Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với vai trò quan trọng và tính thời sự, cấp thiết của hoạt động này, dưới đây là bài viết của em về đề tài: ”Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”.

doc10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5202 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu vấn đề Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với vai trò quan trọng và tính thời sự, cấp thiết của hoạt động này, dưới đây là bài viết của em về đề tài: ”Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”. Giải quyết vấn đề I/ Cơ sở lý luận 1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận: "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định cụ thể hơn trong Luật Khiếu nại - tố cáo. Khái niệm khiếu nại: Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, theo khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo thì khiếu nại được hiểu là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình” Khái niệm tố cáo: Theo khoản 2, điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo thì tố cáo được hiểu: “là việc công dân theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. 2. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo. Điều 2 Luật khiếu nại tố cáo 1998 sửa đổi bổ sung quy định cụ thể như sau: “13- “Giải quyết khiếu nại” là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại. 14- “Giải quyết tố cáo” là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo.” Như vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản pháp luật quy định về vấn đề này, trong đó có Pháp lệnh Khiếu nại - tố cáo của công dân năm 1991, Luật Khiếu nại - tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại - tố cáo năm 2004 và năm 2005; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2006). Như vậy, với việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu tố. 3. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Nội dung của pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Chính từ nội dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của quản lý hành chính Nhà nước. 4.Khái niệm về đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những cơ chế hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một hướng trật tự nhất định. Yêu cầu của việc đảo bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước: (1) Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để Nhà nước pháp quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và nhân dân lao động được bảo vệ và có đủ điều kiện thực hiện các quyền tự do chân chính của họ. (2) Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực. (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao. (4) Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công cuộc đổi mới để thực hiện pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (5) Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của công dân, coi đó là điều kiện tiên quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có để điều kiện để bảo vệ mình. (6) Xử lí nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật không phân biệt họ là ai, ở cấp nào; bất cứ cơ quan, tổ chức và cá nhân nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. (7) Tiến hành nhiều hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. II. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước Từ những khái niệm trên có thể xác định nội dung của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc xác định này đã thể hiện một cách rõ hơn về vai trò to lớn của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đó là: Vai trò của khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Khiếu nại, tố cáo tạo cơ chế để cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi các quyết định hành chính của cơ quan hành chính, cá nhân có thẩm quyền; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi các nhân, tổ chức khác. Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Với cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình là một hình thức quản lý nhà nước. Thông qua hình thức này của nhân dân, các cơ quan nhà nước có thể kịp thời phát hiện những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước để có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời để đảm bảo cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, khiếu nại, tố cáo cũng là một nghĩa vụ pháp lý của mỗi người dân, nó thể hiện trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước và góp phần hoàn thiện đội ngũ cán bộ nhà nước đáp ứng được yêu cầu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Việc công dân thực hiện khiếu nại, tố cáo chính là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, góp phần mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và cùng với đó đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Bởi pháp chế xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với dân chủ, không có dân chủ thì không có pháp chế. Pháp chế là nhân tố để củng cố và phát huy nền dân chủ, phát huy quyền là chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhà nước. Mối quan hệ rõ nét nhất giữa dân chủ và pháp chế được thể hiện ở sự tham gia của công dân vào công việc của nhà nước, giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, khiếu nại, tố cáo còn giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện để khẳng định tính đúng đắn trong hoạt động quản lý theo thẩm quyền của mình; đồng thời kịp phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. 2. Vai trò của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước giúp hệ thống quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo hoàn thiện, đồng bộ; phản ánh đúng yêu cầu dân chủ trong xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định trong Hiến pháp. Trong quá trình thực hiện hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo phải bảo đảm được các yêu cầu sau đây thì sẽ đáp ứng được yêu cầu và đảm bảo của pháp chế xã hội chủ nghĩa: Thứ nhất, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp trong việc cụ thể hóa quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống các quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo; là cơ sở để thiết lập trật tự pháp luật, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo đảm bảo tính hợp Hiến và hợp pháp cũng là đảm bảo cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Hiến pháp, Luật khiếu nại, tố cáo chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, còn để bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, nhưng phải đảm bảo tính thống nhất, hiệu lực pháp lý của Hiến pháp, Luật khiếu nại, tố cáo. Có như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo được đúng bản chất của nó trong quản lý hành chính nhà nước. Thứ hai, pháp luật khiếu nại, tố cáo phải là công cụ pháp lý để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của nhà nước, của xã hội và của người khác bị xâm phạm. Quyền khiếu nại, tố cáo “là phương tiện tự vệ khi các quyền chủ thể bị vi phạm, là hoạt động có tính phòng ngừa nhằm ngăn chặn khả năng vi phạm pháp luật”. Có thể nói, khi nào có hoạt động của quyền lực nhà nước thì ở đó phải có pháp luật khiếu nại, tố cáo để công dân có công cụ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ ba, pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh nhu cầu, nội dung và là công cụ để bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một trong những phương thức quan trọng để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và những người được trao quyền. Quyền khiếu nại, tố cáo là phương tiện để nhân dân đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, lợi ích của công dân. Do đó, việc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những biểu hiện sinh động nhất, rõ nét nhất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo và pháp luật khác có liên quan là góp phần đảm bảo thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất, thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo: trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, trách nhiệm chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo, trách nhiệm xử lý vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo…Thứ hai, nhận thức và quán triệt đầy đủ các nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo: nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, nguyên tắc công khai, dân chủ, nguyên tắc độc lập…Thứ ba, bảo đảm và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, người bị khiếu nại, tố cáo và những chủ thể khác mà pháp luật khiếu nại, tố cáo đã quy định. Có như vậy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo mới khách quan, công bằng, đúng pháp luật những vụ việc cụ thể. Thứ tư, tuân thủ nghiêm ngặt thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo từ giai đoạn thụ lý khiếu nại, tố cáo, kiểm tra, xác minh, kết luận, ban hành quyết định, kết luận khiếu nại, tố cáo, tổ chức thực hiện quyết định, kết luận khiếu nại, tố cáo. Thứ năm, tuân thủ những quy định về việc ban hành quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ sáu, tuân thủ những quy định trong việc tổ chức thực hiện quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo. Như vậy, việc áp dụng pháp luật là nền tảng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng pháp luật khiếu nại, tố cáo một cách linh hoạt, sáng tạo trong từng hoàn cảnh, từng vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể cũng phải dựa trên những nguyên tắc chung của pháp luật để thực hiện và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc quy định cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là góp phần đảm bảo thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Một trong những phương thức để bảo đảm và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải có cơ chế hữu hiệu để kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc kiểm tra hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện bởi cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có trách nhiệm kiểm tra mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới trong đó có hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hoạt động kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện những mặt tích cực để biểu dương, khuyến khích, đồng thời cũng phát hiện những sai phạm, yếu kém để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời, bảo đảm trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Giám sát là phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước theo đúng định hướng, mục tiêu đề ra. Việc giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện bằng hai hình thức: Thứ nhất, giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành là Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và hệ thống Tòa án nhân dân. Thứ hai, giám sát không mang tính quyền lực nhà nước, là hình thức giám sát do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận, cơ quan báo chí, các tổ chức lao động và cá nhân thực hiện thông qua phương thức: kiến nghị, phản ánh về hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia hoạt động giám sát, kiểm tra với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân… Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước - biểu hiện của pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải đấu tranh phòng chống và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Nếu cơ quan hành chính nhà nước vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền và là nhân tố “tiềm ẩn” gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, yêu cầu của pháp chế xã hội trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là phải xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo của những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không kể người vi phạm là ai, giữ cương vị công tác như thế nào. Theo quy định của pháp luật nếu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường. III. Thực trạng và những bất cập trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa 1. Thực trạng trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay. Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh và 7 bộ lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (ngày 22-8) thì tỷ lệ khiếu nại đúng và đúng một phần chiếm 46,13%. Trong số khoảng 300.000 vụ khiếu kiện mỗi năm, hơn 80% thuộc lĩnh vực đất đai. Trong 56.800 vụ việc hành chính chỉ có 310 vụ khởi kiện ra tòa. Điều bất thường ở ta là phần lớn người khiếu nại đều đổ dồn về trung ương để “đâm đơn” thay vì kiện ra tòa án. Trong khi Tòa hành chính lại… rất ít việc. Theo kết quả khảo sát 3 miền cho thấy tình hình khiếu kiện vẫn tập trung ở lĩnh vực đất đai, xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính, bảo vệ môi trường…. Nguyên nhân rất nhiều, song theo nghiên cứu của Viện: “tại” các luật chuyên ngành, đặc biệt là các luật quản lý xã hội, quản lý nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của công dân còn bất cập, nên thực trạng khiếu nại hành chính xu hướng ngày càng tăng về số lượng, phức tạp về tính chất. 2. Những bất cập trong hoạt động khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. (1) Việc giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính chưa bảo đảm tính khách quan. (2) Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính còn nhiều phức tạp, khó thực hiện, thiếu công khai, minh bạch. (3) Thẩm quyền giải quyết khiếu nại không rõ ràng và không đầy đủ. (4) Hạn chế quyền khiếu kiện tiếp của người khiếu nại. (5) Thời hiệu, thời hạn khiếu nại có nhiều bất lợi cho người khiếu nại. (6) Vai trò của các cơ quan thanh tra trong cơ chế giải quyết khiếu nại còn hạn chế 3. Những giải pháp tăng cường công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa 3.1. Các biện pháp cụ thể trước mắt (1) Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị nhằm tập trung giải quyết có hiệu quả các vụ việc khiếu kiện của công dân. (2) Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải có kế hoạch cụ thể, rà soát các vụ khiếu kiện đông người để giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc, kéo dài của công dân. (3) Các tổ chức thanh tra cần đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời những hạn chế, tồn tại, cũng như tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các địa phương, đơn vị. (4) Tăng cường phối hơp chặt chẽ giữa cơ quan hành chính với các tổ chức đoàn thể trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là việc giải quyết vụ việc phát sinh từ cơ sở, những vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp. 3.2. Giải pháp chiến lược, lâu dài (1) Để khắc phục cơ bản tình trạng bất cập trong cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam. Việc nghiên cứu thành lập cơ quan tài phán hành chính ở nước ta hiện nay cần phải có bước đi thích hợp, trong giai đoạn đầu có thể thí điểm thành lập ở một số địa phương, sau đó rút kinh nghiệm và nhân rộng trong phạm vi cả nước. (3) Việc giải quyết khiếu kiện đươc tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ. Cơ quan hành chính bình đẳng với công dân trong quá trình giải quyết khiếu kiện. Công dân có quyền nhờ luật sư thay mặt mình thực hiện việc khiếu kiện.Việc giải quyết khiếu kiện được thực hiện thông qua hội đồng. Phán quyết của hội đồng bằng bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số. (4) Quá trình giải quyết khiếu kiện được thực hiện thông qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, khi phát sinh khiếu kiện, cơ quan hành chính không thụ lý, giải quyết mà cơ quan tài phán sẽ thụ lý. Giai đoạn thứ hai, trường hợp cơ quan hành chính hoặc công dân không thay đổi quan điểm thì vụ việc sẽ được giải quyết tại cơ quan tài phán. Giai đoạn thứ ba, trường hợp không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan tài phán thì các bên có quyền khiếu kiện vụ án hành chính tại toà án. Việc giải quyết được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Kết thúc vấn đề Để bảo đảm cho các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo có tính khả thi, dễ hiểu và dễ vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện, sau mỗi giai đoạn triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo, trong khi chưa thể sửa đổi bổ sung Luật, Nghị định, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Thông tư để hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn vướng mắc, hoặc những quy định mới mà nội dung cần phải có hướng dẫn chi tiết. Bên cạnh đó, cần sớm có hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với các vấn đề đã được nêu trên nhằm đảm bảo được tính linh hoạt, tính khả thi của các quy định trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.doc