Phân tích và định giá chứng khoán

Để có thể định giá được chứng khoán các nhà đâu tư chứng khoán có thể nắm bắt được giá cả chứng khoán. Chúng tôi đưa ra tài liệu này để các bạn có thể tham khảo và đầu tư có lợi nhuận cao. chúc các bạn thành công

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4211 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích và định giá chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường đánh giá cao về tiềm năng phát triển thì P/E sẽ cao, và ngược lại. Chỉ số thị giá / thư giá (M/B) = Thị giá cổ phiếu (market price - Pm) Giá trị sổ sách 1 CP thường (26) Chỉ tiêu này cho biết giá cổ phiếu đang bán trên thị trường đắt hơn, rẻ hơn hay bằng mệnh giá. Tương tự như P/E, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ công ty được đánh giá có triển vọng phát triển trong tương lai. Tốc độ tăng trưởng (growth rate) = Tỉ lệ thu nhập giữ lại (b) x ROE (27) Quy trình và kĩ thuật phân tích đầu tư bằng các chỉ số tài chính: Trên thực tế, số lượng các loại chứng khoán được cung ứng cho thị trường là rất lớn. Vì vậy, nhà đầu tư không thể tiến hành phân tích tất cả các loại chứng khoán hiện có trên thị trường. Ngay cả các nhà phân tích chuyên nghiệp, tùy theo điều kiện và những thế mạnh riêng mà họ có thể chỉ chuyên phân tích chứng khoán ở một ngành hoặc một nhóm ngành nhất định. Để đạt hiệu quả cao trong phân tích, nhà đầu tư cần tuân thủ một quy trình bao gồm các bước sau : - (1) Lựa chọn 1 vài doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực (ngành) mà mình quan tâm để tìm thông tin. - (2) Phân tích, so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp giữa các thời kì và với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, hoặc số trung bình của ngành. Mỗi chỉ số đề cập ở phần trên chỉ cung cấp một số thông tin về mức độ hiệu quả trong hoạt động của một công ty. Do vậy, việc phân tích tài chính chỉ đặc biệt có ý nghĩa khi có một số chuẩn mực để so sánh, ví dụ so sánh các chỉ số của cùng một doanh nghiệp giữa các thời kì khác nhau để đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp ; so sánh các chỉ số của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, với ngành, hay với công ty hoạt động tốt nhất trong cùng ngành để chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của công ty được lựa chọn phân tích. - (3) Đánh giá tổng quát về các cổ phiếu, trái phiếu đã phân tích; so sánh đối chiếu với mục tiêu đã xác định để ra quyết định đầu tư. Việc phân tích tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp ở hiện tại và dự báo triển vọng của nó ở tương lai, do đó nếu chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu, phân tích là các báo cáo tài chính thì có thể có những nhìn nhận đánh giá lệch lạc, thiếu xác đáng về một doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải kết hợp với các nội dung phân tích cơ bản khác, so sánh với mục tiêu đã xác định để có quyết định đầu tư thích hợp. Thực tế cho thấy không có một quyết định đầu tư nào là đúng cho mọi điều kiện và mọi chủ thể đầu tư. Một số lưu ý trong đầu tư chứng khoán Các nhà đầu tư chứng khoán là những nhà đầu tư mạo hiểm vì cổ phiếu là một loại hàng hóa đặc biệt, và TTCK là thị trường bậc cao, mức độ rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Cơ hội thành công trong đầu tư vào TTCK của nhà đầu tư sẽ lớn hơn nếu biết cách tránh những sai lầm sau: (1) Không có kế hoạch đầu tư rõ ràng Nhà đầu tư cần quan tâm đến một vài chính sách và kế hoạch đầu tư cá nhân sau đây: - Có mục đích và mục tiêu rõ ràng, - Xác định những rủi ro gì là thích hợp với với danh mục đầu tư của mình, - Dùng tiền đầu tư vào hạng mục tài sản nào. Việc phân bổ các khoản mục đầu tư nên đi kèm với các mục tiêu đã đề ra, đồng thời phải xem xét đến các yếu tố rủi ro thích hợp. - Đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu tỉ lệ rủi ro và tăng cơ hội thu thêm lợi nhuận. (2) Giới hạn thời gian đầu tư quá ngắn Hầu hết các nhà đầu tư thường qua tập trung vào các hoạt động đầu tư mang tính ngắn hạn. Đó chính là sai lầm thứ hai mà họ mắc phải. (3) Tập trung sự chú ý quá nhiều vào các thông tin tài chính do các phương tiện thông tin đại chúng đưa ra (4) Không có sự tái cân bằng Tái cân bằng là một tiến trình khiến cho số tiền đầu tư vào các khoản mục tài sản trong danh mục đầu tư quay trở về đúng với mục tiêu ban đầu. Nhìn chung các nhà đầu tư có xu hướng không muốn bán những cổ phiếu đang đắt giá để đề phòng trường hợp khi cổ phiếu đó giảm giá thì danh mục sẽ trở về mức cân bằng như cũ. Những cách suy nghĩ như vậy là cách suy nghĩ trong thời điểm ngắn hạn. Tái cân bằng một cách có ý thức sẽ gặt hái được những thành quả trong dài hạn. (5) Quá tin tưởng vào năng lực của những nhà quản lí quỹ đầu tư Trên thực tế hiếm có các nhà đầu tư cá nhân có đủ thời gian để tính toán đầu tư mang về lợi nhuận trong dài hạn. Đó chính là lí do tại sao có quá nhiều nhà đầu tư tin tưởng vào việc đầu tư vào các quỹ và cho rằng năng lực của các nhà quản lí quỹ trong việc tính toán lợi nhuận trên thị trường là hơn hẳn họ. (6) Không quan tâm đến các quỹ đầu tư chỉ số Khái niệm đầu tư theo chỉ số không còn mới với thế giới, nhưng lại khá mới đối với các nhà đầu tư Việt nam. Theo phương pháp này, đầu tư sẽ thực hiện vào toàn bộ thị trường nên rủi ro sẽ thấp hơn so với đầu tư vào từng công ty. Các nghiên cứu đã chứng minh phần lớn các nhà quản lí quỹ đầu tư ở dưới mức chuẩn cho phép. (7) Chạy theo thành tích lợi nhuận Rất nhiều nhà đầu tư chọn các hạng mục tài sản, các chiến lược, các nhà quản lí và các quỹ đầu tư dựa trên những thành tích lớn hiện tại. Cảm giác “đang bỏ lỡ một cơ hội kiếm lời lớn” sẽ có thể dẫn đến những quyết định đầu tư tồi tệ hơn bất kì một yếu tố đơn lẻ nào đó, không có một hạng mục tài sản, quỹ hoặc chiến lược đặc biệt nào mà có hiệu quả liên tiếp trong vòng 3 đến 4 năm. Mô hình canslim Canslim là một phương pháp chọn muc chứng khoán nổi tiếng được nhiều người biết đến do William J.Oneil người sáng lập ra tờ Investor’s Business Daily đã đúc kết 7 yếu tố cần thiết để nhận dạng những cổ phiếu có khả năng sinh lời lớn trong tương. Canslim là tập hợp 7 chữ cái đầu tiên của 7 yếu tố mà theo William J.Oneil nhận định là rất hiệu quả khi sử dụng để đánh giá cổ phiếu, đó là: - C (Current Quaterly Earning Per Share) - Lợi nhuận trong quý hiện tại: Nghiên cứu của J.Oneil cho thấy hầu hết các cổ phiếu tốt đều có sự gia tăng lợi nhuận so với cùng quý năm trước (tỉ lệ tăng càng cao càng tốt). Khi lựa chọn cổ phiếu đầu tư, cần để ý tới các cổ phiếu có sự gia tăng lợi nhuận mạnh mẽ. - A (Annual Earnings Increase) - Gia tăng doanh lợi hàng năm: Theo J.Oneil, cổ phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm trước. Cần đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và trên 25%. Tuy nhiên cũng nên chú ý tới chu kì kinh doanh của từng ngành, từng công ty. Theo J.Oneil, tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khoảng 80% các cổ phiếu tồi. - N (New Products, Management, Heights, More People Trading the Stock) - Cổ phiếu tăng bắt nguồn từ một số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản phẩm mới của công ty của công ty, ban giám đốc mới, phương thức quản lí mới, hay mức giá trần mới của cổ phiếu. - S (Supply and Demand) - Số cung và số cầu: Quy luật cung cầu quyết định giá của hầu hết các hàng hóa và cổ phiếu không phải là một ngoại lệ. Theo J.Oneil, cổ phiếu của các công ty lớn không phải luôn là các cổ phiếu nên mua. Cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp sẽ dễ dàng gia tăng giá hơn các cổ phiếu có số lượng lưu hành lớn. Cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỉ lệ lớn thường là cổ phiếu có độ an toàn cao. Đặc biệt cần lưu ý đến các cổ phiếu được công ty mua lại và cổ phiếu của các công ty có tỉ lệ nợ dài hạn trên vốn tự có vừa phải. Đối với các công ty có chênh lệch lớn về cung cầu thì khả năng tăng giá của cổ phiếu là dễ dàng hơn. - L (Leader and Laggard) - Cổ phiếu hàng đầu hay bị xếp hạng thấp: Theo J.Oneil chỉ nên mua 2 hay 3 cổ phiếu tốt nhất trong toàn nhóm. Đặc biệt tránh mua các cổ phiếu tăng theo đuôi vì các cổ phiếu này không sớm thì muộn cũng sụt giá. - I (Institutional Sponsorship) - Các định chế nói tới ở đây thường là các cơ quan chức năng, các cơ quan chính phủ chuyên về tài chính đầu tư. Nếu các cơ quan này nắm giữ số lượng cổ phiếu nhất định của một công ty nào đó thì công ty ấy sẽ có sự ủng hộ và trợ giúp mạnh mẽ từ các định chế đó, rất thuận lợi cho giá cổ phiếu tăng mạnh. Tuy nhiên cần chú ý đối với những cổ phiếu được các định chế này nắm giữ với số lượng quá lớn. - M (Market Direction) - Chiều hướng biến động của thị trường: Bạn có thể đúng trong tất cả các tiêu chí kể trên nhưng nếu bạn sai lầm về phương hướng thị trường, thì có thể 3 trong số 4 cổ phiếu bạn mua sẽ giảm giá và bạn sẽ mất tiền. Yếu tố thị trường đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cổ phiếu. J.Oneil nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu đồ thị biến động giá chứng khóan theo ngày. 2.2.1.3. Phân tích mẫu một số công ty niêm yết ● Tình huống: Công ty cổ phần Cáp và Dây điện Viễn thông Công ty cổ phần Cáp và Dây điện Viễn thông (SACOM) được thành lập từ tháng 2/1998 trên cơ sở nhà máy Cáp và Vật liệu Viễn thông. ● Cơ cấu vốn - Vốn điều lệ ban đầu: 120.000 triệu đồng - Vốn điều lệ hiện nay: 234.000 triệu đồng - Số cổ phiếu niêm yết: 23.400.000 Cổ đông Số tiền (triệu đồng) Tỉ lệ sở hữu Nhà nước 88.059,45 38% Cổ đông khác 145.940,55 62% ● Kết quả kinh doanh 2 năm 2004 -2005 Đơn vị tính : triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 So sánh 2005/2004 So sánh với kế hoạch 2005 Doanh thu thuần 485,890 836,381 172,13% 104,30% Tổng lợi nhuận trước thuế TNDN 79,365 111,736 140,79% 152,06% Thuế TNDN 6,269 8,549 136,36% 143,25% Lợi nhuận sau thuế TNDN 73,096 103,187 141,17% Cổ tức 1.600đ 1.600đ 100% Nộp NSNN 52.203,67 87.333,22 167,29% Thu nhập bình quân người/ tháng 5,03 5,64 112,04% ● Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh Năm 2005, tình hình kinh doanh của công ty có kết quả tốt so với 2004, mặc dù tình hình thị trường có nhiều biến động, đặc biệt là biến động về giá nguyên vật liệu đầu vào như: nhựa, đồng… (tăng từ 10 - 45%). Đạt được kết quả trên là do sự nỗ lực của mọi thành viên trong công ty đặc biệt là bộ phận dự báo thị trường để có kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu tồn kho, cùng với chính sách quản lí sản xuất và giao khoán sản phẩm đến từng tổ sản xuất đã mang lại hiệu quả cao. ● Tóm tắt tình hình tài chính của công ty Một số biến động trong bẳng cân đối tài sản của công ty qua một số năm Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 I.TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 175,294 291,857 659,052 1.Tiền 39,149 27,320 172,690 2.Các khoản phải thu 86,243 97,636 182,517 Trong đó: phải thu khách hàng 81,205 56,532 166,101 3.Hàng tồn kho 46,365 165,312 199,238 4.TSLĐ khác 3,536 1,589 4,606 II.TSCĐ và đầu tư dài hạn 107,039 129,970 244,561 1.Phải thu dài hạn khách hàng 64,330 2.TSCĐ hữu hình 83,948 59,343 77,932 3.TSCĐ vô hình 12,085 12,085 952,000 4.Các khoản đtư tchính dhạn 7,211 14,291 99,677 5.Chi phí XDCB dở dang 3,795 39,214 45,000 6.Chi phí trả trước dài hạn 5,036 1,625 Tổng tài sản 282,333 421,827 903,613 I.Nợ phải trả 62,788 164,589 347,992 1.Nợ ngắn hạn phải trả 46,946 148,907 326,754 -Vay ngắn hạn 89,560 210,621 -Phải trả người bán 18,502 20,524 57,521 2.Nợ dài hạn 0 0 0 II.Nguồn vốn chủ sở hữu 219,545 257,238 555,621 1.Nguồn vốn kinh doanh 180,000 180,000 234,000 2.Thặng dư vốn cổ phần 184,140 3.Các quỹ 39,545 77,238 137,481 4.Lợi nhuận chưa phân phối Tổng nguồn vốn 282,333 421,827 903,613 Nhận xét: nhìn chung, trong thời gian qua tổng tài sản của công ty không ngừng tăng lên, nhất là năm 2005, tập trung chủ yếu vào 1 số khoản mục: - Công ty phát hành cổ phiếu phổ thông tăng vốn điều lệ lên 54 tỉ đồng. Thặng dư vốn 184,14 tỉ đồng. - Mở rộng quy mô kinh doanh, doanh thu tăng, đồng thời tăng cường cho khách hàng trả chậm. - Trong kì công ti tiếp tục đầu tư TSCĐ để mở rộng quy mô sản xuất. Nguồn tài trợ chủ yếu là nguồn vốn kinh doanh và trích từ quỹ phát triển kinh doanh của công ty. ● Phân tích các chỉ số tài chính của SACOM Chỉ tiêu Nội dung 2003 2004 2005 Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán K.năng thanh toán chung Tổng TS/ Tổng nợ Khả năng ttoán nợ ngắn hạn TSLĐ/ nợ ngắn hạn 3,73 1,96 2,02 Khả năng ttoán nhanh nợ n.hạn TSLĐ- hàng tồn kho / nợ nh 2,75 0,85 1,1 Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn và tình hình tài sản Hệ số nợ Hệ số tự tài trợ Tỉ lệ TSCĐ Tỉ lệ vốn dài hạn Các chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán/BQ hàngtk 4,46 3,45 2,79 Kì thu tiền bình quân Kì phải trả bình quân Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời và phân phối thu nhập Tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản - ROA Lợi nhuận ròng / tổng tài sản bình quân 0,24 0,19 0,13 Tỉ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu - ROE Lợi nhuận ròng / vốn chủ sở hữu 0,33 0,31 0,35 Thu nhập trên mỗi CPT- EPS 3.833,37 4.060,85 4.409,74 Tỉ lệ chi trả cổ tức Các chỉ tiêu về triển vọng phát triển của công ty Hệ số giá / thu nhập Thị giá CP / EPS 9,91 10,22 10,77 Tốc độ tăng trưởng ROE x tỉ lệ thu nhập giữ lại 27,7% 26% 21% Giá trị sổ sách CP thường Giá thị trường của CP (16/3) 41.500 47.500 47.500 ● Kế hoạch SXKD và kế hoạch đầu tư của SACOM năm 2006 Chỉ tiêu ĐVT TH 2005 KH 2006 So sánh Tổng doanh thu trđ 836.381,88 950.000,00 113,53% Lợi nhuận trước thuế trđ 111.736,15 114.000,00 102,02% Lợi nhuận sau thuế trđ 103.186,97 105.450,00 102,39% Nộp ngân sách trđ 87330,22 89.418,00 102,39% Tổng CBCNV Người 310 350 112,90% Lương bình quân người/tháng trđ 5,64 4,83 Cổ tức % 16 16 100 Đầu tư 151.919.563.671 đồng, trong đó: - Đầu tư máy móc thiết bị mới: 56,8 tỉ đồng - Góp vốn thành lập công ty: 94,2 tỉ đồng ● Dự đoán phát triển của thị trường cáp trong tương lai Tuy xu hướng sử dụng cáp quang và vệ tinh viễn thông ngày càng chiếm ưu thế, song với tốc độ phát triển thuê bao trung bình 30 - 40% năm, cũng như chiến lược từ nay đến 2010 của VNPT, nhu cầu sử dụng cáp và vật liệu viễn thông nội địa vẫn có mức tăng trưởng khá., ước tính tương đương mức tăng trưởng doanh thu bình quân của ngành vào khoảng 10 - 15%. ● Phân tích mô hình SWOT * Điểm mạnh (Strengths) - Vốn lớn. Tiềm lực vốn của công ty lớn nhất trong số 3 công ty sản xuất cáp đồng hiện nay. - Nguồn nhân lực có trình độ khá cao, nhiều kinh nghiệm. Bộ máy lãnh đạo hoạt động hiệu quả, đặt lợi ích của công ty làm mục tiêu phấn đấu. - Công nghệ: dây chuyền sản xuất cáp đạt tiêu chuẩn quốc tế. Công suất hoạt động của nhà máy lớn, tăng năng lực sản xuất của công ty. Đặc biệt trong thời gian qua công ty đã không ngừng đổi mới máy móc thiết bị thể hiện qua việc TSCĐ không ngừng tăng lên. - Chất lượng sản phẩm: thế mạnh cạnh tranh của SACOM tại thị trường nội địa là các sản phẩm có chất lượng cao mà giá thành rẻ hơn 10% so với sản phẩm cùng loại. - SACOM sản xuất và tiêu thụ thành công các sản phẩm mới tại thị trường trong và ngoài nước. - SACOM có uy tín cao và thương hiệu mạnh trên thị trường (hiện nay SAM chiếm khoảng 45% thị phần trong nước). * Điểm yếu (Weaknesses) - Các sản phẩm mới tuy được sự chấp nhận của thị trường, song quy mô còn nhỏ, hàm lượng chất xám công nghệ chưa cao. - Mạng lưới tiêu thụ phụ thuộc rất lớn (90%) vào chính sách tiêu thụ sản phẩm của VNPT và Bộ chủ quản. - Áp lực cạnh tranh và áp lực về giá ngày càng cao. SAM cần có biện pháp hợp lí hóa sản xuất để hạ giá thành, cần phải tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm để thu hút đơn đặt hàng. - Phần lớn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất đều nhập khẩu từ nước ngoài, sản phẩm của công ty phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường nước ngoài. * Cơ hội (Opportunities) - Hiện nay SAM đang chiếm thị phần 45%. Với chính sách đầu tư dài hạn hợp lí, SAM có nhiều khả năng mở rộng thị phần trong nước và nước ngoài. - Các dự án SAM tham gia đầu tư đang trong giai đoạn hoàn thành hay kết thúc, sẽ góp phần tăng nguồn lực tài chính của công ty. * Thách thức (Threats) - Đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất cáp đồng là nhà máy vật liệu bưu điện, công ty liên doanh Vinadeasung và 6 công ty liên doanh sản xuất sản phẩm cáp quang. - Khi VN gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới, thuế suất thuế nhập khẩu cáp giảm sẽ làm giảm tính cạnh tranh về giá của cáp nội địa. - Xu hướng sử dụng cáp quang và vệ tinh địa tĩnh ngày càng cao, SAM cần theo kịp sự đổi mới về công nghệ. - Nguồn nguyên vật liệu chính hầu hết phải nhập khẩu, do đó giá của nguyên vật liệu chịu sự tác động của tỉ giá, đồng thời nhu cầu gia tăng dự trữ nguyên vật liệu làm cho xu hướng tăng giá nguyên vật liệu đã tác động vào chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm. ● Tính hấp dẫn của cổ phiếu SAM Từ khi niêm yết (2000) đến nay SACOM mới phát hành bổ sung cổ phiếu 1 đợt từ tháng 12/2005 đến tháng 2/2006 với tổng số 10,08 triệu. Đây là lần đầu tiên công ty huy động vốn bằng cổ phiếu trong điều kiện liên tục mở rộng kinh doanh và đầu tư mới với 4 mục đích chính là: - SACOM góp 49% vốn (73,5 tỉ đồng) vào công ty cổ phần cáp Sài gòn. - SACOM góp 30% vốn (8,4 triệu USD) vào liên doanh sản xuất cáp Taihan - SACOM. - Đầu tư khoảng 18,6 tỉ đồng nâng 15% công suất thiết bị. - Tăng VLĐ. Với chính sách khấu hao nhanh, giá trị máy móc thiết bị (7 dây chuyền cáp viễn thông và 2 dây chuyền sản xuất đồng) hiện còn lại trên sổ sách kế toán với tỉ lệ 4,7%. Quỹ khấu hao lớn là nguồn lực giúp SACOM dễ dàng triển khai các dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Vì vậy SAM được coi là CP dành cho các nhà đầu tư theo mục đích tăng trưởng. SACOM có tốc độ tăng trưởng doanh số, năng lực sản xuất vào loại khá cao so với các công ty niêm yết khác. Từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình 36,17% năm, lợi nhuận tăng trưởng trung bình 25,07% năm, doanh thu năm 2004 lớn gấp 4 lần so với năm 2000, doanh thu năm 2005 bằng 1,72 lần doanh thu năm 2004. Năm 2003 công ty tăng vốn điều lệ từ 120 tỉ lên 180 tỉ đồng bằng lợi nhuận tích lũy. Năm 2005, công ty tăng vốn điều lệ lên 234 tỉ đồng bằng phát hành cổ phiếu. ►Kết luận Là 1 công ty được nhiều ưu ái của ngành bưu chính viễn thông, với ROE luôn ở mức 25 - 30% năm, SAM được đánh giá là 1 trong 5 CP sáng giá nhất trong rổ chứng khoán ở sàn HCM khoảng thời gian 2005. 2.2.2. Phân tích kĩ thuật 2.2.2.1. Khái niệm và mục đích của phân tích kĩ thuật Phân tích kĩ thuật là phương pháp phân tích dựa vào các diễn biến của giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ để dự đoán xu thế giá trong tương lai. Các nhà phân tích kĩ thuật sử dụng các công thức toán học và đồ thị để xác định xu thế thị trường của 1 loại cổ phiếu nào đó, từ đó đưa ra quyết định thời điểm thích hợp để mua hoặc bán. Việc xác định thời điểm có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là tại các thị trường hay biến động và khi thực hiện chiến lược đầu tư ngắn hạn. - PTKT nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự báo xu hướng giá trong tương lai nếu các nhà phân tích có được ba thông tin cơ bản của sự biến động thị trường: giá, khối lượng và trạng thái mở của thị trường (phản ánh tính thanh khoản tiềm năng của thị trường). - PTKT nghiên cứu các hành vi thị trường trong quá khứ để xác định thực trạng và điều kiện thị trường trong hiện tại. - PTKT là hoạt động nghiên cứu hành vi của thành viên thị trường, như được phản ánh qua giá, khối lượng, trạng thái mở của thị trường trong một thị trường tài chính, nhằm xác định các giai đoạn trong sự phát triển của xu hướng giá. - PTKT được áp dụng như là một khâu trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư hoặc giao dịch trên thị trường tài chính. Với yếu tố chú trọng tính thời điểm, PTKT được dùng chủ yếu để giúp người đầu tư hoặc người giao dịch nếu họ muốn: + Xác định thời điểm ban đầu của một xu hướng giá trên thị trường. + Tiến hành giao dịch tùy theo xu hướng giá đó. + Xác định thời điểm kết thúc cùa một xu hướng giá trên thị trường. + Thoát khỏi thị trường hoặc tiến hành đổi chiều giao dịch. PTKT xuất hiện ngay từ thời kì sơ khai của TTCK, nhưng nó chỉ thực sự trở thành một khoa học từ khi có sự xuất hiện của Charles Henry Dow - Người đặt nền móng lí thuyết đầu tiên cho khoa học PTKT hiện đại ngày nay. Qua việc nghiên cứu giá đóng cửa Dow cho rằng, chỉ số trung bình là “phong vũ biểu” và nhà đầu tư có thể sử dụng nó để đo lường sự biến động của thị trường. Ngày nay với sự phát triển hệ thống công nghệ thông tin và các chương trình phần mềm máy tính, việc thiết lập các đồ thị hay biểu đồ để phục vụ cho mục đích phân tích kĩ thuật được thực hiện một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngay cả với những nhà đầu tư cá nhân, với sự phổ biến của máy tính cá nhân và các phần mềm phân tích kĩ thuật cũng như khả năng truy cập dữ liệu từ xa hiện nay, nhà đầu tư có thể dễ dàng có được các thông tin cần thiết về giá và khối lượng giao dịch để phục vụ mục đích phân tích kĩ thuật riêng cho mình. 2.2.2.2.Các giả định nền tảng của phân tích kĩ thuật Các nhà phân tích kĩ thuật đưa ra quyết định giao dịch dựa trên việc xem xét các số liệu về giá và khối lượng giao dịch nhằm xác định xu thế thị trường trong quá khứ để từ đó dự đoán xu thế tương lai của toàn bộ thị trường cũng như của từng chứng khoán đơn lẻ. Họ nêu ra một vài giả định hỗ trợ cho dự đoán xu thế biến động của thị trường. - Giá trị thị trường của bất cứ loại hàng hóa hay dịch vụ nào đều hoàn toàn được xác định bởi sự tương tác của quan hệ cung cầu. - Cung cầu được quyết định bởi 1 số nhân tố, cả logic và phi logic. Những nhân tố này bao hàm cả những biến số kinh tế được sử dụng trong phân tích cơ bản cũng như các quan điểm các trạng thái tâm lí và những phỏng đoán. Thị trường phản ánh tất cả những nhân tố này một cách tự động và liên tục. - Ngoại trừ 1 số dao động nhỏ, giá của các chứng khoán và thị trường nói chung có biểu hiện biến động theo những xu thế, các xu thế này diễn ra trong những khoảng thời gian xác định. - Các xu thế trội thay đổi tương ứng với những sự dịch chuyển trong quan hệ cung cầu, những sự dịch chuyển này, bất kể do nguyên nhân nào gây ra, sớm hay muộn rồi cũng đều có thể được phát hiện dựa vào phản ứng của chính thị trường. 2.2.2.3.Những thách thức và lợi thế của phân tích kĩ thuật ● Những thách thức - Những người hoài nghi về giá trị của phân tích kĩ thuật trong vai trò làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư đã đặt những thách thức đối với các kĩ thuật này trên 2 phương diện: thứ nhất, họ hoài nghi một số giả định nền tảng; thứ hai, họ hoài nghi 1 số quy tắc giao dịch cụ thể và tính hữu dụng về dài hạn. - Thách thức cơ bản đối với phân tích kĩ thuật xuất phát từ lí thuyết thị trường hiệu quả (thị trường hiệu quả được hiểu là thị trường mà thị giá hiện hành phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin có ảnh hưởng tới thị trường, phí giao dịch trên thị trường được quyết định bởi quy luật cạnh tranh và quan hệ cung cầu…) Để các quy tắc giao dịch kĩ thuật mang lại lợi nhuận sau khi trừ các chi phí giao dịch, việc điều chỉnh giá trên thị trường phải diễn ra từ khi xuất hiện những thông tin mới, nghĩa là thị trường phải kém hiệu quả. - Một thách thức hiển nhiên với phân tích kĩ thuật là các diễn biến giá trong quá khứ hay các mối quan hệ giữa các biến số thị trường cụ thể và giá chứng khoán có thể không lặp lại. Theo đó một kĩ thuật đã từng mang lại kết quả trước đó có thể không còn giá trị trong những biến động tiếp theo của thị trường. - Những dự đoán về giá sẽ làm cho xu hướng giá tự điều chỉnh. - Mọi quy tắc giao dịch đều gắn với một đánh giá mang tính chủ quan cao. - Các giá trị chuẩn làm căn cứ cho quyết định đầu tư có thể thay đổi theo thời gian. ● Những lợi thế Phần lớn các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng, một nhà phân tích cơ bản với nguồn thông tin tốt, khả năng phân tích tốt và 1 sự nhạy cảm có thể kiếm được những khoản lợi trên mức bình thường. Tuy nhiên theo các nhà phân tích kĩ thuật, các nhà phân tích cơ bản có thể chỉ kiếm đựơc những khoản lợi cao khi họ tiếp cận thông tin trước những người đầu tư khác và xử lí thông tin một cách chính xác, nhanh chóng. - Với cách tiếp cận đó, các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng lợi thế lớn trong phương pháp của họ là không phụ thuộc nặng nề vào các báo cáo tài chính và do đó tránh được những sai sót đáng tiếc nếu có sự hoài nghi về tính chính xác, trung thực của các báo cáo tài chính này. Hầu hết số liệu kĩ thuật sử dụng, ví dụ như giá chứng khoán, khối lượng giao dịch và các thông tin giao dịch khác đều bắt nguồn từ diễn biến của thị trường. - Nhà phân tích cơ bản phải xử lí thông tin mới một cách chính xác và nhanh chóng để tìm ra giá trị nội tại mới của chứng khoán trước những người đầu tư khác. Trong khi đó các nhà phân tích kĩ thuật chỉ cần nhanh chóng nhận ra xu thế dịch chuyển sang 1 mức giá cân bằng mới bất kể đâu là nguyên nhân của sự dịch chuyển. - Các nhà PTKT có thể xác định được thời gian mua bán có hiệu quả nhất trong khi các nhà PTCB có thể chỉ xác định được giá trị hợp lí của chứng khoán. - Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi trong việc truy cập dữ liệu, đồng thời cung cấp các phần mềm tiện ích cho PTKT. 2.2.2.4.Các chỉ báo và quy tắc giao dịch kĩ thuật ● Các kĩ thuật liên quan đến giá và khối lượng Sự thay đổi giá theo hướng nào đó thể hiện các nhân tố ảnh hưởng, nhưng chỉ riêng thay đổi về giá thì chưa phản ánh quan hệ cung cầu tại thời điểm đó. Vì vậy các nhà phân tích thường tìm kiếm sự tăng giá kèm theo khối lượng giao dịch tương đối lớn so với khối lượng giao dịch thông thường như là 1 chỉ báo về xu thế giá lên, còn nếu giá giảm kèm theo khối lượng giao dịch lớn đồng nghĩa với xu thế giá giảm. Các nhà phân tích cũng sử dụng tỉ lệ khối lượng giao dịch giá lên / giá xuống như là 1 chỉ báo ngắn hạn của thị trường nói chung. Hàng ngày SGDCK công bố khối lượng giao dịch của các CP tăng giá và khối lượng giao dịch của các CP giảm giá. Tỉ lệ này được coi là 1 thước đo về trạng thái tâm lí của người đầu tư và sử dụng nó để xác định quan hệ cung cầu trên thị trường. ● Các quy tắc theo quan điểm trái ngược Nhiều nhà phân tích kĩ thuật dựa vào những quy tắc giao dịch được phát triển từ giả thiết rằng đại bộ phận nhà đầu tư thường sai lầm khi dự đoán thị trường đạt đến đỉnh cao hoặc điểm đáy. Vì vậy các nhà phân tích kĩ thuật tìm cách xác định thời điểm đại bộ phận nhà đầu tư kì vọng giá lên hoặc giá xuống và giao dịch theo chiều hướng ngược lại. Các nhà phân tích kĩ thuật sử dụng 1 số thước đo nhằm đánh giá xu hướng giao dịch của nhà đầu tư trên thị trường. Họ thường sử dụng đồng thời 1 số chỉ báo để xác định sự đánh giá trùng hợp về thái độ của người đầu tư. Số dư có trên tài khoản giao dịch Số dư có xuất hiện khi người đầu tư bán chứng khoán mà không rút tiền ra khỏi tài khoản giao dịch với hi vọng tiếp tục đầu tư. Thông thường số liệu tổng hợp về tình hình tài khoản giao dịch của người đầu tư được công bố trên 1 số tạp chí tài chính. Các nhà phân tích coi số dư có trên tài khoản giao dịch là sức mua tiềm năng. Theo đó họ cho rằng khi số dư này giảm xuống là dấu hiệu của xu thế giá xuống, bởi nó báo hiệu sức mua thấp hơn khi thị trường đạt đến đỉnh cao. Tương tự như vậy, nhà phân tích kĩ thuật cho rằng số dư có tăng lên báo hiệu sự gia tăng về sức mua và là dấu hiệu của xu thế lên giá. Lưu ý rằng số liệu về số dư này được công bố bằng số tuyệt đối mà không có sự so sánh tương đối nào khác. Điều này khiến cho việc xác định xu thế trở nên khó khăn khi quy mô thị trường thay đổi. Ý kiến tư vấn đầu tư Nhiều nhà phân tích kĩ thuật nhận thấy rằng nếu phần lớn các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực, điều này báo hiệu thị trường đã tiến gần đến điểm đáy và chuẩn bị chuyển sang xu thế giá lên. Người ta lập luận rằng, phần lớn các công ty tư vấn đầu tư đều có xu hướng ngả theo xu hướng chung. Vì vậy số lượng các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực là lớn nhất khi thị trường đang gần đạt tới điểm đáy. Họ phát triển quy tắc giao dịch này từ tỉ lệ giữa số các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực và tổng số công ty tư vấn đưa ra ý kiến. ● Bám theo các nhà đầu tư khôn ngoan Một số nhà phân tích kĩ thuật sử dụng các chỉ báo mà họ cho rằng chúng phản ánh hành vi giao dịch của những nhà đầu tư khôn ngoan. Sau khi nghiên cứu thị trường, các nhà phân tích này xây dựng nên các chỉ báo cho biết động thái của những nhà đầu tư khôn ngoan và phát triển các quy tắc để bám theo họ. Sau đây là một số chỉ báo được sử dụng khá phổ biến. + Chỉ số niềm tin (the confidence index) Chỉ số niếm tin do Barron’s xây dựng là hệ số giữa tỉ suất doanh lợi của trái phiếu 10 công ty hàng đầu do Barron’s lựa chọn so với tỉ suất doanh lợi của 40 trái phiếu thường dùng để tính chỉ số trái phiếu DowJones. Chỉ số này phản ánh sự khác biệt về chênh lệch tỉ suất doanh lợi giữa các trái phiếu hàng đầu so với các trái phiếu thường khác thuộc nhiều nhóm ngành nghề. Các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng đây là 1 chỉ báo của xu thế giá lên, bởi khi người đầu tư có lòng tin, họ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào các trái phiếu chất lượng thấp hơn nhằm thu được tỉ suất doanh lợi cao hơn. Do vậy chỉ số niềm tin sẽ tăng. Ngược lại, khi người đầu tư bi quan họ sẽ tránh đầu tư vào các trái phiếu chất lượng thấp và gia tăng đầu tư vào các trái phiếu có chất lượng cao. Tuy nhiên việc đánh giá về hành vi của người đầu tư theo chỉ số này hầu như mới phụ thuộc vào mức cầu. Trên thực tế nó còn phụ thuộc vào mức cung. Ví dụ, công ty ABC phát hành 1 khối lượng lớn trái phiếu hàng đầu có thể dẫn đến lợi suất của các trái phiếu hàng đầu tạm thời tăng lên, làm giảm chênh lệch lợi suất và khiến chỉ số niềm tin tăng lên mà không có sự thay đổi về niềm tin của nhà đầu tư. Những người ủng hộ chỉ số này tin rằng nó phản ánh được thái độ chung của người đầu tư đối với các tài sản tài chính. Một số nghiên cứu khoa học cho thấy chỉ số này tỏ ra không mấy hữu ích trong việc dự đoán biến động giá cổ phiếu. + Số dư nợ trên tài khoản giao dịch Số dư nợ trên tài khoản giao dịch phản ánh thái độ của 1 số nhà đầu tư có kiến thức và kĩ năng chuyên sâu trong việc thực hiện các giao dịch kí quỹ. Theo đó khi số dư nợ gia tăng sẽ là dấu hiệu xu thế giá lên. Ngược lại khi số dư nợ giảm xuống sẽ là dấu hiệu bán ra vì những người đầu tư khôn ngoan này muốn kết thúc 1 chu kì giao dịch, đồng thời nó cũng phản ánh sự giảm sút của luồng vốn sẵn sàng tham gia thị trường và sẽ là dấu hiệu của xu thế giá xuống. Số liệu hàng tháng về giao dịch kí quỹ được công bố trên Barron’s. Tuy nhiên số liệu này không phản ánh khoản vay của người đầu tư từ những nguồn khác như ngân hàng. Thêm vào đó đây cũng là con số tuyệt đối nên khó có thể so sánh theo thời gian. ● Một số chỉ báo thị trường khác + Độ rộng của thị trường Độ rộng của thị trường là chỉ báo về số lượng các cổ phiếu lên giá và số lượng các cổ phiếu xuống giá trong mỗi ngày giao dịch. Chỉ báo này giúp cho việc giải thích nguyên nhân sự đổi hướng của các chỉ số chứng khoán như DJIA hoặc S&P 500. Những chỉ số nổi tiếng trên thị trường thường chịu ảnh hưởng lớn từ các cổ phiếu của các công ty lớn, bởi vì hấu hết các chỉ số đều được tính theo phương pháp gia quyền giá trị. Như vậy có thể xảy ra trường hợp chỉ số tăng lên nhưng phần lớn các cổ phiếu thành phần lại không lên giá. Sự phân kì giữa giá trị của chỉ số chung và các cổ phiếu thành phần trở thành 1 vấn đề đáng quan tâm, vì điều này có nghĩa là phần lớn các cổ phiếu không góp phần vào xu thế giá lên của thị trường. Tình trạng này có thể được phát hiện bằng cách xem xét số liệu về tăng giảm giá của tất cả các cổ phiếu trên thị trường và đồng thời với chỉ số chung. + Tổng khối lượng bán khống (Short Interest) Tổng khối lượng bán khống là tổng khối lượng cổ phiếu hiện được bán khống trên thị trường. Một số nhà phân tích kĩ thuật cho rằng khối lượng bán khống cao là dấu hiệu tốt, song 1 số khác lại cho là dấu hiệu không tốt. Dấu hiệu tốt là bởi mọi giao dịch bán khống sẽ phải được hoàn tất (nghĩa là những người bán khống cuối cùng sẽ phải mua cổ phiếu để hoàn trả lại số cổ phiếu họ đã vay). Do vậy tổng khối lượng bán khống phản ánh mức cầu tiềm năng trong tương lai đối với cổ phiếu. Khi các giao dịch bán khống được tất toán, mức cầu phát sinh do việc mua cổ phiếu sẽ đẩy giá lên. Dấu hiệu không tốt là bởi trên thực tế những người bán khống thường là những người đầu tư lớn và có kĩ năng chuyên nghiệp. Theo đó tổng khối llượng bán khống gia tăng phản ánh trạng thái tâm lí của nhà đầu tư được coi là “am hiểu” về triển vọng thị trường giá xuống. 2.3. Định giá chứng khoán 2.3.1. Định giá trái phiếu 2.3.1.1. Định giá trái phiếu ● Định giá trái phiếu thông thường Ở dạng thông thường trái phiếu có mệnh giá, thời hạn và lãi suất cuống phiếu xác định, không kèm theo các điều kiện có thể chuyển đổi, có thể mua lại hay bán lại… Khi đó giá của trái phiếu bằng giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính sẽ nhận được từ công cụ tài chính đó. Vì vậy để xác định được mức giá trái phiếu cần phải: - Ước tính các luồng tiền sẽ nhận được trong tương lai: Lãi trái phiếu và mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn. -Ước tính tỉ suất sinh lợi (lợi suất) đòi hỏi phù hợp. Công thức tổng quát để tính giá của một trái phiếu là: C C C C F n 1 F PV = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = C å -------- + -------- (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 (1+i)n (1+i)n t=1 (1+i)t (1+i)n Trong đó: PV là giá trái phiếu, n là số kì trả lãi, C là tiền lãi của một kì trả lãi, F là mệnh giá trái phiếu, i là lãi suất chiết khấu hay lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Đối với trái phiếu trả lãi trước, hay hay trái phiếu không trả lãi định kì (Zero coupon bonds) thì: PV = F / (1+i)n Đối với trái phiếu trả lãi sau, thì PV = (åC + F) / (1+i)n Nếu PV > Pm (thị giá trái phiếu trên thị trường) thì đó là 1 tín hiệu cho việc mua trái phiếu. ● Định giá trái phiếu trong một số trường hợp đặc biệt ♦ Định giá tại một thời điểm giữa kì trả lãi Phương pháp chung: - Bước 1: Chiết khấu tất cả các luồng thu nhập trong tương lai về kì trả lãi trước (hoặc về kì trả lãi sau) thời điểm hiện tại. - Bước 2: Tính giá trị tương lai (hoặc giá trị hiện tại) của kết quả tìm được ở bước 1 (PV1 hoặc PV2) tới thời điểm cần tính giá (thời điểm hiện tại). Gọi D là số ngày của 1 kì tính lãi. T là số ngày kể từ thời điểm tính lãi kì trước đến thời điểm hiện tại. PV = PV1 [1+ (i x T/D)] hoặc PV = PV1 [1+ i] T/D hoặc PV = PV2/ [1+ i x (D-T)/D] hoặc PV = PV2/ [1+ i] (D-T)/D Trên thực tế, người mua trái phiếu nhận được toàn bộ lãi định kì vào thời điểm thanh toán sắp tới, trong khi học chỉ nắm giữ trái phiếu trong một phần thời kì đó, vì thế người mua sẽ phải trả cho người bán khoản tiền lãi lẻ tích lũy được từ kì thanh toán lãi trước đó đến thời điểm bán trái phiếu. Khoản lãi lẻ này được tính như sau: Lãi lẻ = C x T/D Giá thị trường (giá niêm yết) của trái phiếu = PV – lãi lẻ ♦ Định giá trái phiếu có lãi suất thả nổi Lãi suất định kì của một trái phiếu thả nổi thường được ấn định dựa vào lãi suất thị trường (LIBOR hoặc SIBOR) và cộng thêm 1 tỷ lệ phụ trội (x%). Vì thế luồng tiền của công cụ thả nổi bao gồm 2 bộ phận: - Luồng tiền có lãi suất thả nổi theo thị trường không có phần phụ trội. Luồng tiền này bao gồm cả khoản thanh toán mệnh giá vào lúc đáo hạn, gọi là luồng tiền của chứng khoán tham chiếu. Công cụ tham chiếu này sẽ luôn được định giá bằng mệnh giá vì lãi suất được trả chính là lãi suất thị trường nên không có lí do gì để nhà đầu tư phải trả thêm một khoản phụ trội để mua nó. - Luồng tiền đã biết dựa vào phần phụ trội. Việc định giá của bộ phận này tính như phần định giá trái phiếu thông thường. Như vậy giá của công cụ thả nổi lãi suất là tổng giá của 2 chứng khoán trên. n 1 PV = F + x å ------- t=1 (1+i)t Ví dụ: Trái phiếu A mệnh giá 100.000đ, lãi suất LIBOR + 100 điểm cơ bản (1%)/ năm, lãi suất chiết khẩu 8,5% năm, thời hạn TP 2 năm. Định kì trả lãi 6tháng/ lần. Giá phải trả cho TP này là: 4 1 PV = 100 + 0,5 å -------------- t=1 (1+0,0425)t 2.3.1.2. Đo lường lãi suất trái phiếu * Lãi suất hiện hành (Current Yield - CY): Là tỉ lệ giữa lãi cuống phiếu hàng năm với giá thị trường. CY = C/PV Ví dụ: Trái phiếu 15 năm, lãi suất 10% năm, mệnh giá 100.000đ đang bán với giá 80.000đ thì lợi suất hiện hành được xác định như sau: 10% x 100.000 / 80.000 = 0,125 hay 12,5% Phép tính lợi suất hiện hành chỉ quan tâm đến lãi cuống phiếu mà không tính đến bất kì một nguồn lợi tức nào khác tác động tới lợi suất của nhà đầu tư. * Lãi suất đáo hạn (Yield to Marturity - YTM): là mức lãi suất làm cho giá trị hiện tại của các luồng tiền mà người đầu tư nhận được từ trái phiếu bằng với giá của trái phiếu. C C C C F n 1 F PV = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = C å -------- + -------- (1+y)1 (1+y)2 (1+y)n-1 (1+y)n (1+y)n t=1 (1+y)t (1+y)n Trong đó: PV là giá trái phiếu, n là số kì trả lãi, C là tiền lãi của một kì trả lãi, F là mệnh giá trái phiếu, y là lãi suất đáo hạn. Lãi suất đáo hạn có thể xác định theo công thức gần đúng sau: y = i1 + NPV1 (i2 – i1) /NPV1/ + /NPV2/ Trong đó: i1, i2 : mức lãi suất lựa chọn (i2> i1 và i2- i1≤ 1%) NPV1: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i1 ; NPV1>0 NPV2: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i2 ; NPV2<0 Trái phiếu bán theo Mối quan hệ Mệnh giá Lãi suất cuống phiếu = lãi suất hiện hành = lãi suất đáo hạn Giá chiết khấu (dưới mệnh giá) Lãi suất cuống phiếu < lãi suất hiện hành < lãi suất đáo hạn Giá phụ trội (trên mệnh giá) Lãi suất cuống phiếu > lãi suất hiện hành > lãi suất đáo hạn 2.3.1.2. Thời gian đáo hạn bình quân (Macaulay Duration - MD / Duration)) Thời gian đáo hạn bình quân được xác định như sau: n tC nF MD = { å -------- + -------- } / P t=1 (1+y)t (1+y)n Trong đó: y là lãi suất đáo hạn (hay lãi suất yêu cầu), P là giá trái phiếu Ví dụ: Tính MD của trái phiếu lãi suất 10%/năm, kì hạn 5 năm, trả lãi mỗi năm 2 lần, bán theo mệnh giá 100.000đ, lãi suất yêu cầu là 12%/ năm. 2.3.2. Định giá cổ phiếu 2.3.2.1. Một số vấn đề liên quan đến định giá CP ● Định giá CP là gì? - Là công việc ước tính - Không bao giờ định giá bằng phương pháp duy nhất - Giá trị CP được ước tính chỉ có giá trị tại 1 thời điểm cụ thể. ● Tại sao phải định giá CP? - Không định giá được CP là đầu tư cho rủi ro và thất bại. - Để so sánh với giá CP đang bán trên thị trường (đắt hay rẻ) là căn cứ cho việc ra quyết định đầu tư. Ví dụ: giá CP XYZ đang giao dịch trên thị trường là 100.000đ. Việc định giá CP cho kết quả 120.000đ. Chứng tỏ CP XYZ rẻ. ● Những khó khăn khi định giá CP? - Khó khăn trong việc thực hiện các phương pháp định giá - Khó khăn do những yếu tố bất ngờ - Do sự nhạy cảm của CP với các thông tin. 2.3.2.2. Các phương pháp định giá CP ● Phương pháp giá trị sổ sách + Phương pháp giá trị sổ sách là gì? Phương pháp giá trị sổ sách là phương pháp ước tính giá trị CP dựa trên giá trị thực tế của doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh trừ đi tổng nợ phải trả của doanh nghiệp. Giá trị Tổng giá trị tài sản của DN - Tổng nợ - Tổng vốn CPUĐ (nếu có) ss 1CP = ------------------------------------------------------------------------------- thường Tổng số CP thường đang lưu hành Ví dụ: Công ty Cổ phần Hải Kim đã phát hành hai loại cổ phiếu: - Cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự: 10.000 cổ phiếu, mệnh giá 20.000đ /cổ phiếu, cổ tức 13%/năm. - Cổ phiếu phổ thông: 80.000 cổ phiếu với mệnh giá 10.000đ /cổ phiếu Theo số liệu bảng cân đối kế toán ngày 31 tháng 12 năm N: Tổng giá trị tài sản của Công ty: 2.000.000.000 đồng, trong đó: - Tài sản lưu động: 850.000.000 đồng - Tài sản cố định: 1.150.000.000 đồng Tổng số nợ: 600.000.000 đồng Yêu cầu: Xác định giá trị sổ sách 1 cổ phiếu thường của Công ty ngày 31/12/ N? Giải: (2.000.000.000 - 600.000.000 - 10.000 x 20.000) : 80.000 = 15.000đ Trường hợp cổ phần hóa DNNN Giá trị Phần vốn nhà nước thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm CPH ss 1CP = ------------------------------------------------------------------------------- thường Tổng số CP thường được phép phát hành Ví dụ: Theo bản cáo bạch của công ty Thủy điện Thác mơ có các số liệu sau: Số CP phát hành chào bán đấu giá là 70.000.000 Tại thời điểm cổ phần hóa, giá trị phần vốn Nhà nước thực tế của công ty Thủy điện Thác mơ là:1.432.742.646.692đ Giá trị sổ sách 1 CP thường = 1.432.742.646.692đ : 70.000.000 = 20.467,7đ + Tại sao lại sử dụng phương pháp này để định giá CP? - Dễ tính toán - Dễ lấy thông tin - Dùng để kiểm tra cách tính toán của các phương pháp khác Trên thực tế giá trị sổ sách kế toán không phản ánh đúng giá trị thực của tài sản của doanh nghiệp nên giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp có thẻ được tính theo giá trị thị trường của tất cả các tài sản. Việc tính giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp theo sổ sách kế toán hay theo giá thị trường mới chỉ phản ánh giá trị hữu hình của tài sản., phần giá trị lợi thế (giá trị các yếu tố phi vật chất) cấu thành từ tài sản vô hình thường chưa được quan tâm đến. Vì vậy khi định giá cổ phiếu người ta có thể sử dụng phương pháp kết hợp sau: giá trị tài sản ròng + giá trị lợi thế Giá cổ phiếu = -------------------------------------------------------------- số cổ phiếu đang lưu hành (hoặc dự định phát hành) Giá trị lợi thế của một doanh nghiệp có được là do những nguyên nhân chủ yếu như: uy tín của doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm hoặc cung ứng, vị trí địa lí thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ, bí quyết công nghệ như bằng phát minh, sáng chế phục vụ quá trình nghiên cứu phát triển, nhằm cải tiến, mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh hoặc quản lí doanh nghiệp, độc quyền sản xuất hoặc bán những sản phẩm độc quyền do doanh nghiệp phát minh ra, đặc quyền khai thác, nhãn hiệu thương mại… Giá trị lợi thế của doanh nghiệp được tính căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của n năm liền kề (n thường được lấy = 5) với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận thực hiện của n năm liền kề Tỉ suất lợi nhuận bình quân = -------------------------------------------------------------- Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp n năm liền kề Tỉ suất lợi nhuận siêu ngạch = Tỉ suất lợi nhuận bình quân n năm của doanh nghiệp – Tỉ suất lợi nhuận bình quân chung n năm của doanh nghiệp cùng ngành. Giá trị lợi thế = Vốn SXKD của công ty theo sổ kế toán bình quân của n năm liền kề x Tỉ suất lợi nhuận siêu ngạch ● Phương pháp luồng tiền chiết khấu (1) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức ♦ Phương pháp tính Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức là phương pháp ước tính giá trị cổ phiếu, dựa trên độ lớn của các luồng cổ tức, được hiện tại hóa về một thời điểm xác định, mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai. Nếu nhà đầu tư nắm giữ CP đến năm thứ n, cổ tức chi trả từ năm 1 đến năm n lần lượt là: D1, D2, …, Dn, giá bán CP vào năm thứ n là Pn, tỉ lệ lợi tức nhà đầu tư yêu cầu (tỉ lệ chiết khấu) là i, ta có công thức định giá CP theo phương pháp chiết khấu luồng cổ tức như sau: D1 D2 Dn-1 Dn Pn n Dt Pn P0 = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = å -------- + -------- (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 (1+i)n (1+i)n t=1 (1+i)t (1+i)n Trong đó: P0 là giá trị của 1 CP thường Nếu nhà đầu tư nắm giữ CP đến vô hạn, có nghĩa là n → ∞, khi đó giá trị hiện tại của vốn gốc Pn/ (1+i) n → 0, do đó giá trị CP chỉ căn cứ vào luồng cổ tức. Trên thực tế, với quan điểm đầu tư cổ phiếu là đầu tư dài hạn nên người ta xác định giá cổ phiếu ở hiện tại theo công thức (1), được gọi là “mô hình chiết khấu cổ tức” do giáo sư người Mĩ Rond Gordon đưa ra năm 1962. n Dt P0 = å ---------- (1) t=1 (1+i)t Dt được xác định theo 3 trường hợp: Trường hợp 1: cổ tức tăng trưởng ổn định hàng năm (constant growth), tỉ lệ tăng trưởng là g. Như vậy: D1 = D0 x (1+g) D2 = D1 x (1+g) = D0 x (1+g)2 D3 = D0 x (1+g)3,… Do đó, giá cổ phiếu được xác định như sau: D0 x (1+g) D0 x (1+g)2 D0 x (1+g)n P0 = -------------- + -------------- +… + -------------- (2) (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n Nhân cả 2 vế của (2) với (1+i) / (1+g) 1+i D0 x (1+g) D0 x (1+g)2 D0 x (1+g)n-1 P0 x ---- = D0 +-------------- + -------------- +… + -------------- (3) 1+g (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 Lấy phương trình (3) trừ phương trình (2) 1+i D0 x (1+g)n P0 x ---- - P0 = D0 +-------------- 1+g (1+i)n Khi n → ∞ (quá lớn) và với i>g thì [D0(1+g)]n / (1+i) n → 0 , ta có: 1+i P0 x ---- - P0 = D0 (4) 1+g Nhân cả 2 vế của phương trình (4) với (1+g) ta có: P0 (1+i) - P0 (1+g) = D0 (1+g) Suy ra P0 = D0 (1+g) / (i-g) Hay P0 = D1 / (i-g) (5) Biểu thức (5) được gọi là mô hình tăng trưởng ổn định Gordon. Điều kiện áp dụng: Các doanh nghiệp có tỉ lệ tăng trưởng thấp hơn tỉ lệ tăng trưởng danh nghĩa của nền kinh tế (g<i). Nhược điểm: - Không sử dụng cho các công ty không trả cổ tức, - Không áp dụng khi g > i, - Nhạy cảm với sự lựa chọn i, g; - Không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Ví dụ: D0 = 2$, i=12%, g = 6%, n = 70 Ta tính được: P0 = 2 (1+0,06) / (0,12 - 0,06) = 35,33 $ Trường hợp 2: cổ tức không thay đổi qua các năm (Zero growth): D1 = D2 = … = Dn = D0 P0 = D0/i Điều kiện áp dụng: Các doanh nghiệp có chính sách chi trả cổ tức giống nhau ở tất cả các năm. Thường chỉ thích hợp với định giá cổ phiếu ưu đãi. Nhược điểm: không sử dụng cho các công ty không trả cổ tức, không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trả cổ tức cổ phiếu thường. Trường hợp 3: cổ tức tăng trưởng hàng năm không ổn định (differential growth) Trong thực tế không có 1 doanh nghiệp nào tăng trưởng theo 1 tỉ lệ bất biến, có 1 số năm tăng trưởng cao, một số năm tăng trưởng thấp, hoặc không tăng trưởng. Trường hợp này giá trị của 1 CP thường được tính theo công thức sau: D1 D2 Dn-1 Dn Pn n Dt Pn P0 = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = å -------- + -------- (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 (1+i)n (1+i)n t=1 (1+i)t (1+i)n Trong đó Pn là giá cổ phiếu tại năm liền kề trước giai đoạn DIV tăng trưởng ổn định trong suốt thời gian lưu hành còn lại của cổ phiếu và Pn = Dn+1 / (in+1 - gn+1). Ví dụ: Theo bản cáo bạch của công ty Thủy điện Thác mơ, có các số liệu sau: - Trong 4 năm 2007, 2008, 2009, 2010 cổ tức trả cổ đông dự kiến đều ở mức 35.000 triệu đồng. Trong 3 năm tiếp theo từ 2011 - 2013 dự kiến tỉ lệ chi trả cổ tức tăng 8% năm và sau đó tăng 5% ở những năm tiếp theo. Vốn điều lệ của công ty vẫn giữ ở mức 700.000 triệu đồng. - Lãi suất chiết khấu trong 4 năm 2007, 2008, 2009, 2010 lần lượt là 5%, 5%, 5%, 6%. Ba năm tiếp theo 2011, 2012, 2013 ở mức 9%/năm và trong các năm tiếp theo vẫn là 9%/năm. Hãy xác định giá trị 1CP thường theo phương pháp chiết khấu luồng cổ tức của công ty để phục vụ cho phiên đấu giá ngày 29/3/2007, biết rằng số lượng CP thường chào bán là 14.000.000. Giải D2007 = D2008 = D2009 =D2010 = 35 tỉ đồng D2011 = D2010 x 108% = 37,8 tỉ đồng D2012 = D2011 x 108% = 40,824 tỉ đồng D2013 = D2012 x 108% = 44,08992 tỉ đồng D2014 = D2013 x 105% = 46,294416 tỉ đồng Số tiền thu được từ việc bán CP vào năm 2013 là: P2013 = D2014/ i2014 - g2014 = 46,294416 / (9% - 5%) = 1.157, 3604 tỉ đồng 35 35 35 35 37,8 40,824 44,089 1157,36 P0 = --------- + --------- + --------- + --------- + --------- +--------- +--------- +--------- (1+5%)1 (1+5%)2 (1+5%)3 (1+6%)4 (1+9%)5 (1+9%)6 (1+9%)7 (1+9%)7 P0 = 33,333 + 31,761 + 30,234 + 27,723 + 24,567 + 24,342 + 24,119 + 633,116 P0 = 829,180 tỉ đồng Giá trị 1CP thường của công ty = 829,180 tỉ đồng / 14.000.000 = 59.227,20 đồng ● Phương pháp P/E + Phương pháp P/E là gì? Là phương pháp định giá cổ phiếu dựa trên P/E của các doanh nghiệp tương đương hoặc có thể so sánh để tìm ra giá trị CP của doanh nghiệp đang cần định giá. + Cách xác định Giá trị CP (DN đang cần định giá) = EPS (DN đang cần định giá) x P/E P/E có thể tính theo 1 trong 2 cách sau: - Dùng P/E bình quân của toàn ngành công ty đang hoạt động, hoặc lựa chọn 1 công ty có CP đang giao dịch rộng rãi có cùng tỉ lệ lợi nhuận, độ rủi ro và mức tăng trưởng tương tự như CP đang cần định giá. Đối với 1 TTCK phát triển, hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử nhà đầu tư có cổ phiếu A không được giao dịch sôi động trên thị trường. Vậy cổ phiếu A có giá hợp lí là bao nhiêu. Muốn vậy chỉ cần nhìn vào P/E được công bố đối với các loại cổ phiếu có cùng độ rủi ro như cổ phiếu A. Ví dụ: Trung bình các cổ phiếu loại này có P/E = 11. Khi đó nhân P/E với EPS của công ty phát hành cổ phiếu A có thể tìm ra được giá cổ phiếu A. Giả sử EPS của công ty là 5.500đ/CPT thì: P = 5.500 x 11 = 60.500đ /CP - Dùng P/E của chính công ty đó, thường là P/E của nhiều năm trong quá khứ, hoặc P/E hợp lí. Đối với các công ty có g tăng trưởng đều đặn, thì P/E tính theo công thức sau: P/E hợp lí = hệ số chi trả cổ tức x (1+g) / (i-g) P/E = (1-b) x (1+g) / (i-g) Vì P = DIV1 / (i-g) = DIV0 (1+g) / (i-g) Do đó: P0/E0 = DIV0/EPS0 x (1+g) / (i-g) Hay P/E = DIV0/EPS0 x (1+g) / (i-g) Thực tế khi tiến hành định giá CP thì việc lựa chọn hệ số P/E không đơn giản như 2 phương pháp trên mà còn phải căn cứ vào xu hướng phát triển của toàn ngành và của từng công ty cụ thể. Do vậy có thể kết hợp cả 2 cách trên để định giá cổ phiếu của công ty. Ví dụ: công ty X là một công ty thuộc ngành công nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh trong những năm gần đây với hệ số P/E có tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ gia tăng P/E của toàn ngành. Hệ số P/E toàn ngành hiện nay là 11,5. Tỉ lệ chi trả cổ tức năm hiện hành của công ty là 30%, EPS = 2000đ/CP, ROE = 16%, lợi suất yêu cầu đối với cổ phiếu của công ty i = 14%. Yêu cầu xác định giá trị cổ phiếu của công ty? Ta có: g = (1-30%) x16% = 11,2% P/E hợp lí của công ty: 0,3(1+11,2%)/(14%-11,2%) = 11,9 Trong khi đó P/E của ngành là 11,5. Về mặt lí thuyết ta có thể nhân EPS với P/E của ngành: 11,5 x 2000 = 23.000đ/CP. Tuy nhiên qua phân tích cho thấy đây là công ty có xu hướng phát triển mạnh với tốc độ tăng P/E mạnh hơn của toàn ngành, do vậy ta quyết định chọn P/E hợp lí của công ty để định giá cổ phiếu. Với P/E = 11,9 thì giá cổ phiếu của công ty bằng 11,9 x 2000 = 23.800đ/CP. Điểm hạn chế của việc sử dụng hệ số P/E là nó được tính dựa vào lợi nhuận của năm trước, do đó để khắc phục người ta sử dụng hệ số P/E tương lai. Tuy nhiên việc dự đoán lợi nhuận của năm tới sẽ không hoàn toàn chính xác. Vì vậy hệ số này chỉ được dùng để đo mức giá trị tương đối của CP. + Một số lưu ý - Không sử dụng P/E để dự đoán giá CP trong đầu tư ngắn hạn, mà chỉ có ý nghĩa trong dài hạn. - P/E cao (giá CP đắt) nhưng giá CP vẫn có thể tiếp tục đi lên và ngược lại - P/E giúp bạn xác định giá CP đang ở mức nào để đưa ra chiến thuật đầu tư hợp lí.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích và định giá chứng khoán.doc
Luận văn liên quan