Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1 1.1 Khái niệm và đặc điểm thuế GTGT 1 1.2 Khái niệm áp dụng thuế GTGT 1 II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1 2.1 Điều kiện kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế: 1 2. Trình độ quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn: 3 3. Ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật 5 4. Trình độ quản lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế. 6 5. Hệ thống pháp luật 10 6. Chế tài xử lí các hành vi vi phạm pháp luật thuế giá trị gia tăng. 12 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 13 3.1 Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT 13 3.2 Nâng cao ý thức pháp luật cho các công dân thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng đạt hiệu quả cao. 13 3.3 Nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ thuế. 14 3.4 Đổi mới quá trình quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn: 14

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3615 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1 Khái niệm và đặc điểm thuế GTGT Thuật ngữ thuế GTGT thường được dùng để chỉ một loại thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ mà cụ thể là đánh vào hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Thuế GTGT có những đặc điểm cơ bản sau: Đặc trưng thứ nhất của thuế GTGT là chỉ đánh vào giá trị gia tăng. Đặc trưng thứ hai, thuế GTGT là thuế gián thu đánh trên bình diện rộng. Đặc trưng thứ ba, thuế GTGT mang bản chất liên hoàn và có tính trung lập kinh tế cao: 1.2 Khái niệm áp dụng thuế GTGT Thuế GTGT là một loại thuế tiên tiến, hiện đại, song môi trường vận hành (các điều kiện áp dụng) của chúng hết sức khắt khe, vì vậy, khi áp dụng loại thuế này được Chính phủ các nước cân nhắc rất kĩ lưỡng. Áp dụng thuế GTGT bao gồm những hoạt động nhằm đưa thuế GTGT vào cuộc sống, gồm hoạt động xây dựng, ban hành Luật thuế GTGT, thực hiện Luật thuế GTGT và cả cơ chế bảo đảm thực hiện. Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế GTGT thực chất là nghiên cứu việc điều chỉnh pháp luật thuế GTGT tức bao gồm hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động dùng pháp luật để tác động vào hành vi của con người (sự vận động của pháp luật trong thực tế) và cả cơ chế bảo đảm thực hiện. II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Điều kiện kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế: Các nhà khoa học kinh tế cho rằng: thuế GTGT là 1 trong những đặc điểm riêng có của một nền kinh tế phát triển, quản lý theo cơ chế thị trường. Thuế GTGT được tính và thu qua mỗi lần chuyển giao hàng hoá và cung cấp dịch vụ trong quá trình sản xuất lưu thông đến tiêu dùng. Ở đâu, khi nào các hoạt động chuyển giao hàng hoá và cung cấp dịch vụ diễn ra một cách sôi động thì ở đó, khi đó có khả năng thu thuế GTGT lớn và ngược lại. Bởi thuế có nguồn gốc từ giá trị thặng dư của xã hội, nên nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp ổn định, có hiệu quả và thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường là điều kiện quan trọng nhất để áp dụng thuế GTGT. Trong thời gian qua nền kinh tế của đất nước ta phát triển không ngừng, các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, cung ứng dịch vụ sôi động là điều kiện quan trọng để thực thi pháp luật thuế GTGT. Tuy nhiên hiện nay điều kiện kinh tế nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập ảnh hưởng lớn tới quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT. Một thực tế là trong thời gian qua do tính chất và quy mô của hoạt động xây dựng cơ bản cũng có nhiều thay đổi, việc “bán thầu” hay “nhượng thầu” tương đối phổ biến trong quá trình thi công. Tuy nhiên, ở một số doanh nghiệp việc hạch toán doanh thu đối với các nghiệp vụ kinh tế trên chưa có sự thống nhất, nhiều doanh nghiệp ký toàn bộ công trình nhưng chỉ hạch toán phần gói thầu do mình thi công, phần nhượng lại cho nhà thầu phụ thi công không được phản ánh vào doanh thu nhà thầu chính. Một số nhà thầu phụ thực hiện gói thầu nhỏ, lẻ lại cho rằng việc kê khai thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp là thuộc về nhà thầu chính chứ nhà thầu phụ không có nghĩa vụ gì với NSNN. Doanh thu nhượng thầu hay bán thầu theo tỷ lệ phần trăm được coi là một khoản thu nhập tài chính (không kê khai thuế) hoặc coi là một khoản doanh thu xây lắp và kê khai nộp thuế theo thuế suất của hoạt động xây lắp. Thực trạng trên đây dẫn đến việc kê khai thuế không đúng ở nhiều doanh nghiệp xây lắp. Trong thực tế, do đặc thù của hoạt động xây lắp nhiều công trình có thời gian xây dựng kéo dài, việc bàn giao khối lượng từng phần hoàn thành không được tiến hành kịp thời hay không thực hiện việc bàn giao theo hạng mục. Tiền thanh toán theo tiến độ được coi như khoản tiền ứng trước của bên chủ đầu tư và chưa được coi là một khoản doanh thu và chưa kê khai thuế, do vậy đứng ở góc độ doanh nghiệp cũng như góc độ quản lý thuế của Nhà nước sẽ vướng phải một số vấn đề: doanh thu trong kỳ sẽ không phản ánh đúng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một kỳ sản xuất, một phần khối lượng công việc đã thực hiện và thu được tiền nhưng không được hạch toán vào doanh thu trong kỳ; mặt khác doanh nghiệp sẽ có quyền được chậm nộp một khoản thuế đáng kể trong kỳ tương ứng với phần doanh thu chưa được kê khai và đặc biệt trong các thời điểm giao thời khi có sự thay đổi về thuế suất sẽ tạo ra một kẽ hở rất lớn để các doanh nghiệp có thể khai thác nhằm tránh thuế. Trên thực tế đã có hàng loạt đơn vị xây dựng cơ bản trong suốt thời gian dài không phát sinh doanh thu, không có thuế GTGT đầu ra, mà chỉ có thuế GTGT đầu vào dẫn đến NSNN phải hoàn thuế khống cho doanh nghiệp, hàng loạt các hạng mục công trình thực tế đã hoàn thành (và có thể đã được ứng vốn) nhưng không được quyết toán hay bàn giao hạng mục công trình trước thời điểm 2. Trình độ quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn: Thuế GTGT gắn với nghiệp vụ kinh doanh của chủ thể nộp thuế. Nhà nước thực hiện thu thuế theo kết quả kinh doanh của đối tượng nộp thuế. Điều này có nghĩa chứng từ hoá đơn là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với Nhà nước. Do đó, trình độ quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn của chủ thể nộp thuế cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ ảnh hưởng lớn tới việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Với tư cách “là những giấy tờ và vật mang tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã phát sinh và đã hoàn thành, Luật thuế GTGT quy định chi tiết về các loại chứng từ hoá đơn, áp dụng cho các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, phương pháp tính trực tiếp theo phần giá trị tăng thêm (Điều 14 Luật thuế GTGT năm 2008). Hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý cực kỳ quan trọng trong quá trình vận hành của thuế GTGT và có thể nói sự thành công hay thất bại của quá trình này phụ thuộc rất lớn vào chế độ ghi chép quản lý chứng từ, hoá đơn. Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở nước ta trong mấy năm qua cho thấy nạn hoá đơn giả đã phát triển tới mức báo động và được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Dạng thứ nhất là hoá đơn in giả hoàn toàn. Nhìn bề ngoài thì loại hoá đơn này giống như hoá đơn GTGT do BTC phát hành và chỉ có thể phát hiện bằng máy soi nghiệp vụ còn đối với người mua và bán hàng thì không mấy dễ dàng phát hiện. Có những trường hợp mua phải hàng lậu được cấp hoá đơn giả nhưng khi phát hiện thì người bán hàng đã biến mất nên vừa thiếu cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý vừa không được quyền khấu trừ thuế. Dạng thứ hai là hoá đơn thật do BTC phát hành được bán cho một đơn vị nhất định nhưng tuồn ra thị trường mua bán một cách bất hợp pháp. Thủ đoạn này có thể thực hiện bằng cách bán hàng không cấp hoá đơn cho khách hàng sau đó dùng liên trống (lẽ ra phải cấp cho khách hàng) đem bán trên thị trường chợ đen, hoặc bố cáo giải thể doanh nghiệp nhưng không thanh toán nộp lại hoá đơn mà đem bán; hoặc lợi dụng cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp, sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, đăng kí thuế, cấp mã số thuế và mua hoá đơn GTGT tại cơ quan thuế nhưng không tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà sử dụng chính các hoá đơn đó để kinh doanh bằng cách mua bán vòng vèo để hợp thức hoá số thuế đầu vào sau đó thực hiện khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế. Dạng thứ ba cũng là hoá đơn do BTC phát hành được sử dụng khi mua bán hàng hoá nhưng ghi giá thanh toán giữa các liên không đồng nhất hoặc cố tình ghi sai mã số của người bán gây khó khăn cho sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Với thủ đoạn này số thuế đầu ra thu được ở người bán thì ít mà số thuế đầu vào phải khấu trừ ở người mua thì nhiều. Đây là một hiểm hoạ kép do cơ chế liên hoàn thuế GTGT tạo ra. Thứ tư, cạo sửa hoá đơn mua hàng ghi số tiền cao hơn số thực tế để khấu trừ, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán thuế. Thứ năm, lập hoá đơn khống, tức thực tế không mua, bán hàng hoá nhưng thông đồng với các đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu; hoặc mua hoá đơn bán hàng dùng để kê khai khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Thứ sáu, khi bán hàng hoá dịch vụ việc lập giao hoá đơn cho khách hàng còn tuỳ tiện, không giao hoặc đòi nâng giá hàng khi giao hoá đơn hợp pháp hoặc trong nhiều trường hợp đã chủ động yêu cầu người bán hàng lập hoá đơn với số tiền cao hơn thực tế thanh toán hoặc tự lập hoá đơn thanh toán tiền mua hàng cao hơn để tham ô công quỹ của nhà nước. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào là điểm cốt lõi quyết định tính tiên tiến, khoa học và trung lập của thuế GTGT, trong đó sổ sách kế toán, chứng từ, hoá đơn là căn cứ pháp lý. Vì vậy, để áp dụng thuế GTGT một trong những điều kiện không thể thiếu được đó là bản thân các đối tượng nộp thuế phải tổ chức hạch toán được hoạt động kinh doanh của mình thông qua các hình thức kế toán nhất định và phải sử dụng máy tính trong công tác quản lý kinh doanh, quản lý chứng từ hoá đơn, đặc biệt lập và sử dụng chứng từ, hoá đơn khi mua bán hàng hoá dịch vụ. Quá trình in, phát hành, sử dụng hoá đơn của các cơ sở kinh doanh phải được quản lý chặt chẽ để có thể kiểm soát được chứng từ hoá đơn của các đơn vị kinh doanh, từ đó mới thực thi được pháp luật thuế GTGT đạt hiệu quả cao. Trong điều kiện thực hiện thuế GTGT, hoá đơn, chứng từ là cơ sở để kiểm tra thuế GTGT, là căn cứ xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra của hàng hoá, dịch vụ, để xác định số thuế GTGT được khấu trừ, miễn giảm, phải nộp hay được hoàn lại trong kỳ. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, chứng từ ở cả khâu mua và khâu bán vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của nhà nước và quyền lợi của doanh nghiệp. Do đó việc kiểm soát và tự kiểm soát ở khâu lập chứng từ hoá đơn hay tiếp nhận chứng từ hoá đơn có ý nghĩa quan trọng với cơ quan quản lý chức năng trong việc tính số thuế phải nộp nói riêng và quản lý được nguồn thu cho NSNN nói chung. Tuy nhiên, trong điều kiện KTTT ngày càng phát triển với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phong phú, đa dạng thì vấn đề chứng từ, hoá đơn càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Vì vậy, hoá đơn chứng từ là một nội dung hết sức cơ bản được quy định và cần phải được quy định trong pháp luật thuế GTGT. Hoá đơn, chứng từ được quy định tại Điều 14 Luật thuế GTGT và mục IV Thông tư 129 hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT. 3. Ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật Ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự thành công hay thất bại của quá trình thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng. Đối với thuế GTGT, do tính chấp phức tạp của kỹ thuật tính và thu thuế gắn liền với cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế nên đòi hỏi các đối tượng nộp thuế phải có ý thức tự giác cao trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, nếu không rất có thể xẩy ra hiện tượng số thuế thu được ít nhưng nhà nước phải khấu trừ thuế, hoàn thuế nhiều do các hành vi gian lận, lợi dụng cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế. Đối với đối tượng nộp thuế, nếu có ý thức pháp luật tốt và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật sẽ có đủ khả năng để bảo vệ lợi ích cho mình, hạn chế được tình trạng các đối tượng lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để chiếm đoạt tài sản của nhà nước làm giảm đi hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Đối với nhân dân có tri thức pháp luật và ý thức pháp luật họ sẽ có niềm tin vào pháp luật, thấy được giá trị của việc tôn trọng và thực hiện chính xác, đầy đủ các quy định pháp luật, từ đó tự giác tuân theo pháp luật và vận động những người khác tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, có trình độ nhận thức sâu sắc về luật thuế, người dân có thể phản ánh những bất cập trong các quy định của luật thuế, giám sát được việc thực hiện luật thuế, chống tiêu cực từ phía cán bộ thuế. Ý thức pháp luật của đối tượng nộp thuế và nhận thức của người dân về thuế còn hạn chế, kỷ cương về thuế còn lỏng lẻo ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT. Nhiều doanh nghiệp chỉ vì chạy theo đồng tiền mà bất chấp pháp luật, bất chấp đạo lý, bất chấp kỷ cương thuế miễn sao thu được nhiều lợi nhuận. Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành ảnh hưởng rất lớn tới quá trình thực thi luật thuế GTGT. Có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay. 4. Trình độ quản lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế. Thuế GTGT là thuế gián thu, đánh trên bình diện rộng, mang bản chất liên hoàn có cơ chế vận hành phức tạp nên đòi hỏi một trình độ quản lý cao ở cán bộ thuế và phương tiện quản lý hiện đại ở cơ quan thuế, phải có hệ thống máy tính nối mạng, đủ khả năng để quản lý, kiểm soát hoạt động của các đối tượng nộp thuế. Bởi, nếu cán bộ thuế không có trình độ tương xứng để quản lý các hành vi chuyển giao thuế GTGT giữa các chủ thể kinh doanh thì khó lòng đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Có thể thấy rằng cơ sở hạ tầng, phương tiện vật chất kĩ thuật của quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thực hiện luật này trên thực tế. Nếu các cơ quan thuế được trang bị đầy đủ các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ đắc lực cho quá trình làm việc thì quá trình thu thuế, kê khai thuế, hoàn thuế… được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác. Nếu các phương tiện quá lạc hậu, điều kiện cơ sở vật chất không đáp ứng đầy đủ cho các cán bộ thuế làm việc sẽ hạn chế tính chính xác, ảnh hưởng tới tâm lí của cán bộ thuế. Từ đó dẫn tới hiệu quả làm việc không cao. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,... Khi công cuộc cải cách hành chính thuế được thực hiện thì công nghệ tin học sẽ được ứng dụng mạnh mẽ và đòi hỏi chất lượng cao, nhưng thực tế hiện nay công tác triển khai và ứng dụng còn nhiều khó khăn và bất cập. Cục thuế chưa thành lập phòng hoặc tổ máy tính mà hoạt động chung với phòng kế hoạch – kế toán – thống kê với số lượng khoảng từ 2 đến 3 cán bộ nên công việc hết sức vất vả nhất là đối với các tỉnh có địa bàn hành chính rộng, có số thu lớn và có nhiều Chi cục trực thuộc ở cách xa. Hơn nữa, hầu hết đội ngũ cán bộ Chi cục làm công tác máy tính được chuyển từ các bộ phận khác sang nên việc sử dụng máy tính còn nhiều hạn chế, dễ gây sai sót trong việc quản lý thuế. Về trang thiết bị máy tính các cơ quan quản lý thuế được cung cấp tương đối đầy đủ, song sự phân phối thiết bị mang tính chất cào bằng, ở những địa phương có địa bàn rộng, số thu lớn cần máy tính nhiều thì không đủ máy tính, còn những địa bản số thu ít lại thừa máy tính hoặc sử dụng không đúng mục đích hoặc phát huy không hết tính năng của máy tính dẫn đến sự khập khiễng lớn trong việc sử dụng máy tính. Các phần mềm ứng dụng trong công tác truyền tin ở một số nơi được sử dụng chưa có hiệu quả, chức năng truyền tin hiện nay chỉ thực hiện để truyền dữ liệu mã số thuế và báo cáo nhanh từ Chi cục thuế về TCT, còn lại công việc truyền dữ liệu từ Chi cục thuế về Cục hầu như chưa được thực hiện, có chăng chỉ là trao đổi thư từ hoặc sử dụng phần mềm FPT để sao chép phần mềm đơn thuần. Trang Website Taxweb quản lý văn bản theo tiêu chuẩn Internet trong ngành không được cập nhật thường xuyên nên chỉ mang tính hình thức không phát huy hiệu quả trong công tác triển khai các chính sách, văn bản theo đúng nghĩa nhanh chóng, cập nhật. Có một số địa phương dù đã được trang bị đầy đủ máy tính cấu hình cao, modern truyền tin nhưng ít khi thực hiện việc thông tin theo đường truyền tin. Công tác đào tạo cán bộ làm công tác tin học những năm trở lại đây tuy đã được TCT quan tâm nhưng chất lượng chưa cao, nhiều khoá học chỉ mang tính chất giới thiệu chương trình không đi sâu thực tế nên việc ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn còn khó khăn. Trình độ quản lý chưa tương xứng với yêu cầu của công tác quản lý nên các cơ quan quản lý bị các doanh nghiệp “qua mặt” một cách dễ dàng; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như giữa cơ quan đăng kí kinh doanh với cơ quan thuế, giữa cơ quan thuế với cơ quan hải quan, giữa cơ quan thuế, cơ quan hải quan với cơ quan công an… nên không phát hiện được và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận thương mại hoàn lậu thuế. Cơ chế quản lý thuế còn chưa hiệu quả, chưa tạo được chính sách thuế hiệu quả cho dân nên không khuyến khích được người dân lấy hoá đơn khi mua hàng, và doanh nghiệp cũng không tự giác đưa hoá đơn cho khách hàng, thậm chí còn cố tình để không phải giao hoá đơn cho người mua. Câu chuyện của ông Bùi Xuân Luyện, trú tại P.4, Q.5 phía đại diện người mua hàng cho thấy rõ lý do người dân càng không mặn mà với hóa đơn: “Khi tôi mua một cái tivi tại điện máy NK., người bán bảo phải 3 ngày sau đến lấy hóa đơn. Nếu tôi ở Bình Dương, liệu tôi có lặn lội quay lên để lấy một tờ hóa đơn mà không biết dùng vào việc gì?” Lợi dụng điều này, nhiều DN đã không xuất hóa đơn dù khách vẫn phải trả 10% VAT. Đây là hình thức “ăn cắp” tiền của Nhà nước Cơ chế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế GTGT theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. Song pháp luật thuế GTGT không quy định rõ giá trị pháp lý của thông báo nộp thuế cũng như trách nhiệm của cơ quan thuế trong trường hợp thông báo nộp thuế có sự sai sót và việc xử lý hậu quả của sai sót này. Vì lẽ đó mối quan hệ giữa quyền hạn và trách nhiệm trong việc thu nộp thuế giá trị gia tăng chưa được giải quyết triệt để và thoả đáng. Xuất phát từ cơ chế thu nộp thuế GTGT ở nước ta hiện nay còn nhiều bất ổn – không hẳn là cơ chế tự đăng ký, tự kê khai và tự tính nộp thuế vào KBNN và cũng không hẳn là cơ chế chuyên quản như trong thời kỳ quản lý hành chính bao cấp trước đây, nghĩa là các yếu tố của cơ chế mới và các yếu tố của cơ chế cũ đan xen lẫn nhau, nên vấn đề quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế không được xác định minh bạch, rõ ràng dẫn đến rất khó xác định trách nhiệm cho mỗi bên khi có vi phạm. Chính điều này đã tạo ra nhiều lỗ hổng trong quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT. Hiện tượng ỷ lại, đổ vấy thoái thác trách nhiệm, thờ ơ với quyền và nghĩa vụ của mình cũng nẩy sinh từ cơ chế thu nộp thuế chưa hoàn thiện. Như trên đã phân tích nghĩa vụ kê khai thuế, tính thuế của đối tượng nộp thuế chỉ mang tính chất hình thức, nên theo đó quyết toán thuế cũng mang nặng tính hình thức, trình tự thủ tục, mang nặng tính chất kinh tế, còn về phương diện pháp lý vẫn là mảnh đất bỏ hoang của pháp luật thuế GTGT. Bởi trong luật thuế GTGT không hề đề cập đến thời điểm bắt đầu phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT cũng như thời điểm kết thúc nghĩa vụ này. Hay nói cách khác khi nào chủ thể nộp thuế được giải phóng khỏi nghĩa vụ nộp thuế kể từ thời điểm nộp xong thuế theo thông báo nộp thuế hay kể từ thời điểm quyết toán thuế? Sự quy định không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc về nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế của Luật thuế GTGT đã không đảm bảo nguyên tắc pháp chế và trật tự pháp luật trong quá trình thu nộp thuế GTGT. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế ở địa phương: Tổ chức bộ máy quản lý thuế ở địa phương là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong công tác tổ chức bộ máy quản lý thuế. Do đó mô hình tổ chức bộ máy cơ quan thuế ở địa phương tối ưu là vấn đề có tính chiến lược của tất cả các quốc gia. Xuất phát từ tình hình thực tiễn nước ta Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 281/HĐBT ngày 7/8/1990 thành lập hệ thống thu thuế nhà nước, trực thuộc BTC được tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, quản lý thống nhất trong cả nước việc thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN (trừ quản lý thu thuế của Hải quan) Trình độ chuyên môn của cán bộ thuế cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi luật thuế GTGT có hiệu quả hay không. Nếu các cán bộ thuế có trình độ chuyên môn tốt, có kinh nghiệm trong quá trình quản lý và thực thi luật thuế GTGT, hiểu chính xác về các quy định của pháp luật từ đó có thể áp dụng đúng, khoa học và đầy đủ trong thực tế. Ngược lại, nếu cán bộ thuế có trình độ chuyên môn không tốt sẽ dẫn tới hiểu sai và áp dụng không đúng các quy định pháp luật trong thực tế, tạo điều kiện cho các đối tượng nộp thuế trốn thuế, lậu thuế. Mặt khác không chỉ trình độ chuyên môn mà phẩm chất, đạo đức của các cán bộ thuế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình thực thi luật thuế GTGT. Những món lợi về thuế thường có giá trị lớn, nếu cán bộ thuế không có phẩm chất đạo đức tốt, không trung thực, làm việc có trách nhiệm thì rất dễ bị cám dỗ bởi những khoản lợi ích vật chất to lớn, dẫn tới cấu kết với đối tượng nộp thuế để trốn thuế, lậu thuế. Hiện nay, chúng ta thấy rằng ngay cả những cán bộ ở Tổng cục thuế vẫn còn một số nhận thức chưa chính xác về quy định pháp luật thuế GTGT, dẫn tới đưa ra những hướng dẫn chưa đúng đắn. Chẳng hạn, theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế thì thuế suất GTGT đối với một số dịch vụ mà các cơ sở kinh doanh nội địa cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất như: dịch vụ vận chuyển hàng hoá từ cảng vào khu phi thuế quan và ngược lại; dịch vụ khai thuế hải quan, dịch vụ xếp dỡ container từ bến bãi cảng lên tàu và ngược lại… được hưởng mức thuế suất 0%. Nhưng, việc Tổng cục Thuế gom tất cả các loại phí của dịch vụ xuất nhập khẩu vào chung với dịch vụ vận chuyển là chưa hợp lý, không đúng với quy định về ngành kinh tế do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gây khó khăn cho hoạt động chung của các doanh nghiệp chế xuất cũng như các doanh nghiệp trong nước cung cấp các sản phẩm dịch vụ này. 5. Hệ thống pháp luật Một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực thi pháp thuế GTGT là hệ thống pháp luật. Để thực thi pháp luật thuế GTGT đạt hiệu quả cao trên thực tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hoặc tương đối hoàn thiện, nghĩa là hệ thống pháp luật đó phải đảm bảo tính toàn diện (đầy đủ), tính đồng bộ (không trùng lắp, chồng chéo), tính phù hợp (không cao quá hoặc thấp quá so với trình độ phát triển của KT-XH) và tính kỹ thuật pháp lý cao. Ngược lại, pháp luật thuế GTGT còn thiếu các quy định cần thiết, còn nhiều bất cập với thực tế thì không thể thực thi pháp luật thuế GTGT hoặc việc thực thi không đạt hiệu quả cao, gây ra nhiều hậu quả xấu, làm phát sinh nhiều vướng mắc, giảm hiệu quả của pháp luật thuế GTGT. Hay nói cách khác, pháp luật thuế GTGT gây hiệu ứng ngược chiều với yêu cầu, mục đích đặt ra. Hiện nay hệ thống pháp luật thuế GTGT vẫn còn nhiều quy định không phù hợp với thực tiễn làm cho quá trình thực thi luật này không đạt hiệu quả cao. Luật thuế GTGT 2008 quy định có hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trừ những đối tượng phải nộp thuế theo phương pháp trực tiếp được quy định trong luật thuế GTGT, như các cá nhân SXKD, các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý. Về bản chất, phương pháp tính trực tiếp là phương pháp tính thuế trên cơ sở GTGT, nó đòi hỏi phải tính trực tiếp được phần GTGT (các chi phí đầu tư thêm) của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong từng giai đoạn luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đây là việc làm phức tạp tốn nhiều công sức và rất khó xác định, vì vậy, hiện nay Luật thuế GTGT quy định việc xác định phần GTGT của hàng hoá dịch vụ theo một cách đơn giản và cũng chỉ mang tính ước lệ: Giá trị gia tăng bằng giá trị thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra trừ giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng. Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra, mua vào gồm giá bán cộng thuế GTGT. Như vậy, ở đây giá tính thuế của phương pháp trực tiếp không phải là giá chưa có thuế GTGT như đã dẫn ở trên mà là giá đã bao gồm cả thuế GTGT, do đó đã gây ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế, rõ ràng những đơn vị phải xác định nghĩa vụ thuế GTGT theo phương pháp này sẽ ở vào vị thế bất lợi hơn, trong khi đó họ thường là những chủ thể kinh doanh có ít vốn, phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ. Ở đây pháp luật thuế GTGT không đảm bảo được nguyên tắc dù tính thuế theo phương pháp nào thì các đối tượng có hoạt động kinh doanh như nhau, áp dụng thuế suất như nhau với mặt bằng giá giống nhau thì phải nộp thuế như nhau. Mặt khác, tình trạng thuế chồng lên thuế đã không khắc phục được triệt để khi các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có quan hệ giao dịch với đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp hoặc ngược lại. Qua sự phân tích trên, thực ra phương pháp trực tiếp không phải là phương pháp dùng để tính và thu thuế trong thực hành thu thuế, mà đó chỉ là một cách tiếp cận khoa học trong nghiên cứu nhằm chỉ rõ thuế GTGT là một loại thuế chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm mỗi khi có GTGT xuất hiện. Việc phân định “giá trị tăng thêm”, “giá trị đầu vào”, “giá trị đầu ra”, xét dưới góc độ tính thuế, hạch toán thuế và thu thuế là không có ý nghĩa thực tế, vì vậy việc quy định hai phương pháp tính thuế GTGT đã phần nào gây ra sự bất ổn và chưa thực tế. Tất nhiên, chúng ta cũng hiểu được rằng sở dĩ Luật thuế GTGT quy định hai phương pháp tính thuế như vậy vì xuất phát từ phạm vi của đối tượng nộp thuế GTGT. Quy định này xét ở một mức độ nào đó phù hợp với điều kiện thực tế của VN song chưa thực sự bảo đảm sự bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế GTGT, thể hiện ở chỗ các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, còn các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Do vậy, đã kéo theo nhiều hậu quả phát sinh tiêu cực trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Ngoài ra luật thuế GTGT còn quy định ứng với hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn tương ứng đó là hoá đơn GTGT (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) và hoá đơn bán hàng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp). Hoá đơn GTGT là căn cứ pháp lý xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, hoá đơn bán hàng không được coi là căn cứ pháp lý xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Mặc dù chúng đều là hoá đơn hợp pháp do BTC phát hành. Thực tế thực hiện giá tính thuế GTGT ở nước ta hiện nay nổi cộm vấn đề giá ghi trong hoá đơn chứng từ thường thấp hơn rất nhiều so với giá thực bán đặc biệt đối với các mặt hàng tiêu dùng mà trong đó tiêu biểu là mặt hàng xe máy. Với thủ thuật “đao giá” này tất cả các DNTN cũng như CTTNHH kinh doanh xe máy đóng trên địa bàn Hà Nội không có DN nào có lãi nên họ vừa không phải nộp thuế thu nhập DN vừa lại được hoàn thuế GTGT vì giá đầu vào bao giờ cũng cao hơn giá đầu ra. Trong khi đó người tiêu dùng lại hoàn toàn thờ ơ về vấn đề này, bởi họ thấy rằng việc lấy hoá đơn hay không lấy hoá đơn khi mua hàng, hoá đơn ghi cao hơn hay thấp hơn giá thực tế mà họ phải trả cũng không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của mình. Đây chính là “cơ hội vàng” cho những cơ sở kinh doanh làm ăn không chân chính để trốn thuế, lậu thuế. 6. Chế tài xử lí các hành vi vi phạm pháp luật thuế giá trị gia tăng Các chế tài xử lí hành vi vi phạm pháp luật thuế giá trị gia tăng cũng là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng. Nếu các hành vi vi phạm luật thuế GTGT được xử lí nghiêm minh, hậu quả pháp lí mà các chủ thể phải gánh chịu tương xứng với mức độ và hậu quả mà hành vi vi phạm của các chủ thể gây ra thì sẽ đủ sức răn đe, mang tính giáo dục, hạn chế và ngăn ngừa những vi phạm pháp luật khác xảy ra. Ngược lại nếu chế tài xử lí các hành vi vi phạm pháp luật thuế GTGT không đủ mạnh sẽ không có tính răn đe, tạo tâm lí coi thường pháp luật cho các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật thuế GTGT. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT Về phương pháp tính thuế, qua thực tiễn áp dụng thuế GTGT phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT đã không có mấy tác dụng thậm chí còn phản ánh sai lệch nghĩa vụ thuế GTGT cũng như bản chất của thuế GTGT và đưa đến nhiều hậu quả phái sinh khác. Bởi vậy, pháp luật thuế GTGT cần thiết chỉ nên quy định một phương pháp duy nhất đó là phương pháp khấu trừ thuế Về khấu trừ thuế GTGT, trước hết để đảm bảo những khía cạnh pháp lý của việc khấu trừ thuế cũng như bản chất liên hoàn của thuế GTGT cần chuẩn hoá những quy định về nguyên tắc khấu trừ thuế: 1. Chỉ khấu trừ đầu vào cho các hoạt động chịu thuế GTGT; 2. Có thu mới khấu trừ, không khấu trừ khống; 3. Mua hàng hoá, dịch vụ không có hoá đơn, chứng từ hoặc có hoá đơn nhưng không hợp pháp thì không được khấu trừ. Sự chuẩn hoá những quy định này sẽ tạo ra kỷ cương trong khấu trừ thuế, hạn chế việc gian lận lợi dụng để chiếm đoạt tiền của NSNN. Thứ hai, quy định rõ nguyên tắc xác định số tiền được khấu trừ: số tiền có quyền khấu trừ là số thuế đầu vào tính trên một sản phẩm hàng hoá dịch vụ mua vào và còn tuỳ thuộc vào nghiệp vụ đó được khấu trừ toàn bộ hay một phần. Thứ ba, quy định cụ thể các căn cứ xác định số thuế được khấu trừ cụ thể đó là hoá đơn GTGT khi mua hàng biên lai nộp thuế trong trường hợp nhập khẩu hoặc phiếu xuất kho trong trường hợp hàng hoá dịch vụ doanh nghiệp tự cung ứng. 3.2 Nâng cao ý thức pháp luật cho các công dân thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng đạt hiệu quả cao. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về thuế cho mọi đối tượng. Người tiêu dùng là một thành viên quan trọng của chu trình thuế GTGT và chính họ là người đảm bảo thành công cho sắc thuế này. Không nên xem họ là người chịu thuế đơn thuần mà cần phải xem họ là đối tác trong quá trình thực hiện thuế GTGT và mọi loại thuế khác. Các thông tin về thuế phải được cập nhật nhanh chóng trên mạng và hoàn toàn miễn phí. Những thông tư cơ bản phải được chuyển đến mọi đối tượng nộp thuế theo mức giá chỉ bao gồm chi phí in và lưu thông. Tránh tình trạng kinh doanh văn bản Nhà nước 3.3 Nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ thuế. Thường xuyên chú trọng công tác rèn luyện phẩm chất và nghiệp vụ cho công chức ngành thuế, hải quan. Trong hành xử công việc hàng ngày, phẩm chất tốt sẽ tạo nên sự vững vàng, kiên quyết và nghiệp vụ tinh thông sẽ tạo ra sự khéo léo, tế nhị. Chính con người chứ không phải cái gì khác làm nên cơ chế. Do đó, bên cạnh công tác bồi dưỡng, cần chú ý đến việc nâng cao thu nhập và điều kiện làm việc cho cán bộ, nhân viên trong ngành nói riêng và toàn thể công chức nói chung 3.4 Đổi mới quá trình quản lý và sử dụng chứng từ, hoá đơn: Bộ Tài chính nên cho phép một cách rộng rãi các doanh nghiệp tự in và tự chịu trách nhiệm về hoá đơn của mình. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần kiểm tra sự tuân thủ chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời chuẩn hoá kế toán viên tại cơ sở kinh doanh bất kể quy mô nào. Nhà nước cần công bố giá trị pháp lý của hoá đơn bán hàng đối với người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ đồng thời khuyến khích các biện pháp kinh tế cho người tiêu dùng nhận hoá đơn khi mua hàng. Trao Doanh nghiệp quyền lựa chọn phương án nộp thuế GTGT: Doanh nghiệp ở Nhật Bản chỉ có nghĩa vụ nộp thuế tiêu dùng khi doanh thu trên 10 triệu Yên. Doanh nghiệp có doanh thu trên 10 triệu đến 50 triệu Yên thì được lựa chọn hai cách thức tính thuế. Một là, phương pháp tính thuế khấu trừ và hai là phương pháp tính thuế giản lược. Phương pháp tính thuế giản lược là phương pháp tính doanh thu đầu vào bằng một tỷ lệ nhất định đối với doanh thu đầu ra, trên cơ sở đó xác định khoản thuế GTGT mà DN phải nộp ở khâu cuối cùng. Các DN lựa chọn phương pháp này phải kê khai trong 2 năm liên tiếp. Phương pháp này đã giảm được tính phức tạp của việc tính thuế đầu vào. Với việc tự lựa chọn phương pháp nộp thuế, DN có thể đạt được lợi ích vật chất nhất định nên họ sẽ có ý thức tuân thủ nộp thuế hơn Nếu so sánh phương pháp tính thuế giản lược ở Nhật với phương pháp tính thuế trực tiếp trên phần thuế GTGT theo điều 11 của Luật thuế GTGT có thể thấy pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam mới áp dụng cho các đối tượng chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định pháp luật bao gồm: các cơ sở kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể và cá nhân kinh doanh cũng như DN nước ngoài có cơ sở thường trú và DN không có cơ sở thường trú ở VN. Để đảm bảo công bằng trong việc áp dụng phương pháp đánh thuế, nhiều ý kiến đồng tình cho rằng nên mở rộng đối tượng được áp dụng phương thức này là các DN nhỏ và vừa nói chung. Việc lựa chọn phương pháp này sẽ tạo lợi ích cho DN trong việc kê khai nộp thuế, giảm bớt chi phí cho quản lý thuế đầu vào trong khi vẫn phải thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra cần tăng cường công tác quản lý hoá đơn hợp pháp bằng nhiều biện pháp đồng bộ: - Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in. Biện pháp này tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp đối với thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và quản lý hoá đơn chứng từ. - Tăng cường quản lý hoá đơn từ khâu đầu nhằm đảm bảo bán hoá đơn đúng đối tượng, đúng địa chỉ bằng các nghiệp vụ cụ thể của ngành thuế. - Sử dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong việc in ấn hoá đơn. - Tăng các mức phạt đối với các vi phạm về hoá đơn. MỤC LỤC MỞ ĐẦU KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan