ nâng cao doanh số cho vay mà còn chú trọng đến công tác thu nợ làm sao để đảm bảo đồng vốn bỏ ra và thu hồi lại nhanh chóng, tránh thất thoát và có hiệu quả cao.
Mặc dù việc thu nợ là yếu tố chưa nói lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng một cách trực tiếp, nhưng nó là yếu tố chủ yếu thể hiện khả năng phân tích, đánh giá, kiểm tra khách hàng, của ngân hàng là thành công hay không. Việc thu hồi một khoản nợ đúng với các điều kiện đã cam kết trong hợp đồng tín dụng là một thành công rất lớn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. Vì đã cho vay đúng đối tượng, người sử dụng vốn vay đúng mục đích có hiệu quả và người vay đã tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng qua việc họ trả nợ và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
c) Tình hình dư nợ
Dư nợ phản ánh thực trạng hoạt động của một ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Mức dư nợ ngắn hạn cũng như trung và dài hạn phụ thuộc vào mức độ huy động vốn của ngân hàng. Nếu nguồn vốn huy động tăng thì mức dư nợ sẽ tăng và ngược lại. Bất cứ một ngân hàng nào cũng vậy, để hoạt động tốt thì không chỉ nâng cao doanh số cho vay mà còn phải nâng cao mức dư nợ.
d) Tình hình nợ quá hạn
Đối với khoản cho vay khi đến kỳ hạn trả nợ mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn thì có thể chuyển sang nợ quá hạn. Nếu khách hàng vì những nguyên nhân khách quan không trả được nợ đúng hạn thì có thể làm đơn xin gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ nếu được ngân hàng đồng ý. Sau khi hết thời gian gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ mà khách hàng vẫn không trả được nợ cho ngân hàng thì nợ đó được chuyển sang nợ quá hạn. Còn nếu khách hàng không có đơn xin gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ tất yếu ngân hàng cũng chuyển nợ đó sang nợ quá hạn ngay sau khi hết hạn.
Nợ quá hạn, nợ khó đòi là những biểu hiện rõ nét của chất lượng tín dụng. Khi phát sinh nợ quá hạn cũng đồng nghĩa với các khoản vay của ngân hàng đã bị rủi ro. Vì vậy ngân hàng cần tìm ra các nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn, đồng thời tìm ra các giải pháp để hạn chế nợ quá hạn, nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng hoạt động cho ngân hàng.
e) Tình hình vốn huy động trên tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho ta biết khả năng sử dụng vốn huy động của ngân hàng vào việc cho vay vốn. Thông thường khi nguồn vốn ở ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp so với nguồn vốn sử dụng thì dư nợ sẽ càng cao hơn vốn huy động rất nhiều. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì không hiệu quả bằng việc sử dụng nguồn vốn huy động. Và được tính bằng công thức:
Số dư vốn huy động
Vốn huy động / Tổng dư nợ = x 100%
Tổng dư nợ
Vì vậy, nếu chỉ tiêu này trên 50% thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng cao, tính tự chủ của ngân hàng cao trong hoạt động tín dụng, vì đã sử dụng đồng vốn huy động được có hiệu quả.
Tuy nhiên, theo GS.TS Lê Văn Tư trong quyển Tiền tệ và ngân hàng xuất bản năm 2001 thì có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Bên cạnh các chỉ tiêu vừa nêu ra ở trên, có thể xem 3 chỉ tiêu dưới đây là chính yếu, quan trọng nhất, thể hiện rõ nhất tình hình hoạt động tín dụng của một ngân hàng thương mại. Đó là chỉ tiêu Hệ số thu nợ, Vòng quay vốn tín dụng và Tỷ lệ nợ quá hạn trên dư nợ. Các chỉ tiêu này đã được đúc kết trong nhiều thập kỷ phát triển của NHTM hiện đại, và được tất cả các NHTM trên thế giới áp dụng để làm căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của mình.
2.1.4.7. Phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng
Hệ số thu nợ =
Doanh số thu nợ
Doanh số cho vay
a) Tình hình thu nợ trên doanh số cho vay (hệ số thu nợ)
x 100%
Doanh số thu nợ là vấn đề quan trọng được các ngân hàng quan tâm, nó đánh giá khả năng tình hình tài chính của khách hàng. Hiệu quả hoạt động tín dụng là nguồn tái đầu tư tín dụng để đảm bảo nguồn vốn hiện có và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển trong lưu thông.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hồi nợ của ngân hàng khi cho khách hàng vay, ngân hàng sẽ thu lại được bao nhiêu phần trăm khi sử dụng chính số tiền cho vay của mình. Nếu tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là rất tốt, ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
b) Tình hình nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ = x100%
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu thể hiện trực tiếp công tác thẩm định phương án sản xuất kinh doanh của cán bộ tín dụng. Đồng thời phản ánh khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đối với khách hàng cũng như uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hiện nay theo mức độ cho phép của ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là dưới 5%, trong đó tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt. Nếu nợ quá hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ thì chất lượng tín dụng của ngân hàng kém, và rủi ro tín dụng kèm theo là rất cao, và ngược lại.
Chỉ tiêu nợ quá hạn trên dư nợ cho thấy khả năng thanh toán cũng như uy tín của khách hàng, nó cũng gián tiếp phản ánh khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đối với các khoản cho vay.
c) Vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng ngân hàng. Thời gian thu hồi nợ nhanh thì vòng quay của vốn tín dụng nhanh, hoạt động đưa vốn vào sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn =
Dư nợ bình quân
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ phòng Kinh doanh Sacombank Chi nhánh Cần Thơ.
- Báo cáo tài chính của Sacombank Chi nhánh Cần Thơ từ năm 2010 đến năm 2012.
- Tình hình huy động vốn qua từ năm 2010 đến năm 2012 của Sacombank Chi nhánh Cần Thơ.
- Doanh số cho vay, thu nợ từ năm 2010 đến năm Sacombank Chi nhánh Cần Thơ.
2.2.2. Phương pháp phân tích
2.2.2.1. Phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối
êy = y1 - y0
Là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích của kỳ gốc
Trong đó:
y0 : chỉ tiêu năm trước.
y1 : chỉ tiêu năm sau.
êy : là phần chênh lệch tăng, giảm của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này được sử dụng để so sánh số liệu năm tính với số liệu năm trước trong quá trình phân tích tình hình kết quả hoạt động kinh doanh, huy động vốn, doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ,..của ngân hàng xem biến động như thế nào và tìm ra nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu tín dụng, từ đó đề ra biện pháp khắc phục.
2.2.2.2. Phương pháp so sánh bằng số tương đối
êy
=
y1
* 100% - 100%
y0
Là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế.
Trong đó:
y0 : chỉ tiêu năm trước.
y1 : chỉ tiêu năm sau.
êy : biểu hiện tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp dùng để làm rõ tình hình biến động theo mức độ phân trăm (%) của các chỉ tiêu kinh tế trong thời gian nào đó. So sánh tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu giữa các năm và so sánh tốc độ tăng trưởng giữa các chỉ tiêu. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Cùng với phương pháp so sánh số tuyệt đối, phương pháp so sánh số tương đối cũng rất quan trọng để thực hiện việc phân tích tình hình huy động vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cả 2 phương pháp này thường được sử dụng chung để nhìn nhận và đánh giá chính xác hơn những biến động của các khoản mục.
2.2.2.3. Phương pháp phân tích tỷ trọng
Xem xét cơ cấu, tính tỷ trọng các khoản mục trong bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Tỷ trọng từng khoản mục
=
Tổng giá trị các khoản mục
Giá trị từng khoản mục
X 100%
Việc đánh giá các khoản mục chuyển biến ra sao và sẽ ảnh hưởng tới mức độ nào tùy thuộc vào tỷ trọng của nó trong tổng giá trị các khoản mục.
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TÍN DỤNG
CÁ NHÂN TẠI SACOMBANK
3.1. Khái quát về ngân hàng
3.1.1. Sự ra đời và phát triển
3.1.2. Cơ cấu tổ chức
3.1.3. Chức năng và nhiệm vụ các phòng ban
3.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh 2010 – 2012
3.1.5. Phân tích tình hình huy động vốn
3.2. Thực trạng tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank 2010 – 2012
3.2.3. Phân tích tình hình cho vay
3.2.3. Phân tích tình hình dư nợ
3.2.4. Phân tích tình hình thu nợ
3.2.5. Phân tích tình hình nợ xấu
3.2.6. Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình tín dụng cá nhân
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CÁ NHÂN TẠI SACOMBANK
4.1. Những mặt đạt được và hạn chế
4.2. Giải pháp
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- decuong_0021.doc