Phân tích khái niệm và cơ cấu của quy phạm pháp luật

Khái niệm quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành, thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động để điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản theo những định hướng của nhà nước. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật có thể là những quy tắc xử sự của công dân, của những người có chức vụ, quyền hạn và những quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là những quy định về địa vị pháp lý của các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các chủ thể pháp luật khác. Cơ cấu của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác. Vì vậy, nó phải có cơ cấu đầy đủ, xác định để các chủ thể có thể đối chiếu với các xử sự của mình mà biết được nó là hợp pháp hay bất hợp pháp, là được phép hay bị cấm , trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó, đồng thời chỉ ra những biện pháp tác động hoặc bảo đảm cần thiết để chúng được thực hiện trên thực tế. Từ đó, ta thấy cơ cấu của quy phạm pháp luật được xác định bởi ba bộ phận cấu thành, bao gồm giả định, quy định và bảo đảm.

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 37249 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích khái niệm và cơ cấu của quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG Khái niệm quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành, thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động để điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản theo những định hướng của nhà nước. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật có thể là những quy tắc xử sự của công dân, của những người có chức vụ, quyền hạn và những quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là những quy định về địa vị pháp lý của các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các chủ thể pháp luật khác. Cơ cấu của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác. Vì vậy, nó phải có cơ cấu đầy đủ, xác định để các chủ thể có thể đối chiếu với các xử sự của mình mà biết được nó là hợp pháp hay bất hợp pháp, là được phép hay bị cấm…, trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó, đồng thời chỉ ra những biện pháp tác động hoặc bảo đảm cần thiết để chúng được thực hiện trên thực tế. Từ đó, ta thấy cơ cấu của quy phạm pháp luật được xác định bởi ba bộ phận cấu thành, bao gồm giả định, quy định và bảo đảm. Giả định. Khái niệm. Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật xác định chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của quy phạm, đồng thời cũng chỉ ra hoàn cảnh, điều kiện gắn với các chủ thể đó. Bộ phận này chỉ ra môi trường pháp lí mà nhà nước tác động tới các chủ thể. Nó được xây dựng trên cơ sở khái quát những hành vi của con người được lặp đi lặp lại trong cuộc sống và có tính quy luật. Giả định là bộ phận của quy phạm trả lời cho câu hỏi: ai (cá nhân hay tổ chức nào), khi nào (ở đâu, với điều kiện gì, trong hoàn cảnh nào). Ví dụ: “Mọi tổ chức và cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp thì phải nộp thuế nông nghiệp” (Điều 1 Pháp lệnh thuế nông nghiệp 1989). Trong quy phạm này, bộ phận giả định là “Mọi tổ chức và cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp”. Phần này nêu lên chủ thể là “Mọi tổ chức và cá nhân” trong hoàn cảnh, điều kiện “sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp”. Đối với câu hỏi “ai”, câu trả lời có thể sẽ chỉ ra một loại chủ thể nào đó là cá nhân hoặc tổ chức với một hoặc nhiều điều kiện trực tiếp kèm theo. Đối với câu hỏi “khi nào”, bộ phận giả định có thể chỉ ra một hoặc nhiều tình huống, điều kiện liên quan đến chủ thể. Căn cứ vào định nghĩa trên, bộ phận giả định có thể chia thành hai loại: Giả định đơn giản là giả định chỉ nêu một điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà chủ thể gặp phải. Ví dụ: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”(Điều 68 Hiến pháp 1992). Giả định phức tạp nêu nhiều điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà chủ thể pháp luật có thể gặp phải. Ví dụ: “Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm” (Khoản 1 điều 125 Bộ luật hình sự 1999). Mục đích. Bộ phận giả định dự kiến các khả năng có thể xảy ra trong tương lai, từ đó đưa ra các biện pháp tác động hoặc điều chỉnh tương ứng để định hướng hành vi của con người. Đồng thời, nó gắn với các tình huống mẫu có tính điển hình để các chủ thể có thể đối chiếu và đưa ra cách ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật. Ý nghĩa. Bộ phận giả định phản ánh mức độ toàn diện về khả năng của các nhà làm luật trong việc phân tích hành vi, khả năng dự đoán các biến động trên thực tế của các hoàn cảnh, dự liệu được các tình huống phát sinh trên thực tế. Nó được thể hiện trong sự bao quát về thời gian, không gian, hoàn cảnh, xu hướng vận động của các quan hệ xã hội. Điều đó giúp nhà nước có thể tác động một cách toàn diện lên các quan hệ xã hội quan trọng và ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia, hạn chế những “lỗ hổng” của pháp luật. Yêu cầu. Những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong giả định phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh trình trạng nêu mập mờ, khó hiểu dẫn đến việc không hiểu hoặc hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật. Ngoài ra, giả định phải dự kiến được tới mức tối đa những hoàn cảnh, điều kiện về không gian, thời gian và đời sống thực tế. Trong đó, phải dự kiến hành vi của những chủ thể pháp luật nào cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Quy định. Khái niệm. Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra cách xử sự hay khuôn mẫu hành vi cho chủ thể được nêu trong phần giả định của quy phạm mà họ có thể hoặc cần phải xử sự theo. Đây là bộ phận trung tâm của quy phạm, xác định các quyền hoặc nghĩa vụ của các chủ thể được nêu trong bộ phận giả định của quy phạm và cũng là bộ phận trực tiếp thể hiện ý chí nhà nước. Vì vậy, quy định thường chỉ ra những việc mà chủ thể được làm (quyền), những việc không được làm, những việc phải làm (nghĩa vụ) và cách thức tiến hành các xử sự. Do đó, bộ phận giả định thường trả lời cho các câu hỏi: “được làm gì”, “không được làm gì”, “phải làm gì” và “làm như thế nào”. Ví dụ: “Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân” (Khoản 4, điều 104 Bộ luật hình sự 1999). Bộ phận quy định của quy phạm là “phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”. Hoặc: “Mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt” (Khoản 5, điều 11, bộ luật xây dựng 2003). Bộ phận quy định của quy phạm là “phải tuân theo quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. Bộ phận quy định có thể là sự cho phép (thể hiện bằng các từ: được làm, được hưởng, có quyền…), sự bắt buộc (thể hiện bằng các từ: phải làm, phải chịu, phải có trách nhiệm…), sự cấm đoán (thể hiện bằng các từ: cấm, không được…) hoặc nêu lên các cách ứng xử khác nhau để chủ thể lựa chọn. Mục đích. Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật đã thiết lập cho các chủ thể tham gia quan hệ xã hội các quyền và nghĩa vụ nhất định, từ đó điều chỉnh hành vi của công dân cho phù hợp với ý chí nhà nước. Ý nghĩa. Thông qua bộ phận qui định của qui phạm pháp luật các chủ thể pháp luật mới biết được nếu như họ ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nếu trong phần giả định của qui phạm pháp luật thì họ sẽ phải làm gì? được làm gì? Làm thế nào? hoặc không được làm gì? Cách xử sự được nêu trong bộ phận quy định chính là mệnh lệnh của nhà nước cho phép tổ chức hay cá nhân thực hiện hoặc buộc phải tuân theo nó trực tiếp thể hiện ý chí của nhà nước. Nó là một trong những điều kiện dảm bảo nguyên tắc pháp chế trong hoạt động của các chủ thể pháp luật. Yêu cầu. Cách thể hiện của bộ phận quy định phải rõ ràng, chính xác, chặt chẽ, một nghĩa, tránh biểu hiện mập mờ đa nghĩa đến đến không thể áp dụng hay vận dụng thống nhất pháp luật. Bảo đảm. Khái niệm. Bảo đảm là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên các biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật nhằm làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Bộ phận bảo đảm được xác định bởi hai loại biện pháp tác động có tính chất ngược nhau, đó là các hình thức khuyến khích, khen thưởng và các biện pháp trừng phạt (chế tài). Đối với trường hợp thứ nhất: Nhà nước nêu lên các biện pháp tác động có tính tích cực nhằm khuyến khích, động viên các chủ thể thực hiện pháp luật đã làm tốt hơn yêu cầu của nhà nước. Nó cũng chỉ ra các điều kiện cần thiết để các chủ thể có thể đưa ra mức độ khuyến khích. Ví dụ: “Tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động ngân hàng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật” (Điều 58, luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2003). Đối với trường hợp thứ hai: Nhà nước tác động đến các chủ thể vi phạm pháp luật thông qua chế tại. Chế tài là các biện pháp cưỡng chế mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng với chủ thể vi phạm pháp luật. Ví dụ: “Chiến sĩ Cảnh sát biển vi phạm kỷ luật thì bị xử lý theo Điều lệnh kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự” (Điều 24, Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam 1998). Trong quy phạm pháp luật, chế tài trả lời cho câu hỏi: “biện pháp cưỡng chế nhà nước nào sẽ được áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật”. Đó là những biện pháp liên quan đến việc hạn chế tự do, tinh thần hoặc thân thể, thậm chí cả việc tước đi mạng sống của con người hoặc những lợi ích vật chất khác. Có nhiều loại chế tài: Căn cứ vào tính chất là mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm, chế tài được phân thành chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỹ thuật, chế tài dân sự và chế tài hiến pháp. Căn cứ vào cách thể hiện của quy phạm, có chế tài đơn giản (chỉ nêu lên một loạt biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm) và chế tài phức tạp (hai hay nhiều biện pháp cưỡng chế nhà nước cùng đặt ra cho chủ thể vi phạm). Mục đích. Bộ phận này đảm bảo cho những quy định của nhà nước được tôn trọng và thực hiện chính xác. Thông qua phần bảo đảm của quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức biết được họ sẽ được hưởng những lợi ích gì hoặc sẽ phải gánh chịu những thiệt hại gì khi tiến hành xử sự một cách nào đó. Từ đó họ phải cân nhắc trước khi quyết định có nên làm điều gì đó hay không. Ý nghĩa. Các biện pháp bảo đảm được quy định trong pháp luật là sự thể hiện sự nhận thức của con người về tác dụng của thưởng phạt. Bộ phận này cần thiết để cho các quy phạm pháp luật có tính khả thi trên thực tế: Nó được coi là khâu khép kín của quy phạm pháp luật khi điều chỉnh hành vi con người vì nếu thiếu nó, các yêu cầu hay đòi hỏi của nhà nước sẽ không được thực hiện trên thực tế. Nó ngăn ngừa công dân thực hiện những hành vi có hại và khuyến khích công dân thực hiện những hành vi có ích cho xã hội, phù hợp với ý chí nhà nước và sự phát triển của xã hội. Yêu cầu. Các hình thức khuyến khích hoặc trừng phạt phải rõ ràng, chặt chẽ, hợp lý, nghiêm minh, tránh sự bất công hoặc thiên vị. Đồng thời cần tăng cường các biện pháp khuyến khích, khen thưởng cho các chủ thể có thành tích trong việc thực hiện pháp luật để nâng cao ý thức và sự phấn đấu đóng góp của các cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật. Một số quan điểm khác về cơ cấu của quy phạm pháp luật. Do quy phạm pháp luật được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau nên cũng có nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu của nó. Ngoài cơ cấu đã nêu trên, vẫn có một số quan điểm khác về cơ cấu của quy phạm pháp luật, bao gồm: Quan điểm thứ nhất Quy phạm pháp luật bao gồm hai bộ phận là giả định và chỉ dẫn. Giả định là bộ phận của quy phạm nêu những điều kiện và hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống gắn với những cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Phần chỉ dẫn nêu lên cách ứng xử cho chủ thể được nêu trong phần giả định của quy phạm. So với quan điểm truyền thống, quan điểm này đã gộp bộ phận quy định và bảo đảm thành bộ phận chỉ dẫn. Quan điểm thứ hai Quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Về cơ bản, quan điểm này tương đương với quan điểm mà bài viết đề cập, tuy nhiên hạn chế của quan điểm này là không đề cập tới và không giải thích được những quy phạm quy định các biện pháp khuyến khích các chủ thể thực hiện tốt các quy định của pháp luật hay yêu cầu của nhà nước. Quan điểm thứ ba Quy phạm pháp luật bao gồm hai bộ phận là quy tắc và bảo đảm. So với quan điểm mà bài viết đề cập, phần quy tắc bao hàm cả phần giả định và quy định, còn phần bảo đảm tương tự như đã trình bày ở trên. KẾT LUẬN Mặc dù có nhiều quan điểm về cơ cấu của quy phạm pháp luật, nhưng về cơ bản, các bộ phận trong cơ cấu của quy phạm pháp luật ở mỗi quan điểm gần như có sự tương đồng hoặc bao quát. Do đó, chúng hầu như giống nhau về mục đích, ý nghĩa và yêu cầu. Việc phân tích cơ cấu của quy phạm pháp luật sẽ giúp nhà nước và các cơ quan ban hành luật ngày càng hoàn chỉnh những “lỗ hổng” của pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời giúp ta áp dụng pháp luật vào cuộc sống một cách có hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích khái niệm và cơ cấu của quy phạm pháp luật.doc
Luận văn liên quan