Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Chất lượng của văn bản pháp luật vừa phản ánh hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước vừa cho thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật không thể tránh khỏi những sai sót dẫn đến những khiếm khuyết của văn bản pháp luật đòi hỏi cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, không để những văn bản pháp luật khiếm khuyết ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước. Để lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp, chủ thể có thẩm quyền cần phải dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của văn bản pháp luật và bản chất của mỗi biện pháp xử lý. Nhắm giúp cho việc xác định biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được dễ dàng, đúng đắn em xin chọn đề tài “Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết”.
Lời mở đầu 1
Nội dung 1
I – Khái quát chung 1
1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết .1
2. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết 1
II – Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết 2
1. Biện pháp hủy bỏ 2
2. Biện pháp bãi bỏ 3
3. Biện pháp thay thế .4
4. Biện pháp đình chỉ thi hành .4
5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành 5
6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung 5
III – Bình luận về các biên pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết . .6
Kết luận 8
Danh mục tài liệu tham khảo .
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2898 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu ……………………………………………………………………………………1
Nội dung ……………………………………………………………………………………....1
I – Khái quát chung …………………………………………………………………………....1
Văn bản pháp luật khiếm khuyết ……………………………………………………….1
Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết …………………………………………………1
II – Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết ……………………………………2
Biện pháp hủy bỏ ……………………………………………………………………… 2
Biện pháp bãi bỏ ………………………………………………………………………..3
Biện pháp thay thế ……………………………………………………………………...4
Biện pháp đình chỉ thi hành …………………………………………………………….4
Biện pháp tạm đình chỉ thi hành ………………………………………………………..5
Biện pháp sửa đổi, bổ sung ……………………………………………………………..5
III – Bình luận về các biên pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết ………………...…...6
Kết luận ………………………………………………………………………………………..8
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………………………………….9
LỜI MỞ ĐẦU
Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Chất lượng của văn bản pháp luật vừa phản ánh hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước vừa cho thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật không thể tránh khỏi những sai sót dẫn đến những khiếm khuyết của văn bản pháp luật đòi hỏi cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, không để những văn bản pháp luật khiếm khuyết ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước. Để lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp, chủ thể có thẩm quyền cần phải dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của văn bản pháp luật và bản chất của mỗi biện pháp xử lý. Nhắm giúp cho việc xác định biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được dễ dàng, đúng đắn em xin chọn đề tài “Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết”.
NỘI DUNG
I-Khái quát chung về văn bản pháp luật khiếm khuyết và xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu. Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb.CAND,2008, tr.265
Văn bản pháp luật khiếm khuyết là văn bản có một trong các biểu hiện sau đây:
Thứ nhất, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị. Đó là những văn bản có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng hoặc không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lý. Là những văn bản có sự vi phạm về thẩm quyền ban hành, có nội dung trái với quy định của pháp luật hoặc nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, có sự vi phạm về thể thức và thủ tục ban hành.
Thứ ba, văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học. Đó là những văn bản có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội, không phù hợp với truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc hoặc có sự khiếm khuyết về kỹ thuật pháp lý.
2. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết. Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. CAND, 2008,tr.265
Thẩm quyền xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng nhìn chung đều tuân theo những nguyên tắc nhất định đó là: Cấp trên có thẩm quyền xử lý đối với văn bản pháp luật do cấp dưới ban hành (nguyên tắc này áp dụng cho hầu hết các cơ quan nhà nước trừ Quốc hội); Cơ quan ban hành văn bản có quyền tự xử lý các văn bản pháp luật do mình ban hành bị khiếm khuyết (nguyên tắc này không áp dụng trong trường hợp Tòa án ban hành bản án và quyết định khiếm khuyết); Tòa án nhân dân có thẩm quyền xử lý đối với một số văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành khi có vi phạm pháp luật.
Trong quá trình xác định thẩm quyền xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, cần phải căn cứ vào tính chất khiếm khuyết trong văn bản, mức độ của mỗi dạng khiếm khuyết và thẩm quyền xử lý để lựa chọn các biện pháp xử lý phù hợp nhất.
II-Các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Hiện nay hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào quy định trực tiếp các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết mà chỉ có quy định về xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên thông qua những quy định về biện pháp xử lý văn bản quy phạm pháp luật ta có thể rút ra các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Căn cứ Điều 9 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định về “Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật”. Và Điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
“Các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật gồm:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản;
2. Hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản.”
Có thể rút ra các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết gồm:
1. Biện pháp hủy bỏ
Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp luật kể từ khi văn bản đó được ban hành.
Biện pháp hủy bỏ được áp dụng đối với cả ba loại văn bản pháp luật là văn bản QPPL, văn bản ADPL và văn bản hành chính.
Về điều kiện để áp dụng biện pháp: Biện pháp hủy bỏ được áp dụng với văn bản pháp luật ban hành không đúng hình thức và thẩm quyền (khoản 3 Điều 26 40/2010/NĐ-CP). Ngoài ra theo khoản 1 Điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP “Hình thức hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành”. Như vậy biện pháp hủy bỏ còn được áp dụng đối với các văn bản pháp luật có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: Nội dung văn bản pháp luật bất hợp pháp; ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung; sai về thủ tục ban hành dẫn đến làm mất cơ sở pháp lý của việc giải quyết công việc phát sinh.
Ví dụ ngày 19/5/2011, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định số 29/2011/QĐ-UBND hủy bỏ một phần quyết định số 54/2007/QĐ-UBND ngày 30/3/2007 quy định về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thành phố Hồ Chí Minh do có một số nội dung không phù hợp với quy định pháp luật.
Hậu quả pháp lý khi áp dụng biện pháp hủy bỏ đó là văn bản pháp luật bị hủy bỏ sẽ bị hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lý. Điều đó có nghĩa là Nhà nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lý của văn bản bị hủy ở mọi thời điểm. Nếu văn bản pháp luật bị hủy bỏ là văn bản áp dụng pháp luật thì chủ thể ban hành có trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005.
2. Biện pháp bãi bỏ
Bãi bỏ là biện pháp xử lý được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa” Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 1995
. Theo ngôn ngữ khoa học, bãi bỏ văn bản pháp luật là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố một văn bản pháp luật hiện hành mất hiệu lực thi hành. Từ điển Luật học, Nxb.Tư pháp, Hà Nội
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ là các văn bản QPPL có dấu hiệu khiếm khuyết. Như vậy khác với biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ chỉ áp dụng với một nhóm văn bản pháp luật duy nhất là văn bản QPPL.
Điều kiện áp dụng biện pháp bãi bỏ, theo khoản 2 Điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP “2. Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi.” Như vậy, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp bãi bỏ khi văn bản QPPL có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết như: Nội dung văn bản QPPL không còn phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng; đại đa số nội dung trong văn bản không phù hợp với quyền lợi chính đáng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nội dung của văn bản không phù hợp với văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; phần lớn nội dung của văn bản QPPL không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà văn bản điều chỉnh; phần lớn nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoăc tham gia; văn bản QPPL không còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa… Như vậy khác với hủy bỏ, dấu hiệu vi phạm pháp luật không phải là dấu hiệu duy nhất để xem xét áp dụng biện pháp bãi bỏ.
Ví dụ ngày 5/7/2006, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành quyết định số 67/2006/QĐ-UBND bãi bỏ các văn bản pháp luật ưu đãi đầu tư không còn hiệu lực do văn bản làm căn cứ ban hành là Luật đầu tư nước ngoài 1996 (sửa đổi, bổ sung 2000) bị thay thế băng Luật đầu tư 2005 như quyết định số 92/2005/QĐ-UBND quy định một số chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp bãi bỏ là văn bản bị bãi bỏ sẽ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản bãi bỏ nó có hiệu lực. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lý của văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước thời điểm văn bản bãi bỏ nó có hiệu lực (khác với văn bản pháp luật bị hủy bỏ, toàn bộ thời gian văn bản tồn tại đều không được ghi nhận). Chính vì vậy trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đó sẽ không phát sinh như đối với biện pháp hủy bỏ.
3. Biện pháp thay thế
Thay thế văn bản pháp luật là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho văn bản pháp luật bị khiếm khuyết.
Biện pháp thay thế được áp dụng với cả văn bản QPPL, văn bản ADPL và văn bản hành chính khiếm khuyết.
Điều kiện áp dụng biện pháp thay thế: thay thế là biện pháp xử lý được áp dụng đối với văn bản pháp luật có dấu hiệu khiếm khuyết (không có vi phạm pháp luật) như: Nội dung văn bản không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng. Ví dụ: ngày 2/4/2010, Chính phủ ban hành nghị định 34/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thay thế cho nghị định 146/2007/NĐ-CP do cơ sở pháp lý ban hành nghị định 146/2007/NĐ-CP đã thay đổi và những nội dung của nghị định đã không còn phù hợp.
Thẩm quyền thay thế văn bản pháp luật chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản đó hay nói cách khác biện pháp thay thế chỉ được áp dụng bởi chính cơ quan ban hành văn bản pháp luật bị thay thế.
Hậu quả pháp lý xảy ra khi áp dụng biện pháp thay thế là văn bản pháp luật bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban hành có hiệu lực.
4. Biện pháp đình chỉ thi hành.
Đình chỉ thi hành văn bản pháp luật là việc chủ thể có thẩm quyền ra quyết định dừng thực hiện văn bản pháp luật, làm ngưng hiệu lực của văn bản tạm thời.
Biện pháp này cũng được áp dụng với cả ba nhóm văn bản pháp luật.
Đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý được áp dụng đối với văn bản pháp luật với tư cách là biện pháp bổ sung được sử dụng kèm theo biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế văn bản pháp luật; hoặc là biện pháp độc lập được áp dụng để chấm dứt hiệu lực của văn bản pháp luật, chờ cấp có thẩm quyền xử lý. Điều kiện để áp dụng biện pháp là khi văn bản pháp luật có nội dung trái pháp luật nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 28 nghị định 40/2010/NĐ-CP).
Hậu quả pháp lý: Khác với ba biện pháp nêu trên, khi áp dụng biện pháp đình chỉ thi hành không làm mất hiệu lực của văn bản pháp luật mà chỉ làm tạm ngưng hiệu lực của văn bản cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản pháp luật hết hiệt lực. Nếu cấp có thẩm quyền không ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản vẫn tiếp tục có hiệu lực.
5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lý chỉ áp dụng đối với văn bản ADPL.
Biện pháp tạm đình chỉ thi hành được áp dụng trong các trường hợp:
Thứ nhất, chủ thể không có thẩm quyền xử lý văn bản ADPL nhưng có cơ sở cho rằng văn bản đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lý.
Thứ hai, khi có cơ sở cho rằng, việc thi hành văn bản pháp luật có thể gây cản trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra thuận lợi.
Hậu quả pháp lý xảy ra khi áp dụng biện pháp tạm đình chỉ thi hành trong cả hai trường hợp đó là văn bản không bị mất hiệu lực mà chỉ ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định của chủ thể có thẩm quyền. Đối với trường hợp thứ nhất, văn bản pháp luật bị tạm đình chỉ sẽ hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ; tiếp tục có hiệu lực khi cấp có thẩm quyền không tuyên bố hủy bỏ văn bản đó. Đối với trường hợp thứ hai, chủ thể ra quyết định tạm đình chỉ văn bản phải ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ đó nếu xét thấy việc tạm đình chỉ không còn cần thiết. Văn bản đã bị tạm đình chỉ tiếp tục có hiệu lực.
6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung
Sửa đổi là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung văn bản pháp luật hiện hành trong khi vẫn giữ nguyên những nội dung khác.
Bổ sung là việc ra văn bản để thêm vào nội dung văn bản pháp luật những quy định mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của văn bản đó.
Về đối tượng áp dụng, biện pháp sửa đổi, bổ sung được áp dụng đối với các văn bản pháp luật khi tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn bản rất nhỏ.
Điều kiện áp dụng: Biện pháp sửa đổi được áp dụng với những văn bản pháp luật tại thời điểm ban hành văn bản đáp ứng các yêu cầu về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện thì một số nội dung của văn bản không còn phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mới ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội, cần phải có quy định mới thay thế. Còn biện pháp bổ sung được áp dụng khi có những vấn đề mới phát sinh chưa được quy định trong văn bản pháp luật hiện tại hoặc những quy định đó chưa rõ ràng, đầy đủ đòi hỏi cần phải bổ sung các quy định mới để văn bản pháp luật được đầy đủ, toàn diện hơn.
Ví dụ: ngày 24/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán 2006 do có những yếu tố mới phát sinh trên thị trường chứng khoán mà Luật chứng khoán 2006 không thể bao quát hết được làm bộc lộ những vướng mắc, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Hậu quả pháp lý: Sửa đổi chỉ làm mất hiệu lực pháp luật của bộ phận văn bản bị sửa đổi còn toàn bộ văn bản vẫn có hiệu lực pháp luật. Còn bổ sung không làm ảnh hưởng đến hiệu lực pháp luật của văn bản mà chỉ thay đổi nội dung, quy mô của văn bản được bổ sung và làm phát sinh hiệu lực pháp luật đối với phần nội dung được bổ sung.
III-Bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Xử ký văn bản pháp luật khiếm khuyết là một hoạt động quan trọng của các chủ thể có thẩm quyền nhằm khắc phục kịp thời những khiếm khuyết của văn bản, bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý và tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế thì việc xử lý các văn bản pháp luật khiếm khuyết chưa thực sự nhanh chóng, kịp thời, khách quan, toàn diện và mang lại hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là pháp luật chưa có sự quy định rõ ràng, cụ thể về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết nên chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để các chủ thể nhận thức đúng đắn và dễ dàng áp dụng. Do thiếu các quy định của pháp luật mà khi xử lý các văn bản pháp luật khiếm khuyết, nhiều chủ thể có thẩm quyền đã áp các biện pháp xử lý một cách tùy nghi, chưa thực sự đúng với điều kiện áp dụng biện pháp.
Đối với biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ: Trước hết, có thể thấy đây là hai biện pháp nghiêm khắc nhất để xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Mặc dù đều dẫn đến hậu quả pháp lý là làm chấm dứt hiệu lực của văn bản pháp luật bị áp dụng các biện pháp đó, tuy nhiên đây là hai khái niệm pháp lý hoàn toàn khác nhau và việc áp dụng chúng sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. Nhưng hiện nay trong Luật ban hành văn bản QPPL 2008 cũng như nghị định 40/2010/NĐ-CP cũng chỉ có những quy định rất chung chung về trường hợp áp dụng và chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ. Nếu chỉ dựa vào những quy định đó thì rất khó có thể phân biệt rõ ràng dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử lý văn bản pháp luật cũng tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này thậm chí còn không sử dụng nhất quán. Do thiếu những quy định của pháp luật nên trong thực tế áp dụng ranh giới giữa hủy bỏ và bãi bỏ rất mong manh, không rạch ròi và không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy cần thiết phải có những quy định pháp luật cụ thể, chi tiết hơn để phân biệt biện pháp hủy bỏ với bãi bỏ văn bản pháp luật khiếm khuyết nhằm tạo ra một chuẩn mực pháp lý giúp cho việc áp dụng được thống nhất, chuẩn xác.
Thứ hai, đối với trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản, pháp luật chỉ quy định chỉ áp dụng nếu văn bản bị hủy bỏ là văn bản ADPL mà không quy định đối với văn bản QPPL và văn bản hành chính. Theo em việc pháp luật quy định như vậy là hợp lý bởi văn bản QPPL và văn bản hành chính không có đối tượng áp dụng cụ thể mà sự tác động của văn bản rất rộng vì vậy rất khó khăn trong việc xác định thiệt hại để bồi thường, bồi hoàn. Tuy nhiên nếu chỉ quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn cho chủ thể ban hành văn bản ADPL sẽ phát sinh điểm bất hợp lý trong pháp luật đó là cùng ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây thiệt hại cho xã hội nhưng có trường hợp phải bồi thường, có trường hợp không phải bồi thường. Vì vậy để đảm bảo tính khoa học, hợp lý chỉ nên quy định về biện pháp hủy bỏ đối với riêng văn bản ADPL mà thôi.
Thứ ba, văn bản QPPL vừa là đối tượng của biện pháp hủy bỏ vừa là đối tượng của biện pháp bãi bỏ. Tuy nhiên việc áp dụng hai biện pháp này lại dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau: Đối với biện pháp hủy bỏ thì toàn bộ việc ban hành, thực hiện văn bản bị coi là bất hợp pháp, chủ thể ban hành có thể bị truy cứu trách nhiệm còn đối với biện pháp bãi bỏ thì văn bản không bị coi là bất hợp pháp. Do đó mà việc nhầm lẫn trong áp dụng hai biện pháp trên sẽ dẫn đến sự không công bằng, gây ra nhiều tranh cãi. Vì vậy nên quy định biện pháp bãi bỏ chỉ áp dụng đối với văn bản QPPL mà thôi.
Đối với biện pháp thay thế: đây là một biện pháp được sử dụng khá phổ biến hiện nay trong thực tế. Tuy nhiên hiện tại pháp luật chưa có một quy định cụ thể nào về biện pháp này mà chỉ được quy định chung cùng các biện pháp khác tại Điều 9 Luật ban hành văn bản QPPL 2008.
Đối với biện pháp đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành: đây được coi như “biện pháp khẩn cấp, tạm thời” làm ngưng hiệu lực pháp lý của các văn bản trái pháp luật. Sau khi đình chỉ việc thi hành văn bản, tùy theo tính chất, mức độ sai trái của văn bản chủ thể có thẩm quyền áp dụng một trong các biện pháp xử lý đối với văn bản. Cũng giống các biện pháp xử lý khác, biện pháp đình chỉ và tạm đình chỉ thi hành văn bản pháp luật chưa được quy định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật dẫn đến khó khăn trong việc xác định trường hợp nào áp dụng biện pháp đình chỉ, trường hợp nào áp dụng biện pháp tạm đình chỉ. Mặt khác, có thể thấy biện pháp tạm đình chỉ thi hành chỉ là một phần của biện pháp đình chỉ thi hành, việc tách riêng hai biện pháp này là bất hợp lý, dễ gây nhầm lẫn. Do đó nên hợp nhất hai biện pháp này để việc áp dụng biện pháp trong xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết được dễ dàng hơn.
Đối với biện pháp sửa đổi, bổ sung: sửa đổi, bổ sung cũng là một biện pháp được áp dụng phổ biến. Tuy nhiên trong các văn bản pháp luật, khái niệm “sửa đổi”, “bổ sung” thường hay đi liền với nhau, rất khó phân biệt trường hợp nào chỉ “sửa đổi” hoặc chỉ “bổ sung” hoặc vừa “sửa đổi” vừa “bổ sung”. Đây là một vấn đề mà pháp luật cần phải quy định rõ ràng hơn trong thời gian tới. Khi áp dụng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thông thường các cơ quan ban hành một văn bản để sửa đổi, bổ sung một văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên đối với văn bản QPPL, việc sửa đổi, bổ sung theo hướng này làm cho cơ quan ban hành văn bản mất nhiều thời gian, kinh phí, trải qua nhiều thủ tục. Do đó hiện nay Luật ban hành văn bản QPPL 2008 đã cho phép sử dụng một văn bản để sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật khác nhau giúp tiết kiệm thời gian, kinh phí và những thủ tục không cần thiết trong việc áp dụng biện pháp sửa đổi, bổ sung.
KẾT LUẬN
Thực tế hiện nay ngày càng có nhiều văn bản pháp luật không đáp ứng các yêu cầu dẫn đến các khiếm khuyết trong văn bản pháp luật. Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Vì vậy mà xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xây dựng pháp luật. Qua việc phân tích và bình luận các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyêt có thể thấy các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết đang được hoàn thiện, ngày càng quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những hạn chế còn tồn tại và cần phải có biện pháp khắc phục những hạn chế đó, trước hết là cần hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định chi tiết, rõ ràng hơn nữa các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Có như vậy các biện pháp này mới thực sự phát huy hiệu quả trong quá trình xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
QPPL: Quy phạm pháp luật
ADPL: Áp dụng pháp luật
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Nghị định 40/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Lê Đức Khiêm, Văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết – thực trạng và cách thức xử lý, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, 2009.
Trần Danh Phú, Hoạt động tự kiểm tra, tự xử lý văn bản quy phạm pháp luật của chủ thể ban hành văn bản – thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, 2010.
Bùi Thị Đào, Về bãi bỏ và hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí luật học, số 5/1998.
Từ điển Luật học, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.
website:
www.chinhphu.vn
www.moj.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập HK (8điểm) Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.doc