Phân tích, nhận xét các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Tư pháp quốc tế là một ngành khoa học pháp lý mới mẻ và phức tạp ở Việt Nam. Tính phức tạp của nó thể hiện ở tính chất các vấn đề pháp lý không chỉ liên quan đến nhiều chuyên ngành của pháp luật quốc gia mà còn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật các nước khác trên thế giới.
Chủ thể của tư pháp quốc tế là các cơ quan cá nhân tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lí cũng như khả năng tự chịu trách nhiệm pháp lí phát sinh từ hành vi do mình thực hiện. Và Người nước ngoài- được coi là một trong số những chủ thể cơ bản của tư pháp quốc tế. Để giải quyết xung đột pháp luật về chủ thể này, các nước sở tại thường quy định những chế độ pháp lí cho người nước ngoài trong hệ thống pháp luật cụ thể của mỗi quốc gia. Bài tiểu luận dưới đây sẽ phân tích, nhận xét các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài một cách rõ ràng. Từ đó giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chủ thể cơ bản này của tư pháp quốc tế.
B. NỘI DUNG.
Khái niệm “ người nước ngoài” trong tư pháp quốc tế được hiểu là người nước khác đang cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia xác định ( nước sở tại) là người không có quốc tịch của quốc gia đó và là chủ thể quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Trong pháp luật tùy vào quan hệ giữa các quốc gia cũng như từng lĩnh vực cụ thể các quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài ( kể cả pháp nhân nước ngoài) có thể được xây dựng trên nguyên tắc, chế độ pháp lý sau: chế độ đãi ngộ như công dân, chế độ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ đặc biệt; ngoài ba chế độ chính nêu trên còn có chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc.
I. Cơ sở pháp lý.
II. Các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài.
1.Chế độ đãi ngộ như công dân (NT – National Treatment).
2. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
3. Chế độ đãi ngộ đặc biệt dành cho người nước ngoài:
4. Chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc:
C. Kết Luận.
Tóm lại, khi xây dưng các chế độ pháp lí dành cho người nước ngoài, mỗi quốc gia cần tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên. Đó chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ mà người nước ngoài được hưởng, phù hợp với quy định của pháp luật nước sở tại.
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8997 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích, nhận xét các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Tư pháp quốc tế là một ngành khoa học pháp lý mới mẻ và phức tạp ở Việt Nam. Tính phức tạp của nó thể hiện ở tính chất các vấn đề pháp lý không chỉ liên quan đến nhiều chuyên ngành của pháp luật quốc gia mà còn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật các nước khác trên thế giới. ThS. Bùi Thị Thu ( chủ biên) Giáo trình luật tư pháp quốc tế nxbGD, 2010
Chủ thể của tư pháp quốc tế là các cơ quan cá nhân tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lí cũng như khả năng tự chịu trách nhiệm pháp lí phát sinh từ hành vi do mình thực hiện. Và Người nước ngoài- được coi là một trong số những chủ thể cơ bản của tư pháp quốc tế. Để giải quyết xung đột pháp luật về chủ thể này, các nước sở tại thường quy định những chế độ pháp lí cho người nước ngoài trong hệ thống pháp luật cụ thể của mỗi quốc gia. Bài tiểu luận dưới đây sẽ phân tích, nhận xét các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài một cách rõ ràng. Từ đó giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chủ thể cơ bản này của tư pháp quốc tế.
B. NỘI DUNG.
Khái niệm “ người nước ngoài” trong tư pháp quốc tế được hiểu là người nước khác đang cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia xác định ( nước sở tại) là người không có quốc tịch của quốc gia đó và là chủ thể quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Trong pháp luật tùy vào quan hệ giữa các quốc gia cũng như từng lĩnh vực cụ thể các quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài ( kể cả pháp nhân nước ngoài) có thể được xây dựng trên nguyên tắc, chế độ pháp lý sau: chế độ đãi ngộ như công dân, chế độ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ đặc biệt; ngoài ba chế độ chính nêu trên còn có chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc.
I. Cơ sở pháp lý.
Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, tất cả các cá nhân cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định, dù là công dân nước đó, công dân nước ngoài hay người không quốc tịch đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia sở tại. Nói cách khác, mỗi nước có thẩm quyền riêng biệt trong việc xác định chế độ pháp lý cho các bộ phận dân cư sinh sống trên lãnh thổ của mình. Chế độ pháp lý dành cho các bộ phân dân cư là không đồng nhất. Sự khác biệt này được lý giải bởi mối quan hệ quốc tịch giữa các cá nhân với quốc gia sở tại. Nói cách khác , các cá nhân có quốc tịch khác nhau thì sẽ có chế độ pháp lý khác nhau.
Tuy nhiên các quốc gia đều bình đẳng với nhau về mặt chủ quyền nên việc quy định chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài được giải quyết theo nguyên tắc phân biệt đối xử và trên cơ sở có đi có lại. Trong quan hệ dân sự quốc tế này có ý nghĩa xác lâp chế độ pháp lý ngang bằng, không phân biệt đối xử của người nước ngoài trong mối quan hệ với công dân nước sở tại và với công dân nước ngoài khác trên lãnh thổ quốc gia sở tại. Trên thực tế, các quốc gia thỏa thuận loại bỏ dần các rào cản về kinh tế- thương mại, kể cả rào cản về pháp lý để thúc đẩy tốc độ phát triển của các giao lưu dân sự- thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho việc thiết lập các cơ hội làm ăn trao đổi thương mại, đầu tư, luân chuyển tài sản… diễn ra trên lãnh thổ quốc gia ở phạm vi liên kết khu vực và trên toàn cầu.
Mặt khác trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến người nước ngoài chỉ có thể giải quyết hiệu quả trên cơ sở các điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia hữu quan như địa vị pháp lí của những người hưởng quy chế ngoại giao lãnh sự, người hai quốc tịch… Chính vì vậy, khi xây dựng các chế độ pháp lí dành cho người nước ngoài, mỗi quốc gia cần tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên. Đó chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ mà người nước ngoài được hưởng, phù hợp với quy định của pháp luật nước sở tại.
II. Các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài.
1.Chế độ đãi ngộ như công dân (NT – National Treatment).
Đây là chế độ được thể hiện phổ biến trong luật pháp của đông đảo các quốc gia trên thế giới. Nội dung cơ bản của chế độ này được hiểu như sau: Chế độ cho phép người nước ngoài được hưởng các quyền cũng như thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền và nghĩa cụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai (trừ những ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể).
Có thể nói chế độ đãi ngộ như công dân đã thể hiện được mối quan hệ giữa người nước ngoài với công dân nước sở tại. Thể hiện được mối quan hệ bình đẳng về hưởng quyền và nghĩa vụ giữa người nước ngoài với công dân nước sở tại. Và hơn thể nữa chế độ đãi ngộ như công dân cũng thể hiện việc tôn trọng nhân quyền của pháp luật nước sở tại dành cho những người không phải công dân nước mình
Thông thường người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự, lao động, thương mại và văn hóa như công dân nước sở tại. Tuy nhiên trong một số quan hệ xã hội, người nước ngoài có quyền hạn chế hơn thậm chí không được hưởng các quyền mà công dân nước sở tại được hưởng: Ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử, quyền theo học ở các trường an ninh, quân sự, quyền cư trú, quyền hành nghề,… Những quy định này rất phổ biến trong pháp luật các nước, sở dĩ quy định như vậy là để bảo vệ lợi ích và an ninh của quốc gia. Bởi vậy khi người nước ngoài được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân thì vấn đề xác định chế độ pháp lý của người nước ngoài tại quốc gia sở tại phụ thuộc vào vấn đề xác định chế độ pháp lý của công dân sở tại và những vấn đề hạn chế về quyền của người nước ngoài so với công dân nước sở tại ở nước đó. Những hạn chế như vậy đối với người nước ngoài khác nhau cũng không giống nhau, ví dụ như quy định đối với người nước ngoài định cư và người nước ngoài không định cư. Tuy nhiên nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế, những hạn chế đó chỉ được coi là chấp nhận khi nó không làm phương hại đến các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền (ví dụ như những hạn chế đó không được dựa trên cơ sở phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo,…).
Chế độ đãi ngộ quốc gia thường được quy định trong luật pháp các nước, ở Việt Nam, theo quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về Chính sách với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam tại Điều 7 và Điều 8 quy định: “ Người nước ngoài định cư ở Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân đối với sở hữu cá nhân về thu nhấp hợp pháp và tư liệu sinh hoạt và các quan hệ kế thừa đối với các tài sản trên”. Khoản 2 Điều 761 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định: “2. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác.”
Ngoài ra chế độ đãi ngộ như công dân còn được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương như là các nguyên tắc pháp luật quốc tế nhằm bảo hộ pháp lý cho công dân các nước hữu quan làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ của nhau. Ví dụ như trong Hiệp định tương trợ tư pháp (03/10/1986) về vấn đề dân sự, gia đình, hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chư nghĩa Việt Nam với nươc Cộng hòa nhân sân Bungari quy định tại khoản 1 Điều 1: “Công dân nước ký kết này được hưởng trên lãnh thổ nước ký kết kia sự abor hộ pháp lý về quyền nhân thân và quyền tài sản mà nước ký kết kia dành cho công dân nước mình”; Khoản 1, Điều 1 Hiệp định về tương trợ tư pháp pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga ngày 25/08/1998);… Trong các điều ước quốc tế đa phương như các công ước về quyền sở hữu trí tuệ: Công ước Berne 1952 về bảo hộ quyền tác giả, Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, mà nội dung cơ bản của công ước này đều lấy nguyên tắc đãi ngộ công dân làm nền tảng bảo hộ trên cơ sở có đi có lại.
Tuy nhiên, cũng như những quốc gia khác, chế độ đãi ngộ quốc gia của Việt Nam giành cho người nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định nhằm bảo đảm lợi ích và an ninh quốc gia. Lấy thí dụ như vấn đề sở hữu và thừa kế tài sản, Người nước ngoài được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân, có quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trong đó có quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác với tài sản theo Điều 761, Điều 766, Điều 767 Bộ Luật dân sự 2005. Tuy nhiên đối với tài sản là bất động sản ở Việt Nam người nước ngoài chỉ được hưởng một số quyền nhất định hạn chế hơn so với công dân Việt Nam theo Khoản 2 Điều 9 và khoản 1,2 Điều 125 Luật nhà ở 2005. PHỤ LỤC
Ngoài ra, người nước ngoài có thể được được mua, nhận, tặng cho và sở hữu nhà ở tại Việt Nam nếu thuộc các đối tượng được quy định tại Điều 2, Nghị quyết số 19/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về việc thí điểm cho tổ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Như vậy, chế độ đãi ngộ quốc gia là cơ sở để xác đinh năng lực pháp luật của người nước ngoài tại nước sở tại.
2. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc ( MFN – Most Favoured Nation ) là chế độ theo đó một nước dành cho công dân và pháp nhân của nước kia những quyền và ưu đãi đang hoặc sẽ dành cho công dân và pháp nhân của một nước thứ ba.
Khác với chế độ đãi ngộ quốc gia, chế độ đãi ngộ tối huệ quốc được áp dụng chủ yếu trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại và hàng hải. Chế độ tối huệ quốc dành riêng cho công dân và pháp nhân nước này hay nước kia cần phải được quy định rõ ràng và cụ thể trong các hiệp đinh quốc tế (thông thường là trong các hiệp định về thương mại và hàng hải, hiệp định thuế quan và mậu dịch, hiệp định vầ thị trường chung hay thị trường tự do…)
Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất là công dân nước ngoài được quốc gia sở tại dành cho sự đối xử đặc biệt, bao gồm các quyền ưu đãi
Thứ hai, sự đối xử trên sẽ không kém thuận lợi hơn đối xử mà nước sở tại dành cho công dân của một nước thứ ba.
Ví dụ: Thuế nhập khẩu linh kiện xe máy vào Việt Nam được áp dụng ở mức 50%. Sau đó, Việt Nam kí kết hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản, quy định mức thuế đối mới đối với linh kiện xe máy nhập từ nhật bản là 30%. Khi đó nếu trong hiệp định về thuế giữa Việt Nam và Trung Quốc có quy định về việc hai bên giành cho nhau chế độ tối huệ quốc thì lúc này, mức thuế nhập khẩu đối với linh kiện xe máy từ Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tự động và ngay lập tức được điều chỉnh xuống còn 30%.
Theo chế độ tối huệ quốc thì công dân nước ngoài cũng như pháp nhân nước ngoài được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc đang hoặc sẽ dành cho công dân, pháp nhân của bất kì một nước khác. Như vậy, chế độ tối huệ quốc đảm bảo bình đẳng giữa các quốc gia. Điều này thể hiện ở việc một quốc gia dành cho công dân cũng như pháp nhân của các nước các điều kiện và cơ hội ngang nhau trong thương mại, hàng hải và và các quan hệ kinh tế khác nữa, đồng thời xóa bỏ mọi sự kì thị, phân biệt đối xử với các lí do khác nhau trong hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, chế độ tối huệ quốc trong các hiệp định quốc tế còn củng cố và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế thương mại và các quan hệ toàn diện khác giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc mà nước sở tại dành cho công dân và pháp nhân nước ngoài luôn trên cơ sở các thỏa thuận quốc tế giữa các nước hữu quan mà không có nghĩa là chế độ phổ cập đương nhiên mà nước sở tại dành cho công dân, pháp nhân nước khác. Đồng thời, việc áp dụng chế độ tối huệ quốc cũng có thể có các ngoại lệ nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như các giá trị truyền thống của dân tộc.
Ở Việt Nam áp dụng chế độ tối huệ quốc trong những trường hợp sau: (1) Pháp luật Việt Nam có quy định về áp dụng đối xử tối huệ quốc; (2) Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định áp dụng đối xử tối huệ quốc; (3) Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng đối xử tối huệ quốc đối với Việt Nam (4) Các trường hợp khác do chính phủ quy định. Tuy nhiên chế độ tối huệ quốc được ghi nhận trước hết và chủ yếu trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam làm thành viên .
Tính cho đến giữa năm 2007, Việt Nam đã ký hơn 50 hiệp định đầu tư song phương với các quốc gia khác nhau. Ngoài ra,Việt Nam cũng ký kết Hiệp định thương mại song phương với Mỹ (2001) mà những cam kết liên quan đến đầu tư là một phần trong hiệp định này. Là một phần trong các thỏa thuận đầu tư quốc tế này, những quy định liên quan đến đối xử tối huệ quốc của Việt Nam không có một khuôn mẫu thống nhất và thường nằm rải rác trong nhiều điều khoản khác nhau. Mong muốn tạo sự thống nhất trong cách hiểu, quy định và áp dụng chuẩn mực đối xử này, năm 2002, Việt Nam đã đưa ra "Pháp lệnh 41/2002/PL-UBTVQH về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Theo đó Việt Nam qui định các lĩnh vực mà chế độ tối huệ quốc áp dụng là: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ. Cho đến nay, Pháp lệnh này vẫn là văn kiện pháp lý cơ bản và toàn diện nhất, thể hiện thiện chí của Việt Nam, trong việc mong muốn việc cải thiện môi trường pháp lý tốt hơn.
3. Chế độ đãi ngộ đặc biệt dành cho người nước ngoài:
Theo chế độ này, người nước ngoài được hưởng các quyền và ưu đãi đặc biệt mà chính công dân của nước sở tại cũng không được hưởng. Đồng thời, người nước ngoài cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý mà công dân nước sở tại phải gánh chịu trong các trường hợp tương tự.
Cơ sở: Người nước ngoài chỉ được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt này trên cơ sở pháp luật quốc gia của nước sở tại hoặc điều uốc quốc tế mà nước này tham gia. Trên thực tế, cấc chế độ đãi ngộ đặc biệt này thường được áp dụng trong các quan hệ về ngoại giao - quan hệ lãnh sự:
Theo điều 29 Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao thì nhân viên ngoại giao của nước ngoài ở nước sở tại được hưởng chế độ đặc biệt: "Thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất cứ hình thức nào. Nước tiếp nhận cần có sự đối xử trọng thị xứng đáng với họ và áp dụng mọi biện pháp thích đáng để ngăn chặn mọi hành vi xúc phạm đến thân thể, tự do hay phẩm cách của họ." Có thể thấy, nhân viên ngoại giao sẽ không bị bắt hoặc bị giam giữ tại nước sở tại dưới bất kỳ hình thức nào. Đây là chế độ đãi ngộ đặc biệt mà các nước tham gia công ước áp dụng cho nhân viên ngoại giao nước ngoài và công dân của nước sở tại sẽ không thể được hưởng quyền này.Hơn nữa, chế độ đãi ngộ đặc biệt này còn quy định viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự của Nước tiếp nhận, họ cũng được hưởng quyền miễn trừ xét xử về dân sự và hành chính, trừ những trường hợp họ thực hiện với tư cách cá nhân hoặc ngoài phạm vi hoạt động của họ. Ngoài ra họ còn thể không bắt buộc phải ra làm chứng. Những quy định về chế độ đãi ngộ đặc biệt này nhằm mục đích tạo cho một hoặc một số cá nhân nước ngoài ở nước sở tại dễ dàng thực hiện các công việc chuyên môn nghiệp vụ và nước sở tại cảm thấy việc này là có lợi cho mình trong quan hệ quốc tế.
Bên cạnh với việc được hưởng những chế độ đặc biệt, công dân nước ngoài còn có nghĩa vụ tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của nước sở tại. Trong trường hợp vi phạm pháp luật họ có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật nước sở tại hoặc theo các điều ước quốc tế hữu quan mà nước này tham gia. Việc này nhằm đảm bảo chủ quyền và các lợi ích chính đáng của nước sở tại khi bị xâm hại.
4. Chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc:
4.1 Chế độ có đi có lại:
Nội dung cơ bản của chế độ có đi có lại thể hiện ở chỗ là một quốc gia dành một chế độ pháp lý nhất định cho thể nhân và pháp nhân nước ngoài tương ứng như nước đó đã dành và sẽ dành cho công dân nước ngoài tương ứng như nước đó đã dành và sẽ dành cho công dân và pháp nhân của mình ở đó trên cơ sở có đi có lại.
Chế độ có đi có lại thường được ghi nhận trong các điều ước quốc tế bởi lẽ các quốc gia muốn bảo đảm quyền và lợi ích của công dân và pháp nhân của nước mình ở nước ngoài
Phân loại:
+ Có đi có lại thực chất: đươc hiểu là một nước dành cho thể nhân và pháp nhân nước ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng những quyền và nghĩa vụ giống như ưu đãi thực tế mà các thể nhân, pháp nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia. Quy định trên đôi khi mới chỉ được áp dụng ở những nước có cùng chế độ kinh tế - chính trị - xã hội.
+ Có đi có lại hình thức: được thể hiện ở chỗ một nước dành cho thể nhân và pháp nhân nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định như chế độ đãi ngộ như công dân hoặc chế độ tối huệ quốc mà ở nước ta đã giành cho công dân và pháp nhân nước mình một chế độ tương ứng như thế. Quy định trên được áp dụng rất hữu hiệu giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Thực tiễn chế độ có đi có lại cho công dân nước ngoài ở Việt Nam
- Có đi có lai hình thức cho công dân nước ngoài ở Việt Nam Hiện nay, trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước chúng ta thường áp dụng chế độ có đi có lại hình thức là phù hợp nhất. (tức là người nước ngoài được hưởng các quyền và gánh chịu nghĩa vụ dân sự và lao động như công dân Việt Nam, họ có thể được hưởng các quyền mà ngay chính nước họ cũng không được hưởng ) (Bình đẳng giữa nam và nữ trong quan hệ gia đình mà ở một số nước không có). Mặt khác, người nước ngoài cũng không thể đòi hỏi các quyền mà trước đây họ được hưởng ở nước mình, thì nay cũng được hưởng ở Việt Nam (như quyền sở hữu với đất đai).
Có thể dẫn một ví dụ khá cụ thể để thấy rõ hơn trong trường hợp này. Ở các nước tư bản phát triển quy định chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai, điền thổ còn ở Việt Nam đất đai, điền thổ thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Như vậy, ở nước ta không thể dành cho công dân Pháp hoặc Mỹ quyền sở hữu đối với đất đai, điền thổ như là ở nước họ đang được hưởng, còn công dân Việt Nam ở Pháp hoặc Mỹ được quyền sở hữu đất đai, điền thổ như công dân Pháp hoặc Mỹ; quyền này chính tại Việt Nam thì công dân Việt Nam cũng không có quyền đó. Ở đây, giữa Việt Nam và Pháp hoặc Mỹ đã áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân trên cơ sở có đi có lại hình thưc.
Như vậy, xuất phát từ sự khách nhau giữa Việt Nam và quốc gia về điều kiện kinh tế và xã hội, mà chúng ta đã lựa chọn và quy định cho công dân nước ngoài tại Việt Nam được hưởng những quyền và gánh chịu những nghĩa vụ pháp lý nhất định vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà còn có thể đảm bảo quyền và lợi ích nhất định cho công dân Việt Nam ở nước ngoài.
4.2 Chế độ báo phục quốc
Chế độ báo phục quốc được áp dụng trên cơ sở chế độ có đi có lại và cùng xuất phát từ tinh thần có đi có lại nên vấn đề báo phục được đặt ra giữa các quốc gia. Báo phục được hiểu là các biện pháp trả đũa. Nếu như một quốc gia nào đó đơn phương sử dụng những biện pháp hoặc có hành vi gây thiệt hại hoặc có tổn hại cho quốc gia khác hay chính công dân hoặc pháp nhân của quốc gia khác thì chính quốc gia bị tổn hại đó hoặc công dân hay pháp nhân đó được phép xử dụng các biện pháp trả đũa như hạn chế hoặc có các hành động tương ứng đối phó hoặc đáp lại các hành vi của quốc gia đầu tiên đơn phương gây ra các thiêt hại đó. Tổng hơp các hành vi đối đáp lại đươc gọi là các biện pháp báo phục quốc hoàn toàn hợp pháp trên cơ sở có đi có lại. Thực tiễn Tư pháp quốc tế coi các quy định này như nguyên tắc tập quán trong quan hệ giữa các quốc gia.
Mục đích của nguyên tắc báo phục quôc là nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị vi phạm và giống như biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng. Chính vì thế, trong quan hệ giữa các chủ thể của tư pháp quốc tế, sự thỏa thuận rất được coi trọng cho nên các bên thường không áp dụng chế độ này.
C. Kết Luận.
Tóm lại, khi xây dưng các chế độ pháp lí dành cho người nước ngoài, mỗi quốc gia cần tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên. Đó chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ mà người nước ngoài được hưởng, phù hợp với quy định của pháp luật nước sở tại.
PHỤ LỤC: Luật nhà ở năm 2005.
Điều 9. Chủ sở hữu nhà ở và đối tượng được sở hữu nhà ở
1. Chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân tạo lập hợp pháp nhà ở; trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở cho họ.
2. Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân trong nước không phụ thuộc vào nơi đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú;
b) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài quy định tại Điều 126 của Luật này;
c) Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này.
Điều 125. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài
1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê tại Việt Nam được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở đó. Thời hạn được sở hữu nhà ở là thời hạn quy định trong Giấy chứng nhận đầu tư và được ghi rõ trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở để bán, sau khi hoàn thành việc xây dựng theo dự án, chủ đầu tư được quyền bán nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này. Người mua nhà ở của tổ chức, cá nhân quy định tại khoản này được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo quy định của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở để bán phải nộp tiền sử dụng đất và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà nội, 2007.
2, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội 2001.
3, Tailieu.Vn
4, Luật nhà ở 2005.
5. TS Bùi Thị Thu (chủ biên), Giáo trình luật tư pháp quốc tế, nxb Giáo Dục Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích, nhận xét các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài.doc