Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤCA-LỜI MỞ ĐẦU: 1.B-NỘI DUNG :I, Nguyên tắc tập trung dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc : 1-6.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ và mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam : .1-2.2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước: 2-6.II, Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay : 6-8.III, Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ : 9-10.C-KẾT LUẬN: . 10.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11.

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5441 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A-LỜI MỞ ĐẦU: Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này em xin chọn đề bài “Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. B-NỘI DUNG : I, Nguyên tắc tập trung dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc : 1. Nguyên tắc tập trung dân chủ và mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam : Tập trung - dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được quy định ngay từ Hiến pháp 1959 (Điều 4), Hiến pháp 1980 (Điều 6) và nay được quy định tại Điều 6-Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa bắt nguồn từ yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước vừa bắt nguồn từ bản chất của giai cấp Nhà nước trong quá trình quản lý Nhà nước, quản lý xã hội đòi hỏi phải có sự tập trung quyền lực, có tập trung quyền lực mới quản lý được xã hội, mới thiết lập được một trật tự xã hội nhất định. Tập trung quyền lực là cần thiết tuy nhiên phải dân chủ với nhân dân vì Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn tới tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trương định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 5 Hiến pháp 1992(sửa đổi, bổ sung năm 2001)). 2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước : a, Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp : Hiến pháp của Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực đó. Điều 6- Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) đã quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương, các uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lý hành chính ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như bộ, cơ quan ngang bộ,…) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lời ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Bên cạnh đó yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. b, Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương : Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn tới việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự phục tùng ở đây không phải sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước; phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động…để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới. c, Việc phân cấp quản lý : Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình. Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm bảo được những yêu cầu sau đây : - Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hoà của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc. - Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở. - Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở những quy định của pháp luật. Phân cấp quản lý giữa các cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xa hội, trình độ phát triển đồng đều về kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin, liên lạc, các yếu tố về dân tộc, trình độ dân trí, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ở địa phương và cơ sở…Do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lý cần phải có sự cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, hợp lý, tránh đưa ra những quyết định mang tính chung chung, tuỳ tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lý bao giờ cũng phải thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền. VD : Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Nghị định số 178/2007/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang bộ,… d, Hướng về cơ sở : Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động. Do vậy trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hoá – xã hội hoàn thành tốt công việc của mình. Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hoá – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Các đơn vị văn hoá – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà nước quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. Song song với những việc làm nêu trên, Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất, chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hoá – xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng của Nhà nước. e, Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nuớc ở địa phương : Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ở địa phương, uỷ ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân (sửa đổi) quy định uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra …Kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân phải được chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn và uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất. Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích chung của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ. II, Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay : 1. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước : Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của mình trên tất cả các lĩnh vực đã được phân công. Nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Dựa trên biểu hiện cụ thể ở hoạt động tổ chức quản lý nhà nước các nguyên tắc trong quản lý nhà nước thường được chia thành hai nhóm: Các nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật. Nguyên tắc tập trung dân chủ thuộc nhóm các nguyên tắc chính trị - xã hội. Đây là nhóm các nguyên tắc chung, được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây là các nguyên tắc thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp của nhà nước. Nhóm này bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Bởi hoạt động quản lý hành chính nhà nước cần đảm bảo sự tập trung quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật một cách thống nhất đồng thời đảm bảo việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý để phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Nguyên tắc tập trung dân chủ đáp ứng được tất cả những điều đó. Và khi vận dụng vào hoạt động thực tiễn, nguyên tắc giúp cho công tác quản lý hành chính nhà nước đạt được hiệu quả tốt trong việc tăng trưởng hoạt động của quản lý hành chính nhà nước. 2. Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân hoàn thiện hơn: Hiến pháp của Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực đó. Điều 6- Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) đã quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Vậy nên người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lý hành chính nhà nước. Nhưng hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp quản lý trong việc thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Chưa xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp, tập thể, cá nhân với nhiệm vụ được phân cấp. Mà chỉ dừng lại ở quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cho cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước mà không quy định cụ thể về trách nhiệm của họ khi thực thi công vụ. Nên cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân – dân chủ phải gắn trách nhiệm với từng cá nhân cụ thể trong công việc nhất định. 3. Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ tạo sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý hành chính nhà nước : Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ tạo sự nhịp nhàng ăn khớp giữa các cơ quan, ngành, khối trong toàn xã hội mà vẫn đảm bảo để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình tạo sức mạnh tổng hợp cho toàn bộ đất nước. Vấn đề này thể hiện rõ trong phân cấp quản lý hành chính. Chính phủ xây dựng Đề án phân cấp và thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban về phân cấp với cơ quan các tỉnh để địa phương chịu trách nhiệm trước Chính phủ và pháp luật về kết quả quản lý công việc được giao. Qua quá phân cấp phương thức tổ chức hoạt động của cơ quan trung ương có nhiều đổi mới. Do không còn tham gia vào giải quyết những công việc mang tính sự vụ, công việc mà địa phương có thể giải quyết khi được phân cấp nên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có nhiều thời gian giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược trong hoạt động quản lý, điều hành. Mặt khác tăng cường trách nhiệm cá nhân cho các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và những người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới trong việc thực thi nhiệm vụ. Phương thức hoạt động chỉ đạo điều hành của Chính phủ chuyển biến tích cực theo chức năng quản lý hành chính nhà nước trong cơ chế thị trường hiện nay. Đồng thời các quyết định phân cấp cho cơ quan cấp dưới góp phần tháo gỡ khó khăn, làm nhẹ công việc cho cấp trên, góp phần giải quyết công việc nhanh hơn, sát với thực tế ở địa phương hơn và hiệu quả hơn tạo điều kiện thực hiện cơ chế “một cửa” trong các cơ quan hành chính, nhờ đó phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ quan địa phương phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan địa phương các cấp so với trước đây có sự gia tăng, mở rộng; từ đó tự chủ được nhiều công việc trước đây luôn trông chờ vào các cơ quan trung ương. III, Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ : Thứ nhất: Phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp quản lý trong việc thực hiên chức năng quản lý hành chính nhà nước, các mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa các cấp với nhau, tinh gọn tổ chức, bộ máy và biên chế; khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trước mắt, tiến hành thật tốt việc xây dựng củng cố bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở có hiệu lực và ngang tầm với nhiệm vụ mới đặt ra. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền các cấp trên tất cả các lĩnh vực của đất nước, nhất là những lĩnh vực còn hạn chế, yếu kém. Tiếp tục xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Thực hiện phân cấp mạnh hơn cho các cơ quan hành chính cấp dưới đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát. Tiếp tục sắp xếp bộ máy cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương theo hướng giảm số lượng, tăng chất lượng. Cần phải nắm chắc và đúng về thực trạng số lượng, chất lượng đội ngũ viên chức, cán bộ trong các cơ quan Nhà nước, gắn với chức năng, nhiệm vụ của nó. Sau đó phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng nhân viên. Bộ máy hành chính nhà nước phải được tổ chức một cách hợp lý, không có bộ phận thừa, bộ phận thiếu, chồng chéo, trùng lặp về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ phận; phải chọn lựa và đào tạo những nhân viên Nhà nước có chất lượng, phẩm chất và đạo đức tốt thì nhân dân mới tín nhiệm, tin cậy họ. Thứ hai: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính. Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, chính sách tài chính công, xây dựng Chính phủ điện tử và từng bước hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước. Thứ ba: Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục kiện toàn bộ máy Chính phủ, nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô nhất là chất lượng xây dựng thể chế, quy hoạch, nâng cao dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay Thứ tư: Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ tham gia quản lý xã hội nói chung và quản lý hành chính nói riêng, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan. Chính quyền các cấp hàng tuần phải tổ chức tiếp xúc dân ở khu vực hoạt động của mình để nghe ý kiến dân phản ánh và kịp thời có biện pháp giải quyết Thứ năm: Đổi mới và thực hiện cơ chế "một cửa" không gây khó khăn phiền hà, sách nhiễu với dân; xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các cơ quan và cán bộ, công chức để tạo ra bước chuyển rõ nét trong việc giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân, đặc biệt là những khiếu nại về tệ nạn quan liêu, cửa quyền, tham ô, tham nhũng tác động xấu đến sự phát triển của đất nước. Thứ sáu: Phát huy tập trung dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mọi tổ chức và cá nhân. Hiện nay, có tình hình đáng lo ngại là: tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn hoặc chỉ nói mà không làm. Một số cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật và Điều lệ Đảng chưa được xử lý thật kiên quyết. Cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước không chấp hành nghiêm kỷ luật, sự điều hành và các quy định của cấp trên, thậm chí vi phạm pháp luật thì khó lòng đòi hỏi người dân chấp hành nghiêm pháp luật. C-KẾT LUẬN: Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nếu hoạt động quản lý hành chính nhà nước thực hiện tốt theo đúng nguyên tắc thì sẽ tạo hiệu quả lớn còn không thì sẽ gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hoà với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chủ trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước kém hiệu quả. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, trường Đại học luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân, 2008. 2. Giáo trình Luật hiến pháp, trường Đại học luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân, 2006. 3. Luật Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. 4. Sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý của nhà nước – PTS. Nguyễn Tiến Phồn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nguyên tắc này trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan