Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng

LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống tổ chức tín dụng luôn đóng vai trò to lớn đối với nền kinh tế, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi Việt Nam đang xây dựng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa với nhiều cạnh tranh gay gắt đang đặt ra cho các tổ chức tín dụng những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải đổi mới đa dạng hóa và hoàn thiện các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Là một trong những hoạt động tín dụng truyền thống, nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước đóng vai trò quan trọng trong giao dịch kinh tế toàn cầu nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế. Ở nước ta, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện từ thập kỷ 80 và được đề cập đến trong các văn bản pháp luật nhưng còn mang tính chất như là một công cụ hỗ trợ do Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp quốc doanh vay vốn nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong vài năm gần đây, bảo lãnh ngân hàng thật sự là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thông dụng trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng do hiệu quả bảo đảm cao cho quyền lợi của người thụ hưởng. Vì vậy để làm rõ hơn vấn đề này chúng ta đi vào tìm hiểu vấn đề “ Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng ” MỤC LỤC NỘI DUNG 2 1. Khái quát chung: 2 1.1 Bảo lãnh ngân hàng là gì ?. 2 1.2 Chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng : 2 2.Quyền nghĩa vụ và ý nghĩa của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng. 3 2.1 Quyền nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh và ý nghĩa của việc quy định : 3 2.2 Quyền và nghĩa vụ của khách hàng và ý nghĩa của việc quy định: 7 2.3 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh và ý nghĩa của việc quy định: 8 3. Thực trạng chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng. 9 4. Hướng hoàn thiện của pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của dich vụ bảo lãnh. 12 KẾT LUẬN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3233 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống tổ chức tín dụng luôn đóng vai trò to lớn đối với nền kinh tế, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi Việt Nam đang xây dựng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa với nhiều cạnh tranh gay gắt đang đặt ra cho các tổ chức tín dụng những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải đổi mới đa dạng hóa và hoàn thiện các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Là một trong những hoạt động tín dụng truyền thống, nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước đóng vai trò quan trọng trong giao dịch kinh tế toàn cầu nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế. Ở nước ta, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện từ thập kỷ 80 và được đề cập đến trong các văn bản pháp luật nhưng còn mang tính chất như là một công cụ hỗ trợ do Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp quốc doanh vay vốn nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong vài năm gần đây, bảo lãnh ngân hàng thật sự là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thông dụng trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng do hiệu quả bảo đảm cao cho quyền lợi của người thụ hưởng. Vì vậy để làm rõ hơn vấn đề này chúng ta đi vào tìm hiểu vấn đề “ Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng ” NỘI DUNG 1. Khái quát chung: 1.1 Bảo lãnh ngân hàng là gì ? Xét về phương diện học thuật, bảo lãnh ngân hàng vừa có ý nghĩa là danh từ kinh tế, vừa có tính cách là một thuật ngữ pháp lý. Với ý nghĩa là một danh từ kinh tế, bảo lãnh ngân hàng có thể được hiểu là một nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng cho khách hàng thông qua việc ngân hàng cam kết trả nợ thay cho các khách hàng đối với bên có quyền, nếu đến thời hạn mà người này không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy là một hình thức cấp tín dụng nhưng “ bảo lãnh không phải là cho vay vì người bảo lãnh không hề ứng tiền mà chỉ nhận bảo đảm cho người thiếu nợ đối với chủ nợ mà thôi”. Còn với tính cách là một thuật ngữ pháp lý, bảo lãnh ngân hàng lại được định nghĩa tương đối khác nhau giữa pháp luật thực định và quan niệm luật học. Theo pháp luật thực định, “ bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay” 1.2 Chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng : Nghiệp vụ bảo lãnh của các TCTD vốn mang bản chất là hoạt động thương mại nên có cấu trúc pháp lý khá đặc thù, bao gồm sự gắn kết giữa hai loại hợp đồng – hợp đồng bảo lãnh ( được kí kết giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ) và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh ( được ký kết giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh ). Như vậy chúng ta có thể nhận thấy được chủ thể trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng bao gồm 3 chủ thể : Người bảo lãnh ( các TCTD ) Người được bảo lãnh ( khách hàng ) Người nhận bảo lãnh ( bên có quyền ) Có thể mô tả cấu trúc chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh ngân hàng bằng sơ đồ sau đây : Người bảo lãnh ( các tổ chức tín dụng ) (2) (1) Người nhận bảo lãnh Người được bảo lãnh ( khách hàng ) (1) (3) (2) Hợp đồng dịch vụ bảo lãnh Hợp đồng bảo lãnh Hợp đồng nghĩa vụ tài sản cần được bảo đảm Giao dịch bảo lãnh được thiết lập giữa ba chủ thể trong đó, ngân hàng là chủ thể tham gia trực tiếp vào hai quan hệ pháp luật; quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng được bảo lãnh (hình thức pháp lý của quan hệ này là hợp đồng dịch vụ bảo lãnh) và quan hệ giữa ngân hàng với người nhận bảo lãnh – bên có quyền (hình thức pháp lý của quan hệ này là hợp đồng bảo lãnh). Khi tham gia vào hai mối quan hệ pháp lý này, ngân hàng không chỉ có hai tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau, xét trong từng mối quan hệ mà còn độc lập về quyền và nghĩa vụ đối với các bên đối tác trong từng mối quan hệ . 2.Quyền nghĩa vụ và ý nghĩa của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng. 2.1 Quyền nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh và ý nghĩa của việc quy định : Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tổ chức tín dụng phải xác lập 2 mối quan hệ pháp lí khác nhau với hình thức hợp đồng khác nhau. Vì vậy chủ thể này sẽ có 2 tư cách pháp lí khác nhau với cơ cấu quyền và nghĩa vụ pháp lí khác nhau a. Quyền nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh Trong quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh với khách hàng được bảo lãnh tổ chức tín dụng có tư cách là bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh, theo luật định( K1- Điều 16 quy chế bảo lãnh ngân hàng ) có các quyền và nghĩa vụ sau: Quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu thông tin về khả năng tài chính và các tài liệu khác liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh, báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh, báo cáo tình hình thực hiện hợp đồng và các nghĩa vụ có liên quan đến giao dịch bảo lãnh. Cơ sở khoa học vủa việc quy định quyền năng pháp lí này cho tổ chức tín dụng xuất phát: 1 ngân hàng chấp nhận bằng tài sản của mình bảo lãnh cho 1 nghĩa vụ tài chính của khách hàng để đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh cũng như nghĩa vụ hoàn trả khi tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng. Trên cơ sở đó hạn chế các rủi ro mà ngân hành có thể phải gánh chịu. Qui định này nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng, nâng cao ý thức trách nhiệm thực hiện hợp đồng của khách hàng được bảo đảm. Đồng thời cũng nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế. Quyền yêu cầu khách hàng đề nghị bảo lãnh phải có sự bảo đảm bằng tài sản cho nghĩa vụ hoàn trả của họ đối với mình. Việc pháp luật qui định này không ngoài mục đích là bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho tổ chức tín dụng. Bảo lãnh cũng như các hoạt động cấp tín dụng khác của ngân hàng, là loại hình kinh doanh chứa đựng rủi ro cao. Vì vậy, ngân hàng có quyền yêu cầu các biện pháp bảo đảm, nhằm hạn chế thấp nhất những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo an toàn vốn, lợi nhuận của ngân hàng khi tham gia hoạt động cấp tín dụng. Quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh thanh toán tiền phí dịch vụ bảo lãnh cho mình theo thoả thuận trong hợp đồng, sau khi phát hành thư bảo lãnh và gửi cho bên nhận bảo lãnh. Việc qui định này cho tổ chức tín dụng xuất phát từ đặc điểm bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, là hoạt động bảo lãnh có thu phí. Theo thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ, tổ chức tín dụng phải phát hành thư bảo lãnh để cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Do đó tổ chức tín dụng đương nhiên có quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh thanh toán tiền phí dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền yêu cầu khách hàng hoặc bên phát hành bảo lãnh đối ứng hoàn trả số tiền bảo lãnh mà tổ chức tín dụng đã trả thay. Điều này cũng đã được thể hiện ngay trong khái niệm của bảo lãnh ngân hàng. Trường hợp tổ chức tín dụng phải thực hiện nghĩa vụ thay khách hàng thì lúc này giữa tổ chức tín dụng và kháh hàng không chỉ có quan hệ cấp tín dụng cấp với hình thức bảo lãnh mà còn phát sinh thêm quan hệ tín dụng cho vay, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người cung ứng dịch vụ bảo lãnh mà còn có thêm tư cách là người cấp tín dụng với hình thức cho vay. Khi đó khách hàng phải thực hiện cả 2 nghĩa vụ trả phí dịch vụ bảo lãnh và hoàn trả số tiền mà tổ chức tín dụng đã ứng trước để thực hiện nghĩa vụ thay cho mình với bên nhận bảo lãnh. Quyền yêu cầu hoàn trả của tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích của chính mình. Ngoài ra còn có một số quyền khác như : Quyền hạch toán ghi nợ khách hàng hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối với số tiền trả thay. - Quyền xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng theo quy định tại thông tư số 07/2003/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng - Đề nghị tổ chức tín dụng khác xác nhận việc bảo lãnh của mình với khách hàng. Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị bảo lãnh của khách hàng hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối ứng trong thời hạn tối đa là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Được khởi kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên phát hành bảo lãnh đối ứng vi phạm hợp đồng Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng khác quy định tại Điều 3 của Quy chế này nếu được bên nhận bảo lãnh chấp thuận bằng văn bản. * Bên cạnh các quyền trên, tổ chức tín dụng có các nghĩa vụ : Thực hiện nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng được bảo đảm. Nghĩa vụ này có mục tiêu hướng tới việc phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Chỉ khi nào tổ chức tín dụng (với tư cách là bên cung ứng dịch vụ bảo lãnh) đã thực hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền yêu cầu bên hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán số tiền công là phí dịch vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đã ký với khách hàng. Đôn đốc khách hàng thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Hoàn trả đầy đủ tài sản bảo đảm nếu có và giấy tờ có liên quan khi khách hàng đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh. b, Quyền và nghĩa vụ của tổ chưc tín dụng trong hợp đồng bảo lãnh Trong trường hợp bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì có các quyền như của khách hàng vay khi cầm cố thế chấp tài sản. Trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh, có thể phân loại hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn vụ mà cũng mang đặc diểm của hợp đồng có điều kiên, bên có nghĩa vụ trong hợp đồng này là những tổ chức tín dụng theo đó nghĩa vụ chủ yếu của tổ chức tín dụng là thực hiện cam kết đối với những người nhận bảo lãnh khi khách hàng được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của họ khi đến hạn. Việc quy định này bảo đảm nghĩa vụ hợp pháp của bên nhận bảo lãnh và có tác dụng đảm bảo lợi ích của khách hàng được bảo lãnh Quyền của tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có quyền từ chối yêu cầu thực hiện nghĩa vụ quân dân cự của người bảo lãnh, cơ sở của quy định này là ở chỗ mặc dù người bảo lãnh đã cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nhưng nếu việc đòi tiền của người nhận là không có cơ sở pháp lý thì người bảo lãnh có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ. Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ bảo lãnh thì có quyền yêu cầu khách hàng vay thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Ở đây có sự chuyển giao quyền yêu cầu từ bên nhận bảo lãnh sang bên bảo lãnh. Tuy nhiên, có một vấn đề chưa được làm rõ là liệu bên được bảo lãnh ( khách hàng vay ) có thể phản tố lại bên bảo lãnh bằng những lý do xuất phát từ quan hệ với TCTD cho vay ( bên nhận bảo lãnh) không. Ví dụ sau khi bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với TCTD, thì nghĩa vụ chính giữa khách hàng vay vốn và TCTD cho vay hết thời hiệu. Trong trường hợp này liệu bên bảo lãnh có thể lấy lý do là nghĩa vụ trả nợ ( nghĩa vụ chính ) đã hết thời hiệu mà từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh không và nếu có thì bằng cách nào có thể bảo vệ lợi ích của bên bảo lãnh ? Vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để trong pháp luật Việt Nam. Pháp luật thực định về bảo lãnh ngân hàng không chỉ có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh mà còn có những quy định riêng về quyền, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong những loại bảo lãnh đặc thù như bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh tại các điều 24 quy chế bảo lãnh ngân hàng. Nhìn chung quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh là giống nhau tuy nhiên bảo lãnh đặc thù vẫn có những quyền và nghĩa vụ riêng. Ví dụ: trong xác nhận bảo lãnh, quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng khác xác nhận bảo lãnh của mình được thay thế bằng quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng khác phát hành thư bảo lãnh cho khách hàng của mình… Những quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh theo pháp luật hiện hành bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức tín dụng cũng như các chủ thể khi tham gia hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Trong trường hợp bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì có các nghĩa vụ khác giống như nghĩa vụ của khách hàng vay khi cầm cố, thế chấp tài sản. Ngoài ra, bên bảo lãnh có nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay như đã cam kết, nếu đến hạn mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ . 2.2 Quyền và nghĩa vụ của khách hàng và ý nghĩa của việc quy định: Khi tham gia vào giao dịch bảo lãnh ngân hàng, khách hàng được bảo lãnh có tư cách pháp lí là người hưởng dịch vụ bảo lãnh, tư cách này phát sinh từ mối quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Đối với hợp đồng bảo lãnh, bên được bảo lãnh không phải là chủ thể bắt buộc hình thành hợp đồng này, vì vậy trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, khách hàng chỉ tham gia với tư cách bên nhận hưởng dịch vụ bảo lãnh, theo Đ19 quy chế bảo lãnh ngân hàng, khách hàng có các quyền và nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ chính xác thông tin tài liệu liên quan đến việc bảo lãnh theo yêu cầu của tổ chức tín dụng. Nghĩa vụ hoàn trả cho tổ chức tín dụng bảo lãnh, tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối ứng phí bảo lãnh và các loại phí khác liên quan. Nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã trả thay để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí trực tiếp phát sinh từ việc bao lãnh Thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối ứng Chịu sự kiểm tra kiểm soát của tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đối với các hoạt động có liên quan đến giao dịch bảo lãnh. Khách hàng có quyền yêu cầu tổ chức tin dụng thực hiện đúng những cam kết trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh. Quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật nếu tổ chức tín dụng vi phạm hợp đồng cam kết. Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho bên khác có đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Những quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng cũng như các chủ thể tham gia giao dịch. 2.3 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh và ý nghĩa của việc quy định: Bên nhận bảo lãnh có là bên thụ hưởng, là chủ thể tham gia vào hợp đồng bảo lãnh. Vì vậy, quyền năng cơ bản nhất mà pháp luật trao cho bên thụ hưởng là quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Để thực hiện quyền năng này 1 cách hiệu quả, bên nhận bảo lãnh cần chứng minh quyền chủ nợ cũng như cung cấp các giấy tờ liên quan cho tổ chức tín dụng khi yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ. Tại điểm 3.3 Mục III ( Thông tư 06/2000 ) quy định tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh có quyền sau : “ Quyền yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay cho khách hàng vay như đã cam kết, nếu đến hạn mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ” Quyền giữ giấy tờ về tài sản, hoặc tài sản bảo lãnh (trong trường hợp có thỏa thuận với bên bảo lãnh ). Với quyền này, TCTD rất thuận lợi trong việc kiểm soát tình trạng tài sản về mặt thực tế hoặc trên phương diện pháp lý. TCTD cũng có thể tránh được những rủi ro đối với tài sản như nguy cơ tẩu tán tài sản, trốn trách thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh. Đặc biệt, khi thực hiện quyền này, TCTD cũng được bảo đảm quyền ưu tiên thanh toán trong trường hợp xấu nhất là phải xử lý tài sản. Đồng thời thu hồi vốn sẽ được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi. Quyền yêu cầu bên bảo lãnh cung cấp những thông tin về thực tracng tài sản. Điều này cũng nhằm vào mục đích cao nhất là tạo cho TCTD có một cơ sở chắc chắn để tin vào khả năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên bảo lãnh Ngoài ra trong thông tư còn có quy định một số các quyền khác như: Quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tào sản bảo lãnh nếu có thỏa thuận . Quyền yêu cầu bên bảo lãnh ngừng ngay việc sử dụng và phải bổ sung hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác nếu tài sản bị mất, hư hỏng. Nếu bên bảo lãnh không thực hiện thì TCTD có quyền xử lý tài sản bảo lãnh để thu hồi vốn. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch bảo lãnh ngân hàng theo pháp luật thực định quy định tương đối đầy đủ, chặt chẽ, cụ thể, theo hướng mở rộng, trao quyền, tôn trọng sự thoả thuận của các bên. tạo sự chủ động cho các chủ thể khi tham gia giao dịch này. 3. Thực trạng chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng Pháp luật việt nam không có quy định cụ thể về điều kiện chủ thể quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng. Qua các quy định có liên quan, có thể xác định được các điều kiện này như sau: Nhóm thứ nhất, người bảo lãnh. Căn xứ vào các nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự, người bảo lãnh là người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ngoài ra, người đứng ra bảo lãnh phải là người có tài sản bảo lãnh được tổ chức tín dụng chấp nhận thông tư số 07/2003/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn không quy định rõ người bảo lãnh có thể là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài hay không nhưng Điều 826 bộ luật dân sự thì bộ luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có nghĩa là “ các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Chúng tôi cho rằng việc cho phép bảo lãnh bằng tài sản bên thứ 3 là cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài là hợp lý miễn là người bảo lãnh có điều kiện để thực hiện việc bảo lãnh. Đặc biệt là đối với các tổ chức nước ngoài có uy tín, việc bảo lãnh này còn bảo đảm tính an toàn và có hiệu lực cao đối hơn bởi lẽ thi hành bảo lãnh sẽ có nhiều cơ sở thực hiện. Hơn nữa quy định này còn tạo điều kiện mở rộng tín dụng với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà không cần tự mình thực hiện việc cầm cố, thể chấp để vay vốn. Nhóm thứ 2, người bảo lãnh. Người nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là bên cho vay – các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng. muốn trở thành bên cho vay theo luật các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phải đáp ứng các điều kiện sau: Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hang nhà nước cấp Có điều lệ do Ngân hàng nhà nước chuẩn y Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng Những điều kiện trên là căn cứ để xác định tư cách pháp lý của bên cho vay cũng như tính hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng. qua đó, giúp loại bỏ được các chủ thể không đủ tiêu chuẩn hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người đi vay. Nhóm thứ 3, người bảo lãnh. Người được bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng là khách hàn vay vốn tại tổ chức tín dụng. theo pháp luật hiện hành, các chủ thể này bao gồm các nhân, tổ chức, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, pháp nhân Việt Nam và các cá nhân, pháp nhân nước ngoài có đủ điều kiện vay vốn tại tổ chức tín dụng. điều cho vay vốn được thể hiện trước tiên ở năng lực hành vi và năng lực pháp luật của chủ thể, tiếp đó là các điều kiện về mục đích sử dụng vốn hợp pháp, khả năng tài chính đảm bảo cho dự án, phương án sử dụng vốn vay khả thi và hợp pháp. Nhìn chung, các điều kiện này tương đối đầy đủ và phù hợp với thực tế. các điều kiện vừa bao quát các chủ thể vừa đưa ra những tiêu chuẩn cần thiết cho đối tượng vay vốn. Thông thường, quan hệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng bao gồm các chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi như trên. Ngoài ra, trên thực tế còn phát sinh 1 số trường hợp đặc biệt như bảo lãnh bằng tài sản của người chưa thành niên hoặc người không có năng lực hành vi ( người được giám hộ), bảo lãnh của pháp nhân và bảo lãnh bằng tài sản của người có vợ hoặc chồng. Nhóm thứ tư, bảo lãnh bằng tài sản của người chưa thành nên hoặc người không có năng lực hành vi. Theo Điều 79 Bộ luật dân sự: người giám hộ phải quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình. Việc định đoạt tài sản của người được giám hộ chỉ thực hiện vì lợi ích của người đó. Đồng thời việc cầm cố, cho vay, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Luật không có quy định người giám hộ có thể dùng tài sản của người được giám hộ để bảo lãnh không. Tuy nhiên, người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ để bảo lãnh cho nghĩa vụ của chính mình Nhóm thứ năm, bảo lãnh của pháp nhân. Với tư cách là 1 chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, về nguyên tắc pháp nhân có thể đem tài sản để bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ. người đứng ra ký kết hợp đồng bảo lãnh sẽ là người đại diện của pháp nhân hoặc người được ủy quyền. cho đến nay, luật chưa quy định các điều kiện về trách nhiệm của người được ủy quyền liên quan đến việc bảo lãnh bằng tài sản của pháp nhân cũng như các thủ tục để thực hiện việc bảo lãnh. Trong thực tế hai trường hợp trái ngược nhau có thể xảy ra. Trường hợp thứ nhất là 1 công ty đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của giám đốc công ty đó. Trường hợp thứ 2, giám đốc công ty dùng tài sản cá nhân đứng ra bảo lãnh khoản vay của công ty. Trong cả 2 trường hợp trên, tổ chức tín dụng đều ký kết hợp đồng bảo lãnh 3 bên với các chủ thể là người bảo lãnh, người được bảo lãnh, người nhận bảo lãnh. Với trường hợp thứ nhất, giám đốc nhân danh công ty ký kết hợp đồng bảo lãnh với tư cách người bảo lãnh, đồng thời ký hợp đồng với tư cách là người được bảo lãnh. Ngược lại, trường hợp thứ 2, giám đốc kí hợp đồng với tư cách là người bảo lãnh, đồng thời nhân danh công ty kí hợp đồng với tư cách bên được bảo lãnh. Bảo lãnh của người có vợ/chồng. Việc bảo lãnh bằng tài sản của người có vợ/chồng liên quan đến chế độ tài sản chung/riêng của vợ/chồng. Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, việc định đoạt tài sản tiêng do chủ sở hữu quyết định còn đối với tài sản chung, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Liên quan đến bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng của người có vợ/chồng có 2 vấn đề cần làm rõ. Thứ nhất xác định thế nào là tài sản chung/riêng của vợ/chồng và thứ 2 là trách nhiệm của vợ/chồng liên quan tới giao dịch dân sự do một bên thực hiện. 4. Hướng hoàn thiện của pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của dich vụ bảo lãnh. Trong quá trình tham gia giao dịch nói chung và giao dịch bảo lãnh ngân hàng nói riêng, việc trao quyền tự quyết cho chủ thể hợp đồng có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu thực hiện đúng các quy định về thẩm quyền ký bảo lãnh trên cở sở những quy định cụ thể của pháp luật thì sẽ bảo vệ được lợi ích chính đán của tổ chức tín dụng bảo lãnh trước pháp luật về vốn và tài sản, tránh nguy cở thất thoát hoặc bị chiếm dụng, tránh được việc bị tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và những người thực hiện sẽ bị xử lý về trách nhiệm. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng có thẩm quyền trực tiếp ký các văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, hoặc ủy quyền cho người khác (gọi là người được ủy quyền ) ký các văn bản bảo lãnh. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về cách thức ủy quyền và các văn bản ủy quyền, nhất là các văn bản ủy quyền lại. Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền ký kết của các văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, theo chúng tôi, pháp luật cần có quy định rõ ràng về cơ chế ủy quyền, trong đó cần chấp nhận phương thức ủy quyền thường xuyên giữa tổng giám đốc cho giám đốc chi nhánh. Có như vậy mới phát huy được hết vai trò khả năng của chi nhánh mà đại diện là Giám đốc chi nhánh. Việc quy định như trên cũng đảm bảo được tính chịu trách nhiệm của người ủy quyền, làm cho việc ủy quyền trở nên chắc chắn an toàn và hiệu quả hơn. Mặt khác, pháp luật cũng cần có quy định thống nhất quy định về việc ủy quyền lại, theo hướng cho phép người dược ủy quyền có thể ủy quyền lại cho người thứ ba, nếu được người ủy quyền đầu tiên đồng ý bằng văn bản. Điều này rất có ý nghĩa với thực tiễn hoạt động bảo lãnh ngân hàng, bởi lẽ trong thực tế các chi nhánh của tổ chức tín dụng đặt tại các thành phố lớn có lưu lượng khách hàng lớn lớn và có nhu cầu giao kết hợp đồng với khách hàng, trong đó có việc phát hành cam kết bảo lãnh ngân hàng. Trên thực tế, việc thành lập các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh là rất cần thiết mà các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh là rất cần thiết với các phòng giao dịch của tổ chức tín dụng lại thường đặt trụ sở cách xa với chi nhánh. Điều này khiến cho việc chuyển thư bảo lãnh từ các phòng giao dịch về trụ sở chi nhánh phải mất rất nhiều thời gian, đến việc bỏ lỡ cơ hội kjinh doanh của ngân hàng đối với khách hàng. Xuất phát từ thực tiễn trên đây, chúng tôi nhận thấy pháp luật nên quy định theo hướng cho phép ủy quyền lại để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng phát hành thư bảo lãnh tại các chi nhánh hay phòng giao dịch được thuận tiện. Bổ sung các quy định về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản tạo cơ sở pháp lý an toàn cho việ thực hiện bảo lãnh hợp đồng tín dụng. Pháp luật về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản có ý nghĩa rất quan trọng đối với thực thi pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng. tuy nhiên hiện nay chúng ta chưa có một hệ thống đăng ký sở hữu tài sản thống nhất. Việc đăng ký chỉ được thực hiện đối với một số ít các loại tài sản với quy trình và thủ tục khác nhau gây khó khăn cho bảo đảm tiền vay nói chung và bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng. Để khắc phục những tình trạng trên, theo chúng tôi nên xây dựng hệ thống đăng ký tài sản theo hướng sau: Ban hành luật chung về dăng ký quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, qua đó thống nhất quá trình đăng ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký; Xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký tách biệt với hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu về nội dung cơ bản của mỗi quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng cho ta thấy quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể rất phong phú. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp lệnh về bảo lãnh thực hiện hợp đồng bảo lãnh tín dụng cũng có nhiều đổi mới quan trọng góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các chủ thê cũng như đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng. và cũng phải thừa nhận những mặt tồn tại thiếu sót của pháp luật qua đó nhóm chúng tôi cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh. Tuy là do một tập thể cùng góp sức nhưng do trình độ nhận thức còn hạn chế, nên không thể tránh được thiếu sót. Kính mong được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn cho nhóm chúng tôi để chúng tôi hoàn thiện hơn về vấn đề này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân – 2008. Quyết định số 26/2006/QĐ NHNN về việc ban hành Quy chế Bảo lãnh. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng năm 2004. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập kỳ ngân hàng- Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hà.doc
Luận văn liên quan