Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính
Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới góc độ pháp lý nguyên tắc là những tư tưởng chỉ đạo bắt nguồn từ bản chất của chế độ được quy định trong pháp luật tạo thành cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong các khâu của quá trình quản lý nhà nước. Những nguyên tắc pháp lý nói chung và nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước nói riêng chủ yếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nó mang tính khoa học ổn định. Những nguyên tắc này được xây dựng và được rút ra từ cuộc sống trên cơ sở nghiên cứu những quy luật khách quan và cơ bản của đời sống xã hội do đó nó phản ánh sâu sắc những quy luật phát triển khách quan đó. Những nguyên tắc cơ bản không phải là những nguyên tắc đó mà nó bất đi bất dịch. Trái lại sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước gắn liền quá trình phát triên của xã hội, những nguyên tắc sẽ được sửa đổi bổ xung cho phù hợp quy luật phát triển .Một trong những nguyên tắc cơ bản về quản lý hành chính nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ theo nội dung của nguyên tắc này.
Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong phần giải quyết vấn đề dưới đây, em xin đi “Phân tích nguyên tắc tập trung - dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3085 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới góc độ pháp lý nguyên tắc là những tư tưởng chỉ đạo bắt nguồn từ bản chất của chế độ được quy định trong pháp luật tạo thành cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong các khâu của quá trình quản lý nhà nước. Những nguyên tắc pháp lý nói chung và nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước nói riêng chủ yếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nó mang tính khoa học ổn định. Những nguyên tắc này được xây dựng và được rút ra từ cuộc sống trên cơ sở nghiên cứu những quy luật khách quan và cơ bản của đời sống xã hội do đó nó phản ánh sâu sắc những quy luật phát triển khách quan đó. Những nguyên tắc cơ bản không phải là những nguyên tắc đó mà nó bất đi bất dịch. Trái lại sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước gắn liền quá trình phát triên của xã hội, những nguyên tắc sẽ được sửa đổi bổ xung cho phù hợp quy luật phát triển .Một trong những nguyên tắc cơ bản về quản lý hành chính nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ theo nội dung của nguyên tắc này.
Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong phần giải quyết vấn đề dưới đây, em xin đi “ Phân tích nguyên tắc tập trung - dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ.
1. Cơ sở pháp lí.
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001):
“Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
2. Nội dung nguyên tắc.
Nguyên tắc tập trung – dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Tập trung ở đây không phải tập trung toàn diện và tuyệt đối mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản nhất, chính yếu nhất và bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cấp dưới và đối tượng khác có khả năng thực hiện quyết định của trung ương căn cứ vào điều kiện thực tế của mình như là: nhân lực, điều kiện thiên nhiên, khoáng sản, các tiềm năng khác. Đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương và của cơ sở đó trong việc giải quyết những vấn đề này.Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật, thực hiện mệnh lệnh của cấp trên.
Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phue, cục bộ địa phương. Trong điều kiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cần khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh té thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp 1992 - sửa đổi bổ sung năm 2001)
Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương.
Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là một ví dụ. Hương ước không thể được "lập ra" ở cấp huyện, cấp mà có thể có rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau.
Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể như sau:
– Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vảo cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định:
“Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
+ Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
+ Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực - cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
– Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động.
+ Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
+ Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước.
+ Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được “thẩm quyền cấp mình”. Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới.
– Việc phân cấp quản lí
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, điều này chỉ thực sựu được thực hiện khi việc phân cấp quản lí đảm bảo được những yêu cầu sau:
+ Việc phân cấp quản lí phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
+ Phải mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phuong và cơ sở.
+ Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới.
– Hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện “dân là gốc” trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
– Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
VD: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.
Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.
VD: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ.
II. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Nguyên tắc tập trung – dân chủ quy định việc quản lý nhà nước một cách tập trung, nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan hành chính được phân định rõ ràng, quản lý hành chính cao nhất là Chính phủ, phía dưới có các cơ quan hành chính ở địa phương với thẩm quyền giảm dần. Chính phủ quản lý hành chính một cách tập trung, chỉ đạo và điều hành thống nhất hệ thống các cơ quan hành chính. Không chỉ phụ thuộc vào cơ quan hành chính cấp trên, sự phụ thuộc của cơ quan hành chính vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp đã tạo nên cơ chế quản lý đan xen, hai chiều, đảm bảo hiệu quả quản lý.
Tập trung là một thuộc tính quản lý quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, song nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước ta nói riêng không áp dụng sự tập trung độc đoán hay tập trung quan liêu mà là tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính. Sự tập trung đó rất xa lạ với tập trung quan liêu, tách rời bộ máy nhà nước với nhân dân. Đúng như V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự. Tập trung trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải mang tính dân chủ chứ không phải tập trung độc đoán, tập trung quan liêu.
Tập trung và dân chủ có khác biệt nhưng thống nhất với nhau thành một chỉnh thể, một nguyên tắc có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước: nguyên tắc tập trung – dân chủ. Xa lạ với dân chủ là quan liêu, chuyên chế, độc đoán chứ không phải tập trung; và xa lạ với tập trung là phân tán, tản mạn, cục bộ, tự do vô Chính phủ chứ không phải dân chủ.
Ngày nay, nước ta đang từng bước hội nhập với thế giới, chúng ta đang dồn toàn bộ sức lực vào việc phát triển kinh tế. Cùng với những thuận lợi, chúng ta đã và đang gặp phải không ít khó khăn, thách thức, trong đó giữ vững sự ổn định chính trị cũng như định hướng XHCN là việc không đơn giản. Để vượt qua được khó khăn này, chúng ta sẽ phải thực hiện tốt hoạt động quản lý nhà nước, trong đó có quản lý hành chính; song song với việc thực hiện đúng, vận dụng tốt nguyên tắc tập trung – dân chủ trở thành vấn đề tiên quyết.
KẾT LUẬN
Là nguyên tắc cơ bản và cần thiết trong hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nên cần phải có sự hiểu biết và vận dụng phù hợp nguyên tắc tập trung – dân chủ trong điều kiện của từng thời kì là điểm quyết định với sự thành công trong công tác xây dựng nền dân chủ XHCN và hoạt động quản lý hành chính nhà nước của chúng ta.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam. NXB Công an nhân dân Hà Nội – 2008.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001).
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường ĐH Luật HN, Nxb Công an nhân dân Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn học kì môn luật hành chính- Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận .doc