LỜI NÓI ĐẦU Đất đai là tài nguyên quý giá của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Ở nước ta, đất đai là tài sản của toàn dân, Nhà nước đại diện toàn dân thực hiện quyển quản lý tài sản này. Mọi hành vi sử dụng đất đều phải có nghĩa vụ thuế về đất đai.
Thuế về đất đai là một trong những loại thuế được các quốc gia trên thế giới quan tâm và xây dựng thành Luật, thể chế hóa chính sách quản lý của nhà nước đối với thuế về đất đai. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Quá trình thế chế hóa thành Luật thuế về đất đai là một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện về loại thuế này, để từ đó có thể ban hành những văn bản luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế đất đai.
Tuy nhiên quan hệ pháp luật về thuế luôn là quan hệ pháp luật phức tạp và luôn đòi hỏi phải thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Do đó, pháp luật điều chỉnh về nó cũng luôn phải có sự thay đổi cho phù hợp. Pháp luật thuế đất đai cũng thế, tuy nhiên, cũng chính vì yêu cầu đó mà trên thực tế, có lúc pháp luật không phù hợp với thực tiễn, nghĩa là có những bất cập, vướng mắc trong việc tiến hành áp dụng trên thực tế.
Nghiên cứu về vấn đề những bất cập của pháp luật thuế đất đai hiện hành và phương hướng hoàn thiện có ý nghĩa lớn về mặt lý luận cũng như thực tiễn. I. Khái quát pháp luật thuế về đất đai1
II. Những bất cập của pháp luật về thuế đất đai hiện hành. 2
1. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. 2
a. Khái quát về luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. 2
b. Một số hạn chế, bất cập. 3
2. Về Thuế nhà đất5
a. Khái quát chung về thuế nhà, đất5
b. Một số bất cập của pháp luật thuế nhà, đất7
3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thuế đất đai ở Việt Nam . 11
a. Đối với luật thuế sử dụng đất nông nghiệp. 11
b. Đối với pháp luật thuế nhà, đất13
Kết luận. 15
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái quát pháp luật thuế về đất đai
Thuế đối với đất đai là thuật ngữ hàm chỉ các loại thuế đánh vào việc sử dụng hoặc có quyền sử dụng và đánh vào hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng. Đối với một số quốc gia thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai thì thuế đối với đất đai còn có nghĩa là loại thuế đánh vào quyền sở hữu đất và hành vi chuyển nhượng quyền sở hữu đất.
Mỗi khi muốn đưa một loại thuế mới vào áp dụng trong thực tiễn cần phải tạo cơ sở pháp lý cho việc cưỡng chế thi hành. Thuế đối với đất đai không phải là một ngoại lệ. Để đánh thuế đối với đất đai, Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật về thuế đối với đất đai làm nền tảng pháp lý cho việc thực thi loại thuế này. Pháp luật thuế đối với đất đai có một vai trò quan trọng, giúp nhà nước quản lý hoạt động sử dụng đất, khuyến khích việc sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quản; đồng thời, luật thuế về đất đai cũng giúp cho hoạt động quản lý thuế của nhà nước đối với đất đai được tiến hành hiệu quả, bổ sung ngân sách nhà nước các khoản thuế về đất đai...
Ở nước ta, từ cuối năm 2003 trở về trước, thuế chuyển quyền sử dụng đất thu vào thu nhập có được từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Từ ngày 01/01 năm 2004 (ngày Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 có hiệu lực), loại thuế này chỉ thu vào thu nhập của các hộ gia đình và cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp. Các cơ sở kinh doanh chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên đến khi Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 ra đời và có hiệu lực từ năm 2009 thì quy định về thuế chuyển quyền sử dụng đất thu vào thu nhập của các hộ gia đình và cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp được đưa vào Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007.
Như vậy, kể từ khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 (hiện tại đã được thay thế bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008) và Luật thuế thu nhập cá nhân (2007) có hiệu lực thì mọi quy định về thuế chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh đã thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thuế thu nhập cá nhân và luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Có nghĩa rằng, hiện tại, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất không còn tồn tại nữa. Hiện nay, nguồn chủ yếu của pháp luật thuế đối với đất đai bao gồm:
- Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp thì có Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định 73/1993 quy định chi tiết về phân hạng đất, Nghị định 74/1993 quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993, thông tư 89/1993 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 74), trong đó đặc biệt lưu ý chế độ miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay được thực hiện theo Nghị quyết 55/2010 của Quốc hội (mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, và từ ngày 15 tháng 5 năm 2011 Nghị định số 20/2011/NĐ-CP quy định chi tiết Nghị quyết này sẽ có hiệu lực thi hành).
- Đối với thuế nhà, đất thì hiện nay nước ta đang áp dụng các văn bản: Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung pháp lệnh thuế nhà, đất 1994 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định 94/1994 quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất; Thông tư 83/1994 của Bộ tài chính hướng dẫn Nghị định 94 và Pháp lệnh thuế nhà đất). Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 01/01/2012, Luật thuế sử dụng đất Phi nông nghiệp được ban hành ngày 17/6/2010 có hiệu lực thì tất cả các văn bản trước đó về thuế nhà, đất chấm dứt hiệu lực.
Luật thuế đối với đất đai luôn được quan tâm xây dựng và hoàn thiện, trải qua nhiều năm biến đổi theo tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, Luật thuế đất đai đã trở thành một công cụ pháp lý không thể thiếu trong chính sách quản lý của Nhà nước ta đối với loại thuế về đất đai. Cho đến nay, luật thuế đất đai đã thể hiện những ưu điểm của mình trong việc thực hiện vai trò là một trong những công cụ quản lý thuế của nhà nước. Tuy nhiên một số quy định của nó cũng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu và hoàn thiện hơn. Sau đây em xin trình bày một số điểm bất cập cơ bản của Luật thuế về đất đai ở nước ta hiện nay:
II. Những bất cập của pháp luật về thuế đất đai hiện hành
1. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
Khái quát về luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
Theo quy định của Luật đất đai hiện hanh thì đất nông nghiệp bao gồm: Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thuỷ sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp là loại thuế thu vào việc sử dụng đât nông nghiệp hoặc việc được giao đất vào sản xuất nông nghiệp. Nói cách khác, loại thuế này đánh vào hành vi sử dụng đất nông nghiệp và hành vi không sử dụng đất nông nghiệp được giao. Trong trường hợp thứ hai thì thuế sử dụng đất nông nghiệp áp dụng cả với những chủ thể có quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng đất đó.
Theo quy định của luật thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành thì chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế là tổ chức và cá nhân (gọi chung là hộ nộp thuế) sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp đều phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, hộ được chuyển giao quyền sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế. Để xác định số lượng thuế sử dụng đất nông nghiệp mà hộ sử dụng đất nông nghiệp phải nộp cần phải dựa vào ba yếu tố: diện tích đất, hạng đất và định thuế suất tính bằng kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất; tuy nhiên trong trường hợp chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp có diện tích đất nông nghiệp được sử dụng vượt quá hạn mức còn phải nộp thuế bổ sung. Về chế độ miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2011 thực hiện theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 quy định về chế độ miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp và từ ngày 15 tháng 5 năm 2011 chế độ này có thêm sự điều chỉnh của Nghị định số 20/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 55/2010 do Chính phủ ban hành...
a. Một số hạn chế, bất cập
Ðể khuyến khích nông nghiệp phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, tăng vụ, chuyển đổi cây trồng có hiệu quả và tận dụng đất đai, khai thác đồi núi trọc, đầm lầy, bãi bồi, đất ở vùng cao miền núi...đưa vào sản xuất, từ khi Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 có hiệu lực thì điều khoản miễn, giảm thuế cho nông dân đã được triển khai thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, qua quá trình tổ chức thực hiện đã có những vấn đề cần được bổ sung, do đó Nhà nước tiếp tục những nghiên cứu, đánh giá và có những điều chỉnh về chế đố miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Giai đoạn 2003-2010, chế độ miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta được thực hiện theo Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003 của Quốc hội khóa XI. Sau hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết số 15/2003 đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra khi ban hành, như góp phần giảm bớt khó khăn, cải thiện đời sống, hỗ trợ nông dân có thêm vốn tái đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo đảm bình đẳng trong việc điều tiết thu nhập, góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số bất cập về đối tượng được miễn, giảm. Nhưng từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, ngày Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp có hiệu lực thì những hạn chế, bất cập trước đây về cơ bản được khắc phục. Quá trình thực hiện Nghị quyết này cũng đồng thời sẽ là quá trình thu thập, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng tình hình kinh tế - xã hội qua mỗi giai đoạn để có điều chỉnh về chế độ miễn, giảm thuế cho phù hợp với thực tiễn sau này. Tuy nhiên, Nghị quyết 55 lại quy định thời hạn miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đến 2020, nghĩa là thi hành trong vòng 10 năm tới. Theo em điều này là một bất cập, vì với sự phát triển, biến đổi khá nhanh chóng của tình hình kinh tế - xã hội hiện nay thì không ai có thể đảm bảo được chính sách miễn, giảm thuế không cần phải sửa đổi, bổ sung trong một thời gian dài 10 năm; đặc biệt là quy định về đối tượng miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Còn đối với luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 cũng còn một số vấn đề khác mà trong qua quá trình thực hiện cũng đã bộc lộ một số hạn chế:
Về thuế suất, luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 quy định: Định suất thuế một năm tính bằng kilôgam thóc trên 1 ha đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản như sau: đất hạng 1 thì định thuế suất là 550 kg/1ha, đất hạng 2: 460kg/1ha, đất hạng 3: 370kg/1ha, đất hạng 4: 280kg/1ha, đất hạng 5: 180kg/1ha, đất hạng 6: 50kg/1ha.
Qua thực tiễn đánh giá, với mức thuế suất 550 kilogam thóc trên 1 ha với đất hạng 1 như trên về cơ bản là khả thi đối với đất trồng cây hàng năm, vì trên thực tế, đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm thuộc đất hạng 1 thì các tiêu chí để đánh giá dễ thực hiện và thực hiện chính xác hơn các hạng đất khác, hơn nữa trên thực tế việc đánh giá đất thuộc hạng 1 thường là ở những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi về đất đai, hệ thông tưới tiêu đảm bảo (ví dụ như đất ở những vùng đồng bằng, có hệ thống sông ngòi, kênh rạch đầy đủ, đất đai được bồi đắp phù sa hàng năm...). Nên nông dân canh tác trên đất hạng 1 thường sau mỗi mùa vụ cho năng suất cao. Ví dụ: đối với đất trồng cây hàng năm là đất trồng lúa, theo thống kê của địa phương nơi em ở (xã Kim Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) năm 2008 thì nếu không gặp thiên tai đất hạng 1 thường cho mức từ 150 kg đến 250 kg thóc trên 1 sào. Tuy nhiên, đối với đất hạng 5 và hạng 6, trên thực tế ở một số vùng được đánh giá là loại đất không đạt tiêu chuẩn để có thể cho năng suất ở mức trung bình, thậm chí đối với đất trồng cây hàng năm thì còn có thể “mất trắng” sau mùa vụ. Nếu trên thực tế người nông dân canh tác trên loại đất hạng 5 và hạng 6 thì năng suất thu được không bao nhiêu. Chưa kể “mất trắng” thì không có thu hoạch trong khi đó có lúc mức thuế suất quy định trong luật vẫn áp dụng đối với người nông dân canh tác trên loại đất này. Như vậy, quy định của Luật về định thuế suất áp dụng vào điều kiện cụ thể đối với loại đất nông nghiệp trồng cây hàng năm (chủ yếu là đất trồng lúa) trong nhiều trường hợp không phù hợp với thực tế.
Về hạng đất tính thuế, hạng đất tính thuế được xếp hạng từ năm 1994 căn cứ vào năm yếu tố : chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện thời tiết, tưới tiêu. Nhưng đến nay một số các yếu tố đó đã trở nên không còn phù hợp trong tình hình hiện nay khi có chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiệu quả sử dụng đất thay đổi rất lớn như đất trồng nông nghiệp hàng năm xếp hạng 6 nay chuyển sang nuôi tôm, giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều (đạt từ 50-100 triệu đồng/ha) thì số thuế phải nộp quá thấp đối với hạng 6 đã chuyển sang nuôi tôm. Đến nay vẫn chưa được điều chỉnh kịp thời, thiếu sự hướng dẫn chi tiết cách phân loại hạng đất gây lúng túng trong việc tổ chức thực hiện.
Việc quy định phân hạng đất tại Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 về mặt hình thức là rất khoa học, tuy nhiên trên thực tế, việc phân hạng đất thường mang tính chất đối phó, áp đặt theo ý chí chủ quan của các cơ quan quản lý (ngay cả khi muốn tính toán chính xác để phân hạng thì điều kiện kỹ thuật, nhân lực, vật lực cũng còn nhiều hạn chế). Từ đó, có thể dẫn đến trường hợp xác định hạng đất nông nghiệp ở hai địa phương không đồng nhất mặc dù cùng trên một khu đất nên mức thuế áp dụng sẽ khác nhau. Hơn nữa, Thuế suất được tính bằng đơn vị kg thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất nhưng thu thuế tính bằng tiền theo giá thóc tại thời điểm thu thuế nên dẫn đến nếu cùng hạng đất thì số thuế nộp ở vùng này lại cao hơn ở vùng kia, thậm chí có lúc giá thóc ở miền núi cao hơn ở vùng đồng bằng.
Về thu thuế, nộp thuế: Luật thuế sử dụng đất nông nhiệp năm 1993 có quy định: thuế nộp mỗi năm từ 1 đến 2 lần theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây trồng ở từng địa phương; Nghị định 74/1993 quy định chi tiết thi hành luật thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định: thuế tính cả năm nhưng thu mỗi năm từ 1 đến 2 lần tuỳ theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây trồng ở từng địa phương. Như vậy, việc thu thuế có thể được tiến hành 2 lần trong một năm theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây trồng ở từng địa phương. Việc quy định như vậy là không khả thi khi mà khoản thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp một năm là không lớn so với các loại thuế khác, mà tiến hành thu thuế 2 lần theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây thì sẽ càng làm tăng chi phí hành thu, rườm rà hơn trong công tác thu thuế.
Nghị định 74 quy định: đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thì thuế tính theo sản lượng khai thác và theo giá bán thực tế. Giá trị sản lượng tính thuế của cây lâu năm thu hoạch một lần (gỗ, tre, nứa, song, mây...) tính theo giá bán thực tế của từng loại cây. Quy định là hợp lý vì trên thực tế có lúc người canh tác có thể trồng một lần và thu hoạch một lần rồi chuyển sang trồng loại cây khác hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, hơn nữa giá trị sản lượng có thể chênh lệch so với việc căn cứ vào hạng đất để tính thuế theo cách tính bằng thóc, thu bằng tiền. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy không chỉ là đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần mà loại cây lâu năm thu hoạch nhiều lần (ví dụ như cây ăn quả, cây lấy dầu, nhựa...) cũng thường có giá trị sản lượng để tính thuế chênh lệch (thấp hoặc cao hơn) so với việc căn cứ vào hạng đất để định thuế suất. Ví dụ: một vụ thu hoạch của cây chè có thể lên đến 98,8 tạ/ha, giá trị thu nhập bình quân của người làm chè có thể tăng lên trên 50 triệu đồng/ha và tại các vùng chè đặc sản có thể đạt trên 100 triệu đồng/ha (theo đánh giá của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Thái Nguyên về đề án phát triển chè giai đoạn 2006 – 2010 của tỉnh); với giá trị sản lượng này thì cho dù là đất hạng 1 hay đất hạng 6 thì cũng chênh lệch so với cách thu thuế tính bằng thóc, thu bằng tiền như quy định của pháp luật hiện nay...
Trên đây là một số điểm bất cập cơ bản của luật thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành. Những bất cập này cũng xuất phát từ sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội trong khi Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành cách đây hơn 15 năm, do đó khó tránh khỏi một thực tế là Luật không đáp ứng hết “nhu cầu” cần điều chỉnh của các quan hệ về thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay.
2. Về Thuế nhà đất
a. Khái quát chung về thuế nhà, đất
Thuế nhà, đất là loại thuế thu vào chủ thể trực tiếp sử dụng hoặc việc có quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Một cách chính xác, có thể gọi loại thuế này là thuế đất vì tới nay nhà nước vẫn tạm thời chưa thu thuế nhà (theo như quy định của pháp lệnh thuế nhà, đất 1992 và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung thuế nhà, đất 1994). Và đến năm 2012, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được ban hành năm 2010 có hiệu lực thì cũng chưa quy định về thu thuế đối với nhà ở. Loại thuế này không thu vào đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất nuôi trồn thủy sản và đất làm muối.
Về nguyên tắc, mọi chủ thể có quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình hợp pháp đều có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. Việc thu thuế nhà, đất góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước song mục đích trước hết khi ban hành thuế nhà, đất là phục vụ cho việc quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đất ở, khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý, phù hợp với quy định của Luật đất đai. Căn cứ tính thuế nhà, đất là diện tích đất, hạng đất và mức thuế trên một đơn vị diện tích. Diện tích đất để tính thuế đất ở, đất xây dựng công trình bao gồm diện tích mặt đất xây nhà ở, công trình và các diện tích khác trong khuôn viên đất ở; đất xây dựng công trình bao gồm cả diện tích đường đi lại, diện tích sân, diện tích bao quanh nhà, quanh công trình kiến trúc, diện tích trồng cây, diện tích ao hồ và các diện tích để trống. Hạng đất tính thuế và mức thuế đất được xác định có sự phân biệt giữa đất ở, đất xây dựng công trình ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn với khu vực ven đô thị, ven đầu mối giao thông, ven trục giao thông chính và đất ở, đất xây dựng công trình thuộc vùng nông thôn, đồng bằng, trung du, miền núi. Nguyên tắc xác định mức thuế là: khu vực nào đất đai có khả năng sinh lợi càng lớn thì mức thuế (so với mức thuế sử dụng đất nông nghiệp) càng cao.
Một đặc trưng của pháp luật thuế nhà, đất hiện hành là ở chỗ, việc xác định mức thuế nhà, đất cần phải dựa vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của địa phương. Đây là điểm tương đối đặc trưng trong cách thức xác định thuế nhà, đất ở Việt Nam so với nhiều quốc gia trên thế giới – vốn coi diện tích đất, giá đất tính thuế và thuế suất mới là những yếu tố cấu thành nên căn cứ tính thuế.
Pháp lệnh thuế nhà, đất được ban hành từ năm 1992, sửa đổi bổ sung một lần vào năm 1994 và được áp dụng cho tới hiện nay. Ra đời và tồn tại tính đến nay là gần 20 năm, Pháp lệnh thuế nhà, đất cơ bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra khi ban hành Pháp lệnh như: Pháp lệnh thuế nhà, đất đã góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đất; góp phần khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm phù hợp với quy định pháp luật về đất đai; góp phần thực hiện chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng cần được ưu đãi; động viên sự đóng góp của người sử dụng đất vào ngân sách nhà nước, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương (thuế nhà, đất có số thu bình quân khoảng 500 tỷ đồng mỗi năm và tốc độ tăng bình quân hàng năm 13%. Đây là nguồn thu ổn định, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương (1) – theo Đặc san tuyên truyền pháp luật số 11/2010 về chủ đề luật thuế sử dụng đất nông nghiệp của hội đồng hợp tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ )...
Một số bất cập của pháp luật thuế nhà, đất
Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về nhà ở, đất ở càng cao, trong bối cảnh nhiều nguồn thu ngân sách bị giảm sút do Việt Nam phải đáp ứng những cam kết hội nhập, tất yếu cần phải chú trọng hơn nữa vai trò tạo nguồn thu ngân sách của thuế nhà, đất. Số thuế thu trên thực tế hiện nay chưa phản ánh đúng khả năng tạo nguồn thu mà thuế nhà, đất có thể đem lại cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, so với nhiều sắc thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…thì thuế đất là loại thuế đảm bảo được tính công bằng cao, khả năng trốn thuế là thấp hơn do tính không chuyển dịch của đối tượng chịu thuế. Chính vì vậy, so với việc quản lý hoạt động kinh doanh, việc quản lý về đất đai rõ ràng có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên, trong thời gian qua, pháp luật về thuế nhà, đất ngày càng yếu kém trong việc thể hiện vai trò quản lý của mình. Bên cạnh kết quả đạt được như nêu trên, Pháp lệnh thuế nhà, đất đã bộc lộ một số hạn chế cần được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
Về đối tượng chịu thuế
Theo quy định của Pháp lệnh thuế nhà, đất, đối tượng chịu thuế là đất ở và đất xây dựng công trình. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 13 của Luật đất đai năm 2003 xác định nhóm đất phi nông nghiệp gồm: Đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng; đất làm gốm); đất sử dụng vào mục đích công cộng (giao thông, thuỷ lợi, công trình công cộng, di tích lịch sử- văn hoá); đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng...). Tuy nhiên, Pháp lệnh thuế nhà, đất lại điều chỉnh đối với đất ở và đất xây dựng công trình; việc thu thuế chỉ đối với đất ở và đất xây dựng công trình không phù hợp việc phân loại đất của Luật Đất đai năm 2003.
Hơn nữa, trên thực tế do sự phát triển của kinh tế thị trường, nhiều ngành nghề kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế được phát triển, họ có sử dụng đất nhưng không để ở hoặc xây dựng công trình mà còn tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác như kinh doanh kho bãi, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm…việc sử dụng đất từ những hoạt động này sinh lợi rất lớn nhưng họ lại không phải đóng thuế sử dụng đất (vì họ cũng không thuộc đối tượng nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp). Điều này thể hiện sự hạn chế trong việc đảm bảo công bằng xã hội của việc thu thuế nhà, đất hiện nay.
Về căn cứ tính thuế
Pháp lệnh thuế nhà, đất hiện hành quy định: Căn cứ tính thuế dựa trên cơ sở thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích đất, hạng đất và mức thuế. Trong đó:
- Hạng đất tính thuế được xác định căn cứ vào các yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu... là phù hợp với việc phân loại để thu thuế sử dụng đất nông nghiệp nhưng không phù hợp với việc tính thuế sử dụng đất ở, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Hơn nữavề việc phân chia hạng đất tính thuế không còn phù hợp với tốc độ phát triển, đặc biệt là các khu đô thị. Yếu tố hạng đất theo quy định hiện hành được xác định căn cứ vào loại đô thị (từ I đến VI), loại đường phố (dựa vào vị trí đất ở khu vực trung tâm, cận trung tâm hay ven đô), các điều kiện có lợi trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt…Với tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ như hiện nay, quy định này từ năm 1994 đã không còn hoàn toàn phù hợp, nhất là gây khó khăn cho những địa phương mới được xếp hạng lên đô thị loại cao hơn.
- Mức thuế được tính bằng kilôgam thóc trên 1 ha của từng hạng đất căn cứ vào mục đích sử dụng và khả năng thu hoa lợi trên đất, nay không còn phù hợp trong điều kiện chính sách tài chính liên quan đến đất đai thực hiện thống nhất theo quy định của Luật đất đai năm 2003 (sử dụng giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trong khung giá của Chính phủ làm căn cứ để tính thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; tính tiền sử dụng đất và tiền thuê đất khi giao đất, cho thuê đất...). Mức thuế đất phi nông nghiệp được áp dụng bằng từ 3 đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp cao nhất trong vùng, nếu tính ra số tiền phải nộp trên 1m2 là rất thấp. Ví dụ: Mức thuế sử dụng đất nông nghiệp cao nhất là 650 kg thóc/1 ha/năm (tương đương với 0,065kg thóc/m2/năm); với giá thóc tính thuế khoảng 4.000 đồng/kg thì thuế đất phải nộp đối với 1m2 đất ở vị trí số 1, đường loại 1, đô thị loại đặc biệt sẽ là 0,065 (kg) x 4.000 (đồng/kg) x 32 (lần) = 8.320 đồng/m2/năm, trong khi giá cao nhất của loại đất này theo khung giá của Chính phủ là 67.500.000 đồng/m2 thì số thuế phải nộp hàng năm chỉ bằng 0,0123% giá đất. Mức thuế sử dụng đất nông nghiệp thấp nhất là 0,008kg thóc/m2/năm, theo đó, thuế đất phải nộp đối với 1m2 đất ở nông thôn sẽ là 0,008 (kg) x 4.000 (đồng/kg) x 1 (lần) = 32 đồng/m2/năm, tương ứng với giá đất thấp nhất theo khung giá của Chính phủ là 2.500 đồng/m2 thì số thuế phải nộp hàng năm bằng 1,28% giá đất. Với số thuế này là quá ít so với giá đất của nó trên thực tế.
Hệ thống pháp luật về thuế hiện hành không đánh thuế lũy tiến đối với các hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng nhiều thửa đất cũng như sử dụng thửa đất có diện tích lớn hơn hạn mức đất ở theo qui định của pháp luật về đất đai. Ví dụ: với giá thóc là 2.500đ/kg thì mức nộp thuế sử dụng đất đối với 1m2 đất đô thị ở vị trí giá trị nhất hiện tại chỉ khoảng 40.000 đ/m2/năm (32 lần x 0,5 kg/m2/năm x 2.500đ/kg thóc). Với mức thuế này, một căn nhà 50m2 ở vị trí “tốt” của khu đô thị thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng chỉ phải nộp khoản thuế sử dụng đất 2 triệu đồng/năm. Trong khi đó, giá cho thuê nhà, đất tại đô thị ở vị trí này khoảng 25–30 USD/m2/tháng, tương đương gần 5 triệu đồng/m2/năm. Như vậy, thuế sử dụng đất mới chỉ chiếm 0,8% mức sinh lợi so với việc tài sản nhà, đất đó được đưa vào khai thác, kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy áp dụng căn cứ tính thuế nhà, đất trên cơ sở tính thuế của thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng là nguyên nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ động viên thuế nhà, đất quá thấp so với thuế sử dụng đất nông nghiệp vì quy định mức thuế đất cao nhất là bằng 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp, không phản ánh được giá trị thật mà đất ở, đất xây dựng công trình mang lại. Giá đất ở, đất xây dựng công trình cao hơn rất nhiều so với đất nông nghiệp và những lợi nhuận mà nó mang lại có khi gấp hàng trăm lần đất nông nghiệp. Theo kết quả tổng hợp của cơ quan thuế, năm 2000, tỷ lệ động viên (ngân sách nhà nước) vào đất ở, đất xây dựng công trình hạng cao nhất là 0,23%, đất nông nghiệp hạng cao nhất là 0,42% tức mức động viên thuế đất thấp hơn 18,2 lần so với mức động viên vào thuế sử dụng đất nông nghiệp ở cùng hạng. Trong khi đó, mức chênh lệch giữa giá đất đô thị loại cao nhất với giá đất nông nghiệp loại cao nhất là 595 lần. Mức động viên thực tế càng bất hợp lý: đất vùng núi cao hơn đất đồng bằng, đất nông thôn cao hơn đất đô thị, đất khu vực kém thuận lợi cao hơn đất ở khu vực thuận lợi.
Ngoài ra, đối với đất ở các vùng giáp ranh, việc xác định số thuế đất phải nộp gặp rất nhiều vướng mắc, cụ thể: 2 mảnh đất ở cùng một vị trí, giá đất như nhau nhưng thuộc 2 địa phương khác nhau thì số thuế đất phải nộp là khác nhau do mức thuế khác nhau (do 2 mảnh thuộc 2 loại đô thị khác nhau) và giá thóc tính thuế khác nhau (do giá thóc tính thuế của mối địa phương là khác nhau). Hơn nữa, giá đất phi nông nghiệp có đặc điểm là phụ thuộc vào loại đô thị, loại đường phố, đặc biệt là vị trí của thửa đất nên giá đất của từng thửa đất rất khác nhau trong khi thuế đất của 2 thửa đất tuy cùng thuộc một loại đô thị, cùng thuộc một loại đường phố, có vị trí khác nhau, nhưng lại cùng nộp mức thuế đất như nhau là không hợp lý; thuế lúc thiên tai mất mùa lại cao hơn lúc được mùa do giá thóc lúc mất mùa cao hơn lúc được mùa.
Pháp lệnh thuế nhà, đất chưa có sự điều tiết cao đối với những đối tượng có quyền sử dụng đất với diện tích lớn để khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và hạn chế đầu cơ về đất, cụ thể là: Không phân biệt giữa việc sử dụng đất trong hạn mức và vượt hạn mức; không phân biệt giữa người có quyền sử dụng một thửa đất với người có quyền sử dụng nhiều thửa đất; không phân biệt giữa người có đất đưa vào khai thác sử dụng đúng tiến độ với người có đất nhưng bỏ hoang, không đưa vào khai thác sử dụng...
Về chính sách miễn, giảm thuế
Pháp lệnh thuế nhà, đất quy định miễn thuế đối với gia đình thương binh loại 1/4, loại 2/4; gia đình liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước, nhưng không miễn giảm đối với các đối tượng là người có công với cách mạng như: người hoạt động cách mạng trước ngày 19/8/1945; thương binh hạng 3/4, 4/4; bệnh binh 2/3, 3/3 dẫn đến chưa công bằng trong quá trình thực hiện.
Về phương thức thu thuế
Thuế đất (áp dụng đối với cả thuế sử dụng đất nông nghiệp) ghi thu bằng thóc nhưng quy đổi ra tiền theo giá thóc của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho từng mùa vụ đã dẫn đến thiếu công bằng trong việc động viên thuế: có nơi miền núi cao hơn miền xuôi (vì giá thóc ở miền núi, trung du có khi lại cao hơn ở vùng đồng bằng và miền xuôi), lúc thiên tai mất mùa phải nộp thuế nhiều hơn lúc mùa vụ bình thường (do giá thóc lúc mất mùa cao hơn lúc mùa vụ bình thường). Giá thóc trên thị trường ở các thời điểm khác nhau cũng gây khó khăn cho công tác thu thuế và không khuyến khích người dân nộp thuế sớm. Ngoài ra, có trường hợp cùng hạng đất có cùng định suất thuế, nhưng giá thóc giữa các địa phương khác nhau, nên việc quy định giá thóc thu của các địa phương khác nhau, tạo thêm sự bất bình đẳng trong chính sách thu.
Thuế nhà, đất được tính theo hệ số so sánh với định suất thuế hạng đất nông nghiệp, kết quả tính thuế đất theo số lượng kilogam thóc trong khi thuế đất lại thu bằng tiền nên phải quy đổi theo giá thóc. Quy định này vừa gây thất thu cho ngân sách nhà nước vừa tạo ra tính lũy thoái ngoài mong muốn của thuế nhà, đất với tính chất là một loại thuế trực thu, bởi trong khi giá đất ở, đất xây dựng công trình có xu thế tăng nhanh chóng thì giá thóc tăng không đáng kể, thậm chí giữ nguyên hoặc giảm đi. Do vậy, việc tính thuế đất bằng thóc theo giá thuế sử dụng đất nông nghiệp vụ cuối năm trước liền kề năm tính thuế vô hình chung khiến cho mức thuế đất tỷ lệ nghịch với giá thực tế của đất ở, đất xây dựng công trình.
Về quản lý thuế
Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Luật Quản lý thuế đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh về thuế (như đăng ký, kê khai, tính và nộp thuế, xử lý vi phạm về thuế, khiếu nại, thời hiệu... ), trong khi đó Pháp lệnh thuế nhà, đất quy định cả nội dung về chính sách thuế và quản lý thuế là không còn phù hợp.
Mặt khác, với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay nhà ở vẫn chưa được liệt vào đối tượng chịu thuế là vấn đề còn có nhiều bàn cãi. Đến Luật sử dụng đất phi nông nghiệp ban hành năm 2010 và sẽ có hiệu lực vào năm 2012 cũng chưa quy định đánh thuế đối với nhà ở. Tuy nhiên, phải công nhận một thực trạng hiện nay đó là cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phân hoá giầu nghèo ngày càng rõ nét hơn, thể hiện ở việc có rất nhiều biệt thự, ngôi nhà giá trị được xây dựng. Việc Nhà nước không thu thuế đối với nhà ở dẫn đến tình trạng có nhiều đối tượng sở hữu nhiều nhà nhưng không đưa vào khai thác, sử dụng, gây lãng phí cho xã hội. Cộng với việc mức thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình tại nhiều nơi (đặc biệt khu vực đô thị) còn quá thấp so với thực tế, không có tác dụng điều tiết đối với qui mô diện tích, giá trị cụ thể của mỗi tài sản nhà, đất cũng như không điều tiết nổi những người có nhiều bất động sản. Nếu có sự phân hoá hợp lý, việc thu thuế đối với nhà không những đem lại nguồn thu cho ngân sách mà còn đảm bảo thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thuế đất đai ở Việt Nam trong thời gian tới
a. Đối với luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
Về việc xác định đối tượng áp dụng miễn, giảm trong tình hình mới
Các quy định về đối tượng miễn, giảm thuế về cơ bản giữ nguyên và thực hiện chế độ như quy định trong Nghị quyết số 55/2010/QH12 đã có hiệu lực từ đầu năm 2011. Tuy nhiên, với sự biến động trong vận hành nền kinh tế, điều chỉnh trong chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, nên vẫn cần thực hiện công tác rà soát quá trình thực thi việc miễn, giảm; căn cứ vào tình hình mới, đặc biệt là những định hướng mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng và Nhà nước để có điều chỉnh phù hợp trong các năm tiếp theo. Miễn, giảm thuế thực chất là chính sách ưu đãi về thuế, vì vậy, việc miễn, giảm cần có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào lĩnh vực cụ thể, tránh ưu đãi dàn trải, kém hiệu quả. Cần phân loại đối tượng được miễn, giảm thuế theo mục đích sử dụng đất (đất trồng lúa, làm muối, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp,…), tiếp tục nghiên cứu trong vấn đề phân kỳ sử dụng đất (mới đưa vào sử dụng hoặc đã canh tác lâu năm) để tiếp tục có chính sách miễn, giảm phù hợp trong thời gian tới.
Về bảo đảm miễn, giảm thuế theo đúng mục đích sử dụng
Trên thực tế, việc quản lý và sử dụng đất đai, trong đó có đất nông nghiệp những năm qua còn nhiều hạn chế. Nhiều diện tích đất nông nghiệp được sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, tình trạng hoang hóa, lãng phí tài nguyên đất đai diễn ra ở một số địa phương. Đặc biệt, việc sử dụng đất ở một số nông, lâm trường đang là vấn đề bức xúc trong dư luận do không kiểm soát được quỹ đất, buông lỏng quản lý dẫn đến trục lợi từ đất đai, thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả thực tế của chính sách miễn, giảm thuế, đi đôi với việc ban hành chính sách, cần tiếp tục rà soát, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là đất nông trường, lâm trường, đồng thời quy định rõ về việc chỉ thực hiện miễn, giảm thuế cho diện tích đất nông nghiệp được sử dụng đúng mục đích; kiên quyết thu hồi và áp dụng các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất bỏ hoang hóa, sử dụng sai mục đích, lãng phí.
Về định thuế suất
Như đã đề cập ở trên, việc định thuế suất được tính bằng kilôgam thóc trên 1 ha của từng hạng đất (từ I đến VI) hiện nay đã bộc lộ nhiều bất cập. Hơn nữa hiện tại chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp được tăng cường, đối tượng miễn, giảm được mở rộng hơn rất nhiều. Do đó, thiết nghĩ cần có sự thay đổi trong quy định về định thuế suất, nó không phù hợp với chính sách miễn, giảm thuế hiện hành, cũng sẽ không còn là căn cứ áp dụng để tính thuế của Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực vào năm 2012, vì kể từ ngày Luật này có hiệu lực thì căn cứ tính thuế không còn như Pháp lệnh thuế nhà đất nữa...Nếu quy định về định thuế suất thì nên quy định theo hướng định thuế suất đối với hạng đất từ loại 1 đến loại 4, và giảm mức thuế suất tính bằng kg thóc trên 1 ha so với quy định của luật hiện hành.
Về vấn đề người dân chuyển đất nông nghiệp hạng 6 sang nuôi tôm để tăng năng suất kinh tế, cần xem xét, đánh giá lại mức thuế suất tính đối với những đối tượng này đề đảm bảo tính công bằng trong chính sách thu thuế. Tuy nhiên, để khuyến khích được người dân làm giàu chính đáng, chuyển đổi mô hình để nâng cao năng suất kinh tế thì hiện tại, dù người nuôi tôm ở các khu đất hạng 5, hạng 6 có thu nhập cao hơn do chuyển đổi từ đất trông cây hàng năm sang thì mức đánh thuế nếu có áp dụng cao hơn thì theo em cũng chỉ cao hơn không quá 1,2 lần so với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm. Có như thế mới khuyến khích người dân tự vươn lên thoát khỏi nghèo; thậm chí còn cần phải có chế độ miễn giảm thuế trong thời gian họ mới chuyển đổi mô hình, vì người nuôi tôm cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro, có thể lỗ vốn, mất vốn...
Về thời hạn miễn, giảm thuế
Để tạo căn cứ pháp lý ổn định cho chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp trong nhiều năm tiếp theo, động viên nông dân yên tâm sản xuất, trong nghị quyết 55/2010 vừa có hiệu lực từ đầu năm 2011 quy định thời hạn miễn, giảm là 10 năm (2011 - 2020). Tuy nhiên, theo em sau 5 năm miễn, giảm (giai đoạn 5 năm đầu tiên) cần có tổng kết, đánh giá toàn diện và ban hành một luật chung về chính sách thuế đối với đất đai (đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp) để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Trong đó các quy định về chế độ miễn, giảm thuế sử dụng đất được sắp xếp tương ứng với phần quy định về thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
Về thu thuế, nộp thuế: việc Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 và Nghị định 74 hướng dẫn Luật này, quy định: thuế có thể được tiến hành thu 2 lần trong một năm theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây trồng ở từng địa phương là bất cập (như đã phân tích ở trên), do đó cần quán triệt trong Luật thuế chỉ được tiến hành thu một lần trong một năm, còn giá trị các vụ thu hoạch được kê khai và có chế độ quản lý riêng của nhà nước đối với việc kê khai.
Pháp luật hiện hành quy định đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thì thuế tính theo sản lượng khai thác và theo giá bán thực tế , giá trị sản lượng tính thuế của cây lâu năm thu hoạch một lần (gỗ, tre, nứa, song, mây...) tính theo giá bán thực tế của từng loại cây. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên, Luật cũng cần quy định tương tự đối với cây lâu năm thu hoạch nhiều lần vì giá trị thu hoạch mỗi lần của loại cây này trên thực tế cũng khác với các loại cây trồng mà pháp luật áp dụng cách tính thuế là tính bằng thóc, thu bằng tiền.
Trên đây là một số ý kiến về phương hướng hoàn thiện pháp luật Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong tình hình mới. Việc điều chỉnh, bổ sung một số quy định của pháp luật hiện hành về thuế sử dụng đất nông nghiệp là cần thiết và đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá chính xác...để hoàn thiện chính sách về thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Đối với pháp luật thuế nhà, đất
Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, thuế nhà đất có vai trò tích cực trong việc điều tiết thu nhập, là một trong những giải pháp giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương, từ đó tạo điều kiện để Nhà nước kiểm kê, quản lý tình hình sử dụng đất đai nói chung, đất ở, đất xây dựng công trình nói riêng. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa vai trò tích cực của nó thì đòi hỏi hệ thống pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải được hoàn thiện, thực sự là công cụ để quản lý và điều tiết tích cực về loại thuế này. Hơn nữa, hoàn thiện và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về thuế, thống nhất với quy định của Luật quản lý thuế là còn để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với các quy định của Luật đất đai năm 2003, Luật nhà ở, Luật đầu tư và các chính sách thu khác liên quan đến đất đai. Theo em, một số phương hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật về thuế nhà đất như sau:
Trước hết, để thể hiện rõ hơn nữa vai trò quan trọng và yêu cầu thống nhất áp dụng pháp luật thuế nhà, đất, việc ban hành thành một Luật thuế sử dụng đất chung là cần thiết hiện nay. Mặc dù, hiện nay, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đã ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2012, tuy nhiên, theo em về lâu dài nên gộp các quy định về thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nông nghiệp vào cùng một văn bản luật và chia thành hai phần riêng biệt. Kỹ thuật lập pháp này có thể tăng cường tính thống nhất trong áp dụng luật, mà đặc biệt là vấn đề về thuế - vốn rất tản mác các quy phạm pháp luật về nó trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thuế đất phi nông nghiệp hiện nay ở nước ta, đồng thời tạo điều kiện để người dân tiếp cận nhanh chóng, dễ hiểu, dễ đối chiếu các quy định giữa hai loại thuế này trong cùng một văn bản.
Thứ hai, về đối tượng chịu thuế, do Pháp lệnh thuế nhà, đất chỉ điều chỉnh đối với đất ở và đất xây dựng công trình, nên việc thu thuế đối với đất xây dựng công trình không phù hợp với việc phân loại đất của Luật Đất đai năm 2003. Do đó, cần phải thay đổi đối tượng chịu thuế đối với thuế nhà, đất là đất ở, đất sản xuất kinh doanh cho phù hợp.
Diện tích đất tính thuế là diện tích đất hợp pháp đang sử dụng được xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; giá đất tính thuế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định song phải dựa trên giá trị sử dụng, khả năng sinh lợi và phải nằm trong mối tương quan với giá thị trường tại thời điểm tính thuế. Giá đất tính thuế phải có sự phân biệt dựa trên đặc thù của từng loại đất như đất đô thị; đất khu dân cư nông thôn hay đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản đặt trong mối quan hệ về mặt cung cầu, các yếu tố tự nhiên, yếu tố kinh tế – xã hội cũng như nhu cầu quản lý của Nhà nước để quy định cho phù hợp.
Thứ ba, về căn cứ tính thuế, cần thay đổi căn cứ tính thuế theo giá đất và thuế suất cho phù hợp với quy định của Luật Đất đai 2003, đồng bộ với các chính sách thu về đất khác và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, giữa các vùng khác nhau. Cụ thể là không tính mức thuế bằng thóc như Pháp lệnh hiện hành mà phải dựa vào giá tính thuế và thuế suất, trong đó giá tính thuế được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất. Đồng thời áp dụng biểu thuế luỹ tiến đối với nhà, đất, quy định cụ thể về việc thu thuế đối với trường hợp có nhiều nhà, đất để góp phần hạn chế đầu cơ về nhà, đất.
Như đã đề cập ở trên, việc dựa trên hạng đất và định suất thuế để tính toán nghĩa vụ thuế vừa phức tạp vừa lạc hậu, không đảm bảo phản ánh đúng giá trị thực tế mà đất đai đem lại do hai sắc thuế trên ra đời từ cách nay hơn 15 năm khi đó cơ chế kinh tế thị trường mới được xác lập, thị trường bất động sản còn chưa ổn định nên quy định khoản thu được Nhà nước thu bằng thóc, sau đó dựa trên định giá thóc để thu thuế bằng tiền. Thực chất, mục tiêu đề ra là điều tiết vào đất ở cao hơn đất nông nghiệp, đất đô thị cao hơn đất nông thôn song tỷ lệ động viên trên đất đô thị là quá thấp khi mà giá đất ngày một tăng cao. Vì vậy, thuế sử dụng đất được ban hành phải thay đổi căn bản các căn cứ tính thuế là diện tích, giá đất, và thuế suất, đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa các loại đất và giữa các tầng lớp dân cư nông thôn, thành thị…
Thứ tư, về thuế suất, như đã đề cập ở trên, hai trong những chức năng cơ bản của Luật thuế về nhà, đất là đảm bảo công bằng xã hội và tạo ra một thị trường bất động sản lành mạnh. Để thực hiện được các chức năng đó, Luật thuế này phải hướng đến đối tượng là người sở hữu nhiều tài sản là nhà, đất - người có tài sản. Thuế suất phải được xây dựng trên cơ sở đó. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng thuế suất nhà, đất phải thấp, bởi thu thuế thấp sẽ khiến người dân vui vẻ đóng, không phải nghĩ ra các chiêu lách luật và khi không ai trốn thuế, Nhà nước sẽ thu được trên diện rộng và ngân sách quốc gia được bổ sung một khoản không nhỏ. Em không đồng ý với ý kiến này, vì thuế nhà, đất hướng đến đối tượng nộp thuế là những người có nhiều tài sản nên nếu pháp luật quy định mức thuế suất thấp thì sẽ không đảm bảo yếu tố công bằng xã hội, thất thu ngân sách nhà nước, và quan trọng là không hiệu quả trong cơ chế quản lý và điều tiết thu nhập thông qua thuế. Do đó phải có mức thuế suất tương ứng và phù hợp với khối lượng tài sản là nhà, đất (khối lượng này thường lớn), mà cụ thể là cần xây dựng biểu thuế luỹ tiến với nhiều mức khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật cũng nên quy định ngưỡng chịu thuế một cách hợp lý để đảm bảo sự công bằng cho người có thu nhập thấp.
Thứ năm, theo em cần bổ sung thêm một số đối tượng chính sách xã hội vào đối tượng miễn, giảm thuế như: người nghèo, thương binh hạng 3/4, 4/4, bệnh binh 2/3, 3/3, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ không được hưởng trợ cấp hàng tháng để đảm bảo công bằng giữa các đối tượng chính sách.
Thứ sáu, về việc đánh thuế đối với nhà, trước mắt, với Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành vào năm 2012 tới đây thì tạm thời Nhà nước vẫn chưa đánh thuế đối với nhà ở, tuy nhiên, theo em thì trong tương lai không xa, có thể là sau 2 đến 3 năm thi hành luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, khảo sát, đánh giá thực trạng thi hành luật này; đồng thời nghiên cứu cẩn thận, kỹ lưỡng hơn về việc có nên ban hành các quy định về thuế đối với nhà ở. Bởi vì như đã đề cập ở trên, thị trường bất động sản về nhà, đất ngày càng phát triển, trên thị trường đã xuất hiện nhiều loại nhà như: chung cư cao cấp đắt tiền, văn phòng cho thuê, các loại hình nhà liền kề, nhà biệt thự...và xuất hiện tình trạng đầu cơ về nhà, đất, đẩy giá nhà, đất lên cao không hợp lý mà chưa có công cụ để điều tiết. Do đó, cần phải bổ sung việc đánh thuế đối với nhà trong vài năm tới. Cần bổ sung việc thu thuế đối với nhà để góp phần chống hiện tượng đầu cơ, góp phần giúp thị trường bất động sản phát triển.
Theo đó, trong Luật thuế đối với nhà ở nên quy định một giới hạn tối đa về việc cá nhân sở hữu nhà ở (dựa trên căn cứ tính giá trị nhà ở, diện tích nhà ở) là không phải nộp thuế đối với nhà ở hiện tại đang sở hữu. Còn vượt quá mức tối đa đó thì đánh thuế. Đồng thời cũng cần quy định chế độ miễn, giảm thuế đối với các đối tượng như: hộ nghèo, địa phương khó khăn, nhà ở phục vụ cho mục đích công cộng, phúc lợi xã hội...Người nộp thuế là người sở hữu nhà, trong trường hợp nhà có sự tranh chấp hoặc chưa xác định người có quyền sở hữu hợp pháp thì tổ chức, cá nhân đang trực tiếp sử dụng là đối tượng nộp thuế. Căn cứ tính thuế nhà dựa trên diện tích, giá tính thuế và thuế suất. Việc quy định như vậy sẽ góp phần đảm bảo sự công bằng, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Kết luận
Pháp luật thuế về đất đai là một công cụ quản lý thuế quan trọng của Nhà nước, do đó nó luôn cần được quan tâm nghiên cứu để hoàn thiện, góp phần đưa chính sách quản lý thuế của Nhà nước nói chung và chính sách quản lý của Nhà nước về thuế đất đai nói riêng ngày càng trở nên hoàn thiện, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay cần khuyến khích đầu tư sản xuất nông nghiệp, vấn đề an ninh lương thực đặt ra cho bất kỳ quốc gia nào trên thế giới...nên pháp luật thuế sử dụng đất nông nghiệp phải có sự thay đổi về chế độ miễn, giảm thuế theo hướng ngày càng mở rộng sự ưu đãi của nhà nước. Đồng thời, sự phát triển của thị trường bất động sản, sự thay đổi về quy định của các văn bản luật liên quan đến đất đai...thì pháp luật thuế nhà đất cũng cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Trên đây là một số điểm bất cập cơ bản của Luật thuế về đất đai hiện hành và một số phương hướng để khắc phục, hoàn thiện pháp luật thuế đất đai; để đảm bảo đáp ứng đòi hỏi cần có luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế đất đai kịp thời thì pháp luật thuế về đất đai ở Việt Nam vẫn luôn cần được tiếp tục nghiên cứu, được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, đặc biệt là phản ánh từ người dân – những người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước để ngày càng hoàn thiện, thực sự thể hiện vai trò quan trọng của mình trong hệ thống các công cụ quản lý thuế của nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành và hướng hoàn thiện.doc