Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
MỤC LỤC
Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG . .2
I. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào
quản lí hành chính nhà nước .2
1. Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn .3
2. Nội dung nguyên tắc 4
II. Đánh giá sự vận dụng của nguyên tắc ở Việt Nam
hiện nay 7
C. KẾT LUẬN 11
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5472 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU………………………………………2
B. NỘI DUNG……………………………...………….2
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào
quản lí hành chính nhà nước……………………………………….2
Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn.........................................................3
Nội dung nguyên tắc……………………………………..4
Đánh giá sự vận dụng của nguyên tắc ở Việt Nam
hiện nay………………………………………………………………7
C. KẾT LUẬN………………………………………11
A. LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công việc xây dựng kinh tế văn hóa xã hội và hành chính chính trị. Quản lý hành chính nhà nước phải được tiến hành trên những nguyên tắc nhất định. Một trong các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước là “nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước” . Nguyên tắc này cụ thể hóa nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước ta ghi nhận và đảm bảo trong Điều 2 và Điều 3 Hiến pháp 1992. Đây là sự thừa nhận của Nhà nước về tầm quan trọng của quyền này trong đời sống chính trị của công dân, là cơ sở pháp lí để công dân phát huy tính tích cực của mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quản lí Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp hay quản lí hành chính nhà nước, và là cơ sở pháp lí cho nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước. Để tìm hiểu sâu hơn về nguyên tắc này cũng như việc việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước, em chọn đề tài 03: “Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.”.
B. NỘI DUNG
I . Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước.
Trong khoa học pháp lí, các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước được xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lí, từ bản chất chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Ở góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn.
Cơ sở pháp lí: Bắt nguồn từ bản chất giai cấp nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước ta ghi nhận từ rất sớm. Ngay từ Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 1, sau đó tại Điều 4 Hiến pháp năm 1959, tại Điều 6 Hiến pháp 1980. Và trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001), nó tiếp tục được ghi nhận tại Điều 2 là: “…Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Với sự ghi nhận này, nhân dân có quyền tham gia vào hoạt động quản lí nhà nước nói chung và hoạt động quản lí hành chính nhà nước nói riêng. Quyền được tham gia vào quản lí các công việc của nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Điều 3 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) khẳng định “Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân.”. Quy định này đã đặt nền móng pháp lí cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước.
Cơ sở thực tiễn: Chủ nghĩa Mác- lênin đã chỉ ra “nhân dân là gốc chính quyền” và thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó. Từ thời dựng nước và giữ nước tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã được áp dụng đến nay, tư tưởng ấy vẫn được giữ vững và đã trở thành nguyên tắc trong hoạt động quản lí nhà nước nói chung và hoạt động quản lí hành chính nhà nước nói riêng. Xuất phát từ vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước, từ yêu cầu đảm bảo cho nhân dân lao động thực sự làm chủ đất nước nhà nước phải tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào quản lí hành chính nhà nước.
Nội dung nguyên tắc.
Trong quản lí hành chính nhà nước, nguyên tắc này thể hiện ở những hình thức tham gia vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Đây là những hình thức được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng các phương tiện của nhà nước. Các hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước của nhân dân lao động gồm:
* Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Hình thức thứ nhất mà nhân dân lao động có thể tham gia là tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có hai cách thức mà người dân có thể tham gia vào đây là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu tham gia một cách trực tiếp, thì người lao động có thể tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước. Con đường để trở thành thành viên của cơ quan này là thông qua bầu cử. Cụ thể là người lao động có thể tự ứng cử với các điều kiện do luật định hoặc được đề cử. Với tư cách là thành viên của các cơ quan này và là đại biểu của nhân dân, họ sẽ được trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương, trong đó có các vấn đề quản lí hành chính nhà nước. Ngoài cách tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác (cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với tư cách là cán bộ công chức. Khi ở cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh. Lúc này người lao động có đầy đủ các điều kiện để biến ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực đê xây dựng đất nước.
Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
* Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội có vai trò hội tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tổ chức xã hội góp phần ổn định chính trị tạo điều kiện để nhà nước thực hiện quản lí xã hội. Tổ chức xã hội đại diện cho nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội, thay mặt cho quần chúng nhân dân thực hiện quyền lực chính trị, đồng thời giúp từng cá nhân tích cực phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước đã ban hành nhiều quy định liên quan tới vị trí vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lí hành chính nói riêng và quản lí nhà nước nói chung. Và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cựu chiến binh... . Các tổ chức xã hội này là công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Điều này được Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.”. Ví dụ khi Ủy ban nhân dân họp về vấn đề sinh đẻ có kế hoạch sẽ phải mời cả đại diện Hội phụ nữ đến để cùng họp.
Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước ta.Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lí hành chính nhà nước.
* Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Hoạt động tự quản là những hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện và nó có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau của của quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Các hoạt động tự quản ở cơ sở như bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống cộng đồng..đều là những hoạt động rất gần gũi thiết thực với mỗi người dân. Thông qua những hoạt động tự quản này người lao động trực tiếp tham gia quản lí nhà nước quản lí xã hội một cách tích cực. Ngoài ra nhà nước đã tạo những điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của nhân dân lao động trong việc tham gia những hoạt động cí tính chất tự quản trên như: khen thưởng,tuyên dương, hỗ trợ các chi phí cần thiết.
Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người lao động là những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của họ được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
* Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước.
Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội là một trong những quyền chính trị quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện phương châm mọi công việc của nhà nước của xã hội “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.” Điều 53, Hiến pháp năm 1992 quy định “tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.” . Cụ thể là tham gia vào các hoạt động kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước, tham gia trực tiếp với tư cách là thành viên không chuyên trách trong hoạt động cơ quan quản lý, các cơ quan xã hội, tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan, người dân cũng có thể tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật khi được công bố hỏi ý kiến qua báo chí.... Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình. Trên cơ sở này, pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong những lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước.
Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như quyền tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Đặc biệt, để đảm bảo cho các quyền của công dân được thực hiện trong quản lí hành chính nhà nước và khắc phục sai lầm lệch lạc của cán bộ viên chức nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với nhà nước, Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định quyền khiếu nại tố cáo của công dân. Nhiều văn bản pháp luật của nhà nước đã cụ thể hóa quyền này như: Luật khiếu nại tố cáo 1998…
II . Đánh giá sự vận dụng của nguyên tắc ở Việt Nam hiện nay.
Nguyên tắc dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước đã được ghi nhận trong pháp luật. Hiện nay nhà nước ta đã vận dụng nguyên tắc này khá tốt thể hiện ở việc nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước thông qua các hình thức khác nhau.
Cụ thể, nhân dân được tham gia nhiều hơn, đặc biệt trong các tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên…Bên cạnh đó, nhân dân lao động hiện nay còn được tham gia vào rất nhiều hoạt động gần gữi gắn liền với đời sống là các tổ chức tự quản nhằm giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng… Hoạt động tự quản ở cơ sở ngày càng được phổ biến ở các khu dân cư. Tiêu biểu như thành phố Hà Nội hiện có 577 xã, phường, thị trấn, hơn 5000 khu dân cư. Khu dân cư là một tổ chức có tính tự quản của cộng đồng dân cư. Ở đó người dân tự quản lý các công việc của mình. Chế độ tự quản ở khu dân cư đã giúp nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Điều này được thể hiện rõ qua phong trào “gọn nhà sạch phố đẹp thủ đô”, “người Hà Nội quyết tẩy trừ tệ đổ rác ra đường, rác trên tường” và các phong trào khác do thành phố Hà Nội phát động. Tự quản ở khu dân cư còn góp phần giải quyết các tranh chấp, bất đồng tr Thứ nhất, tham gia cơ quan quyền lực nhà nước.
Nhà nước có những văn bản hướng dẫn cụ thể như Luật bầu cử đại biểu quốc hội, Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân. Các văn bản này giúp người lao động dẽ dàng xác định những tiêu chuẩn cơ bản, cần thiết để có thể tham gia ứng cử. Đặc biệt, ngoài hình thức là người với tư cách là Mặt trận Tổ quốc giới thiệu, thì người lao động còn có khả năng tự ứng cử đã tạo ra nhiều sự lựa chọn cho nhân dân, tác động tích cực đến nhân dân trong cuộc sống và sinh hoạt cộng đồng.
Công tác tuyên truyền pháp luật hiện nay được đẩy mạnh, nhân dân hiểu biết pháp luật hơn, cùng với đó, cơ chế quản lí với các thủ tục đơn giản hơn, nên càng làm phát huy quyền cơ bản này của công dân.
Nhà nước cũng đã tạo nhiều điều kiện để nhân dân trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong kĩnh cực quản lí hành chính nhà nước. Như trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo, có nhiều cải cách đa số các khiếu nại, tố cáo được giải quyết kịp thời khuyến khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của mình cũng như của người khác…
Tuy nhiên, nguyên tắc này trong một số trường hợp vẫn không được áp dụng triệt để, vẫn còn một số vướng mắc, bất cập. Cụ thể:
Thứ nhất, trong vấn đề bầu cử để tham gia vào cơ quan nhà nước. Có một thực tế tồn tại là cử tri đi bỏ phiếu không biết mình đang bỏ phiếu cho ai. Trong luật đã qui định rằng sẽ có các cuộc tiếp xúc cử tri, tuy nhiên vấn đề tổ chức các buổi này còn nhiều hạn chế bới các lí do khác nhau. Thêm nữa, mặc dù số lượng cử tri đi bỏ phiếu khá cao song một bộ phận cử tri đi bỏ phiếu không có chính kiến của mình, bỏ với ý thức cho xong chuyện, theo ý kiến số đông. Việc đó không thể hiện sự lựa chọn ra người đại biểu cho mình, do đó càng không thể hiện được sự tham gia của nhân dân vào cơ quan nhà nước dù là gián tiếp. Những người tham gia bỏ phiếu không hiểu được hết vai trò của công việc bỏ phiếu theo các nguyên tắc mà luật đã định, họ không hiểu rằng những người mà mình đang bỏ phiếu cho là những người sẽ đại diện cho quyền lợi của họ. Vậy nên cần đảy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật, cùng với thực hiện tốt hơn các khâu quản lí, tổ chức để các hoạt động quản lí được nhân dân lao động tham gia nhiều hơn, sâu hơn.
Thứ hai, trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức ở các cơ quan khác cũng gặp phải một số bất cập làm nguyên tắc không được thực hiện một triệt để. Tình trạng cán bộ công chức hiện nay đó là “nơi thừa vẫn thừa, nơi thiếu cứ thiếu”. Một phần nguyên nhân là do các quy định trong qua trình tuyển dụng đặt ra chưa sát với yêu cầu. Người được tuyển dụng có bằng cấp nhưng lại thiếu chuyên môn nghiệp vụ đặc thù. Điều này nảy sinh hiện tượng không ít cán bộ phản ứng rất nhiệt tình trong công việc nhưng “lực bất tòng tâm” và cộng thêm tư tưởng bao cấp nên công việc không hiệu quả. Mặt khác còn nhiều cơ quan trong quá trình sơ tuyển do muốn đưa người nhà, người quen vào nên tự đắt tiêu chuẩn, điều kiện trái quy định như phân biệt giới tính, trường đào tạo, loại hình đào tạo… nhằm loại những thí sinh không quen biết để người của mình dự thi một cách dễ dàng. Điều này đã tạo ra tâm lý không muốn thi tuyển công chức trong nhân dân lao động, gây khó khăn cho những người có đủ điều kiện thật sự muốn tham gia vào cơ quan nhà nước do vậy hầu như chuyển sang làm tư. Vì thế yêu cầu đặt ra cần phải công khai minh bạch trong tuyển dụng cán bộ, công chức.
Thứ ba, như trên ta đã thấy, hình thức tham gia vào các hoạt động tực quản ở cơ sở là một hình thức rất phổ biến bởi nó gần gũi với nhân dân nhất, gắp với các lợi ích thiết thực nhất của họ. Tuy nhiên, một số nơi việc xây dựng chế độ tự quản ở khu dân cư lại lựa chọn bố trí dân sự còn hạn chế về năng lực trình độ…Từ đó có thể không đạt được những hiệu quả như mong muốn mà còn có thể có những kết quả ngược lại. Để nâng cao chế độ tự quản cấp ủy chính quyền cấp xã cần quan triệt cho cán bộ, công chức nắm rõ vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của thôn làng tổ dân phố để cùng phối hợp, hỗ trợ ở khu dân cư tốt hơn, tranh việc gì cung giao cho khu dân cư dẫn đến quá tải không hoàn thành nhiệm vụ. Các cấp cũng cần thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho người tham gia vận động quần chúng ở khu dân cư …nhằm phát huy tinh thần tự quản của mỗi người dân, mỗi gia đình trong việc quản lý xã hội và quản lý hành chính.
Thứ tư, vấn đề khiếu nại, tố cáo, đây là một trong những hình thức được đặt ra nhằm đảm bảo cho quyền của công dân. Tuy nó đã được quy định trong luật về khiếu nại tố cáo, song thực tế thực hiện lại mang lại nhiều bất cập. Bởi lẽ, khi bảo đảm quyền lợi của người này thì lại có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi người khác. Đôi khi vì các mối quan hệ mà những người có thẩm quyền giải quyết ngần ngại và chạm, và ngần ngại giải quyết. Đặc biệ trong vấn đề tố cáo. Chính những người dân còn ngần ngại tố cáo khi phát hiện ra những hành vi sai trái của các cán bộ quản lí. Bởi vậy cần quán triệt hơn vấn đề này để đảm bảo quyền được tham gia quản lí của người dân.
Trên đây chỉ là số nhỏ trong số những vướng mắc bất cập gặp phải trong quá trình thực hiện để đảm bảo nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước. Từ đây, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần quan tâm nhiều đến vấn đề này, từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục để nhân dân thực sự được tham gia vào hoạt động quản lí nhà nước.
C. KẾT LUẬN
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước là nguyên tắc quan trọng, có ý nghĩa khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước. Nó xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước. Ðiều này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế cũng phải nhận thấy rằng, sự tham gia của người dân vào quá trình này vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Từ đó đòi hỏi các cơ quan chức năng cần hoạt động hiệu quả hơn nhằm đảm bảo và khuyến khích nhân dân lao động tham gia vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước để xây dựng “đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3 Hiến pháp năm 1992(sửa đổi bổ sung năm 2001)).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành c.doc