LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Khi cạnh tranh trong thương mại trở thành vấn đề toàn cầu thì pháp luật điều tiết
cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì thế, các chế định về
phòng vệ thương mại đã trở thành nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về
thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó, chế định pháp
luật về chống bán phá giá luôn có vị trí quan trọng và được các nước áp dụng khá phổ
biến để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá. Tại Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá đã có những
bước phát triển nhất định với việc ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Lần đầu tiên các quy định về bán phá giá và
chống bán phá giá được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là
Pháp lệnh.
Tuy nhiên, do vấn đề chống bán phá giá còn mới trong khoa học pháp lý và việc
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, việc tiếp nhận pháp luật của WTO vào pháp
luật nội địa còn nhiều hạn chế nên các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá
còn nhiều điểm chưa hợp lý, các quy định còn đơn giản và mang tính nguyên tắc,
nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định hoặc chưa được giải quyết triệt để. Sự
đơn giản và thiếu hoàn chỉnh của pháp luật là một trong những nguyên nhân lớn làm
giảm khả năng thực thi của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Từ khi
được ban hành cho đến nay, Pháp lệnh chống bán phá giá chưa được áp dụng trong
thực tiễn. Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban chấp hành
trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới có nhận định một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam là nước ta
phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp
và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các
sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên
thị trường trong nước [2, tr 1]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp
lý cần thiết và phụ hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO nhằm bảo vệ sản phẩm,
doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước trước những hành vi cạnh
tranh không công bằng của doanh nghiệp nước ngoài là một trong những nội dung
quan trọng đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. Yêu cầu
về sự tương thích giữa pháp luật nội địa và các chuẩn mực pháp lý của WTO là một
trong những đòi hỏi buộc chúng ta phải cam kết và triệt để tuân thủ. Hiệp định chống
bán phá giá của WTO năm 1994 (ADA) đã quy định những căn cứ xác định hiện
tượng bán phá giá, xác định thiệt hại vật chất và đặt ra những nguyên tắc cho việc điều
tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá. Các quy định này đã và đang trở thành chuẩn
mực chung cho pháp luật của các quốc gia thành viên. Các quốc gia có quyền xây
dựng quy trình điều tra, xử lý vụ việc và xây dựng bộ máy thực thi pháp luật dựa trên
những nguyên tắc đã được ghi nhận trong ADA. Hiện nay, các vấn đề pháp lý về
chống bán phá giá đang được các quốc gia thành viên WTO đề xuất sửa đổi và hoàn
thiện trong các vòng đàm phán Doha. Dù kết quả đàm phán chưa đạt được sự thống
nhất cần thiết để sửa đổi pháp luật song cũng cho thấy khả năng phát triển của lĩnh vực
pháp luật này. Việc nghiên cứu và tiếp thu pháp luật của WTO vào pháp luật Việt Nam
và định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này trong tương lai là cần thiết
không chỉ nhằm bảo đảm sự tương thích mà còn đảm bảo khả năng thực thi của pháp
luật trên thực tế.
Nghiên cứu về bản chất pháp lý của hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và
chống bán phá giá tại Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn
do chúng ta tiếp cận lĩnh vực pháp luật này trong bối cảnh đặc biệt. Các quy định trong
Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 được xây
dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản và chưa đầy đủ pháp luật WTO cũng như
pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa
học pháp lý.
Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” làm đề tài luận án. Việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn pháp luật chống bán phá giá
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích chính của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý
luận để làm rõ bản chất pháp lý và kinh tế của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu; nghiên
cứu các quy định của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
nhằm đưa ra những đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn về thực trạng pháp luật;
3
luận án phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật nhằm lý giải về
tình trạng pháp luật đã không được áp dụng trong thời gian có hiệu lực vừa qua và dự
báo những khó khăn cần giải quyết khi tổ chức thực thi pháp luật. Thông qua luận án,
tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện một bước lý luận, các quy định của pháp luật
và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực áp dụng pháp luật chống bán phá
già hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu các cơ sở kinh tế - pháp lý về bán phá giá, phân tích bản chất của
hiện tượng bán phá giá và tác động nhiều mặt của nó đến sự phát triển thị trường của
quốc gia nhập khẩu, đồng thời nghiên cứu về nhu cầu điều chỉnh của pháp luật chống
bán phá giá tại Việt Nam.
2. Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng pháp luật chống bán phá giá bao gồm các
quy định về căn cứ xác định bán phá giá, xác định thiệt hại đáng kể và quan hệ nhân
quả; các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc và áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá, luận án sẽ nêu lên những nội dung chưa được pháp luật giải quyết hoặc
giải quyết chưa triệt để cũng như các nội dung chưa phù hợp với pháp luật WTO để
đưa ra các giải pháp khắc phục.
3. Nghiên cứu bộ máy thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. Trên
cơ sở phân tích và đối chiếu với định hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay,
luận án có những phân tích về đặc trưng và những bất cập của hệ thống cơ quan chống
bán phá giá hiện nay để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống bán phá
giá và cơ chế thực thi tại Việt Nam và các kiến nghị nhằm nâng cao nâng lực áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở kinh tế- pháp lý về bán phá giá, thực
trạng pháp luật và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến khả năng áp
dụng pháp luật chống bán phá giá nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và các quy định của
pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Luận án giới hạn nghiên cứu việc ứng dụng các nguyên lý kinh tế vào khoa học
pháp lý để xác định bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá, theo đó đặt ra giới
hạn điều chỉnh của pháp luật, nghiên cứu thực trạng pháp luật chống bán phá giá tại
Việt Nam trên cơ sở so sánh với các quy định tương ứng của ADA và pháp luật của
một số quốc gia tiên phong trong lĩnh vực pháp luật này là Canađa, EU và Hoa Kỳ. Do
pháp luật chống bán phá giá Việt Nam chưa được áp dụng trên thực tế nên luận án
không có điều kiện nghiên cứu thực tiễn xử lý vụ việc mà chỉ tập trung phân tích các
4
vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến năng lực áp dụng pháp luật và đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường khả năng thi hành của pháp luật
trên thực tế.
Về cơ chế thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, do giới hạn về
dung lượng của Luận án nên tác giả chỉ tập trung phân tích hệ thống và mối quan hệ
về thẩm quyền giữa các cơ quan điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo pháp
luật hiện hành. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá về tính hợp lý, hiệu quả
và đề xuất phương hướng hoàn thiện bộ máy thực thi pháp luật.
4. Tình hình nghiên cứu
Bán phá giá và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là đề tài đã được một số
nhà khoa học nghiên cứu. Đã có một số sách và một số đề tài chuyên khảo về vấn đề
này, như “Bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu” của tác giả
Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 1998; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ của Vụ chính sách đa biên - Bộ thương mại “ cơ sở khoa học áp dụng
thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế” được nghiệm thu năm 2000; đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do
VCAD chủ trì “ Các giải pháp ứng phó của Việt Nam đối với việc chống bán phá giá
trong thương mại quốc tế” đã được nghiệm thu năm 2005. Ngoài ra, trong quá trình
soạn thảo Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ thương mại tổ chức nhiều cuộc hội thảo về
vấn đề này, như cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU vào
cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực quản lý quốc gia có hiệu
quả Việt Nam- Australia năm 2005; Hội thảo về Pháp luật và thực tiễn chống bán phá
giá tại Liên minh Châu Âu do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh vào năm 2004 .
Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học, còn có một số bài viết
của các nhà luật học cũng như kinh tế về phá giá trong thương mại quốc tế như: Tác
giả Lê Xuân Trường Trường và Nguyễn Đình Chiến với bài viết “Để áp dụng thành
công thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính
số 4 năm 2003; “Bàn về chống phá giá trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Đoàn
Văn Trường đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 227 tháng 4 năm 1997; “Góp ý
dự thảo Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam” của Vũ
Thái Hà đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2003; “Bán phá giá trong
thương mại quốc tế và thực tiễn Việt Nam của tác giả Nguyễn Quốc Thịnh, “Cam kết
theo pháp lệnh chống bán phá giá của EU” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 9 năm 2004;
“Các vụ kiện chống bán phá giá - một chẳng đường nhìn lại”; “Các vụ kiện chống bán
phá giá- những đặc điểm cần lưu ý đối với các DN Việt Nam” của tác giả Đinh Thị
Mỹ Loan trên Tạp chí Thương mại các số 44/2005, số 1+2/2006 và Tạp chí Cộng sản
điện tử 2006.
Ngoài ra, vấn đề bán phá giá cũng được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu về cạnh tranh như : “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
hiện nay” của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật do PGS. Nguyễn Như Phát và
PGS. Trần Đình Hảo chủ biên do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2001;
“Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường” của PGS Nguyễn Như Phát và Thạc sỹ Bùi
Nguyên Khánh do Nhà xuất bản Công an Nhân dân xuất bản năm 2001. Về đề tài cao
học luật, có hai đề tài nghiên cứu về vấn đề này là: 1) “Pháp luật về chống bán phá giá
trong ngoại thương một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Niêm
đã bảo vệ thành công năm 2003 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; và
2) “Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của NCS thực hiện năn 2004.
Vấn đề pháp luật chống bán phá giá của WTO và của các nước còn được nghiên
cứu tương đối sâu và toàn diện trong các tác phẩm của các tác giả nước ngoài như:
Policy makers dumping on trade của Casey J.Lartigue Jr được công bố năm 2002 tại
cato Institutes, Washington D.C; Trade remedies and WTO disputes settlement:why
are so few challenged của Chad P.Bown được công bố năm 2004; The politics behind
the Application of antidumping Laws to nonmarket economies: Distrust and informal
constraints của Cythia Horne được công bố năm 2001; Legal and economic interfaces
between antidumping and competition policy của Joses Tavares de Araujo Jr được
công bố năm 2001; Antidumping: how it works and who gets hurt của J Michael
Finger được công bố năm 1993, Cải cách hiệp định chống bán phá giá: con đường cho
các đàm phán WTO của các tác giả Lindsey Brink và Dan Ikensoon đăng trên tạp chí
phân tích chính sách thương mại của Viện Casto số 21 năm 2002; Luật chống bán phá
giá mới trong quá trình đàm phán của M. Koulen được công bố năm 1995; Hệ thống
thương mại thế giới của John H.Jackson được dịch sang tiếng Việt do Nhà xuất bản
Thanh niên xuất bản năm 2001 .
Các công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã tiếp cận vấn đề pháp luật chống
bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những tài liệu quí báu cho chúng tôi trong
quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đề tài mà chúng tôi lựa chọn chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về bán phá giá và chống bán
phá giá. Cho đến nay, vấn đề chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam nói
chung và pháp luật về vấn đề này nói riêng là mảng đề tài chưa được nghiên cứu ở bậc
nghiên cứu sinh tại Việt Nam.
Đề tài mà tác giả nghiên cứu là sự phát triển một bước của luận văn cao học của
mình. Ở luận văn cao học tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của
pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá. Luận án được nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện cơ sở kinh tế và pháp lý để xác định bản chất của hiện tượng bán
phá giá; nghiên cứu tổng thể và sâu về các chế định cụ thể trong pháp luật chống bán
phá giá làm cơ sở đánh giá về sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật
WTO, đánh giá khả năng áp dụng của pháp luật trong thực tiễn và đưa ra những đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về Nhà
nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế. Nội dung của luận án được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn
bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các tài liệu
pháp lý.
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: tổng hợp, phân
tích, so sánh, đối chiếu lịch sử .
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về
pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Các kiến nghị, kết
luận nêu ra trong luận án là những luận cứ khoa học của tác giả. Có thể nói đây là
công trình khoa học được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống và đề cập đến
nhiều vấn đề về pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam mà từ trước đến nay chưa
được giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để. Đó là vấn đề về quá trình nhận thức về
bán phá giá trong khoa học pháp lý của Việt Nam, cơ sở kinh tế - pháp lý cho việc xác
định bản chất của hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, những thành tựu và tồn
tại trong pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam .
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo hữu ích trong việc nghiên cứu về lý luận và pháp luật chống bán phá giá, làm tài
liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên đại học chuyên ngành luật học hoặc kinh tế đối
ngoại.
Về thực tiễn: những nghiên cứu, kết luận, đề xuất của luận án còn có ý nghĩa
trong việc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Cơ cấu của luận án
Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên
cứu. Luận án bao gồm các phần sau:
- Lời nói đầu
- Phần nội dung gồm bốn chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và pháp
luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu tại Việt Nam.
Chương 2: Các căn cứ xác định hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, xác định thiệt
hại thực tế của ngành sản xuất trong nước theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo Pháp luật Việt
Nam.
Chương 4: Các cơ quan thực thi pháp luật và một số đề xuất hoàn thiện pháp
luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
214 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2741 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hưởng đến giá hàng
hóa; (2) giá mua bán thấp hơn giá thành sản xuất của hàng hóa. Biện pháp dự phòng được
áp dụng phải là “giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang nước
thứ ba thích hợp” thay vì quy định hiện nay là “ giá có thể so sánh được của hàng hóa
tương tự của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu đang được bán trên thị trường nước thú
ba trong các điều kiện thương mại thông thường”.
Thứ ba, bổ sung các quy định về thiệt hại và cấu trúc lại hình thức của các quy định về
thiệt hại đáng kể. Về hình thức, quy định về thiệt hại đáng kể và tình trạng đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước chưa có vị trí tương xứng so với các quy
định về việc xác định hiện tượng bán phá giá. Pháp lệnh chống bán phá giá và Nghị định
196
90/2005/NĐ-CP đã dành khá nhiều điều luật độc lập để mô tả về các căn cứ xác định việc
bán phá giá nhưng chỉ quy định về thiệt hại vật chất trong điều các Khoản 7 và 8 Điều 2 và
Khoản 2 Điều 12 của Pháp lệnh. Với tư cách là một điều kiện để quyết định có hay không
việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, việc xác định thiệt hại đáng kể là một nội dung
rất quan trọng của pháp luật nên cần có một vị trí xứng đáng. Trong ADA, định nghĩa và
cách thức xác định thiệt hại vật chất được quy định thành một điều luật bên cạnh các điều
luật về hiện tượng bán phá giá và quan hệ nhân quả. Về nội dung, pháp luật chỉ định nghĩa
và liệt kê các căn cứ để xác định thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước mà chưa có những giải thích cụ thể về cách thức xác định. Việc
quy định chi tiết là cần thiết nhằm tránh sự tùy tiện của cơ quan thực thi pháp luật, đảm bảo
sự phù hợp với pháp luật của WTO và hướng dẫn các DN trong việc cung cấp chứng cứ và
có những lập luận phù hợp khi tham gia vào vụ việc. Về cách thức hoàn thiện pháp luật,
chúng tôi đề xuất nên tách quy định về thiệt hại thành một điều khoản riêng trong đạo luật
về chống bán phá giá. Nội dung của điều luật này nên tiếp nhận những quy định tương ứng
trong ADA. Ngoài ra, cơ quan điều tra nên có những hướng dẫn chi tiết về cách thức xác
định thiệt hại và hướng dẫn về những chứng cứ các bên cần cung cấp để chứng minh về
thiệt hại.
Thứ tư, từ những phân tích tại mục 3.3.1 về việc áp dụng biện pháp cam kết, chúng tôi
đề xuất cần có những quy định chi tiết hơn nữa về điều kiện và thủ tục áp dụng biện pháp
cam kết, cụ thể là:
- Về điều kiện áp dụng biện pháp cam kết, cần bổ sung thêm điều kiện về khả năng
thực thi cam kết của các bên và khả năng giám sát của cơ quan có thẩm quyền. Trong
những trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không thể giám sát một cách có
hiệu quả việc thực hiện cam kết như số lượng nhà xuất khẩu quá lớn… có thể sẽ không áp
dụng biện pháp cam kết. Ngoài ra, cần sửa đổi câu chữ trong quy định tại Khoản 5 Điều 21
Pháp lệnh chống bán phá giá, thay vì quy định “Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định
áp dụng biện pháp cam kết nếu xét thấy việc thực hiện cam kết đó không gây ra hoặc không
đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể…” nên sửa thành “Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định
áp dụng biện pháp cam kết nếu xét thấy việc thực hiện cam kết đủ để ngăn chặn thiệt hại
đáng kể mà việc bán phá giá gây ra hoặc đe dọa gây ra cho ngành sản xuất trong nước”.
- Cần có cơ chế để các bên liên quan đến vụ việc như ngành sản xuất trong nước, đại
diện người tiêu dùng, các DN nhập khẩu… được đưa ra ý kiến bình luận về việc áp dụng
cam kết. Ý kiến của các bên có thể không mang tính quyết định, song cũng có thể cung cấp
thêm thông tin để cơ quan có thẩm quyền đánh giá về tác động của các biện pháp cam kết
197
đến tình hình của thị trường. Trên cơ sở đó, quyết định áp dụng hoặc không áp dụng cam
kết sẽ thuyết phục được các bên liên quan.
- Cần có quy định về việc tiếp tục điều tra khi có đề nghị của bên đưa ra cam kết.
Pháp luật nên ghi nhận nguyên tắc việc áp dụng cam kết sẽ chấm dứt việc điều tra trừ khi
bên đưa ra cam kết đưa ra đề nghị tiếp tục điều tra. Trong trường hợp cuộc điều tra tiếp tục,
nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định có bán phá giá, có thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất và quan hệ nhân quả, biện pháp cam kết tiếp tục
được áp dụng. Trong trường hợp ngược lại, biện pháp cam kết sẽ chấm dứt.
- Pháp luật cần có quy định về việc các nhà xuất khẩu bị điều tra phải đưa ra cam kết
độc lập mà không thể liên kết đề xuất cam kết. Có hai căn cứ làm cơ sở cho đề xuất này là
(1) từng nhà xuất khẩu có biên độ phá giá và khả năng gây thiệt hại đáng kể riêng biệt.
Trong khi đó, biên độ phá giá và khả năng gây thiệt hại là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền
xem xét về mức độ áp dụng các cam kết. (2) Nếu cho phép các bên liên kết đưa ra cam kết,
sự liên kết đó có thể tạo ra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh về giá hoặc về việc ấn định số
lượng, khối lượng hoặc giá trị hàng hóa theo pháp luật cạnh tranh.
Thứ năm, cần có những quy định chi tiết về chứng cứ. Pháp luật hiện hành chỉ đưa ra
định nghĩa về chứng cứ và việc cung cấp chứng cứ, tài liệu trong quá trình điều tra tại Điều
3 và Điều 22 Nghị định 90/2005/NĐ-CP. Trong khi đó, việc điều tra và xử lý vụ việc chống
bán phá giá hoàn toàn căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu, sổ sách do các bên cung cấp. Vì
vậy, việc quy định cụ thể về chứng cứ là cần thiết bao gồm các quy định về tiêu chuẩn của
chứng cứ, về thời gian cung cấp chứng cứ, về việc chuyển hóa chứng cứ, lập luận từ trình
bày miệng thành văn bản và quy định về giá trị của từng loại chứng cứ.
Thứ sáu, cần sửa đổi quy định về điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá có hiệu
lực về trước trong thời gian 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời. Theo đó, điều
kiện thứ nhất là “hàng hóa nhập khẩu đó bị bán phá giá” phải được sửa thành “hàng hóa
nhập khẩu đã từng bán phá giá gây thiệt hại hoặc người nhập khẩu đã biết hoặc sau này biết
rằng người xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá này sẽ gây thiệt hại”.
c. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá,
trong đó, tập trung giải quyết những nội dung sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về việc bảo mật thông tin. Các quy định về
việc bảo mật thông tin trong pháp lệnh chống bán phá giá còn sơ sài và có nhiều nội dung
cần sửa đổi, cụ thể:
- Các quy định về việc xác thẩm định thông tin bảo mật trong pháp luật chống bán
phá giá không nên đề cập đến bí mật quốc gia bởi đối tượng này được bảo mật theo pháp
198
luật về bảo mật đối với bí mật quốc gia. Việc xác định tính chất bảo mật trong trường hợp
này là đương nhiên và các cơ quan có thẩm quyền, các bên liên quan phải có trách nhiệm
bảo mật đối với những thông tin này.
- Cần có quy định chi tiết về bản tóm tắt đối với các tài liệu, thông tin được yêu cầu
bảo mật theo hướng bản tóm tắt phải đảm bảo các nội dung cơ bản để người tiếp cận có thể
hiểu được một cách hợp lý nội dung của tài liệu trừ trường hợp thông tin hoặc tài liệu không
thể tóm tắt được. Trong trường hợp này, bên đề nghị cần chứng minh rằng tài liệu, thông tin
được đề nghị bảo mật không thể tóm tắt được.
- Cần cho phép luật sư của các bên liên quan tiếp cận thông tin bảo mật với những
quy định về trách nhiệm bảo mật và những chế tài kèm theo nếu có vi phạm. Điều 16 NĐ
90/2005/NĐ-CP không cho phép luật sư ghi chép, sao chụp những thông tin được bảo mật.
Quy định này chắc chắn sẽ cản trở việc thực hiện tác nghiệp của Luật sư và ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên liên quan khi không thể biết và không thể nắm được một cách cơ bản
các lập luận, các thông tin đang chống lại quyền lợi của họ. Chúng tôi cho rằng, ngoài bí
mật quốc gia, luật sư nên được quyền tiếp cận và sao chụp những thông tin bí mật khác để
có thể bảo vệ một cách hiệu quả và đúng pháp luật quyền lợi của thân chủ. Vấn đề mà pháp
luật cần giải quyết là xây dựng cơ chế hợp lý để luật sư đảm bảo tôn trọng bí mật kinh
doanh. Với kinh nghiệm của các nước như Hoa Kỳ, Canađa…, pháp luật đặt ra những chế
tài nghiêm khắc đối với người vi phạm như tước quyền hành nghề hoặc cấm không được
tham gia các vụ việc chống bán phá giá.
- Cần sửa đổi Khoản 3 Điều 30 NĐ 90/2005/NĐ-CP về việc không sử dụng thông tin
bị từ chối bảo mật, theo đó, “trường hợp không chấp nhận đề nghị bảo mật do các bên cung
cấp và các bên cung cấp thông tin không đồng ý công khai thông tin được đề nghị bảo mật,
cơ quan điều tra không sử dụng thông tin này và gửi trả lại cho các bên cung cấp”
Thứ hai, quy định chi tiết về việc điều tra tại chỗ. Các quy định hiện hành về điều tra
tại chỗ chỉ đặt ra những nguyên tắc cho hoạt động điều tra. Từ những phân tích tại mục
3.1.2.3, chúng tôi cho rằng cần có quy định chi tiết hơn về vấn đề này theo các nội dung
sau:
- Cần quy định việc điều tra tại chỗ đối với các DN trong nước bao gồm các DN nhập
khẩu hàng hóa bị điều tra và các DN thuộc ngành sản xuất trong nước. Với các DN nhập
khẩu, việc điều tra tại chỗ nhằm thu thập và thẩm tra các thông tin có liên quan đến việc
nhập khẩu hàng hóa như số lượng, khối lượng, giá trị của hàng hóa trong thời kỳ điều tra,
giá xuất khẩu…. Với các DN trong nước sản xuất hàng hóa tương tự, việc điều tra tra tại
199
chỗ để thu thập và xác minh thông tin về thiệt hại đáng kể do việc bán phá giá gây ra hoặc
đe dọa gây ra.
- Cần quy định về điều kiện mà các DN phải đáp ứng để được điều tra tại chỗ. Điều
kiện được đặt ra từ mục đích của việc điều tra tại chỗ là xác minh lại những thông tin mà họ
đã cung cấp trong bản câu hỏi và những tài liệu kèm theo. Do đó, để được điều tra tại chỗ,
các DN phải trả lời hoàn chỉnh bản câu hỏi, phải cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định
của pháp luật và yêu cầu của cơ quan điều tra. Trong trường hợp có nhiều DN đáp ứng
được điều kiện trên và thời hạn điều tra không cho phép cơ quan có thẩm quyền tiến hành
điều tra tại chỗ tất cả DN, pháp luật nên đặt ra nguyên tắc chọn mẫu. Việc chọn mẫu sẽ do
cơ quan có thẩm quyền quyết định theo từng vụ việc cụ thể.
- Cần có quy định về việc thông báo nội dung điều tra tại chỗ. Pháp luật cần quy định
cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho DN về nội dung sẽ thẩm tra trước khi tiến hành
điều tra tại chỗ. Việc thông báo có tác dụng hỗ trợ cho người bị điều tra có những chuẩn bị
cần thiết để đảm bảo cho việc điều tra hiệu quả và nhanh chóng.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định về rà soát trong thời hạn và rà soát cuối kỳ. Từ
những phân tích tại mục 3.2.2 về rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chúng
tôi cho rằng, hoàn thiện các quy định về rà soát trong thời hạn và rà soát cuối kỳ cần tập
trung vào những nội dung sau:
- Không nên áp dụng cơ chế rà soát tự động đối với việc rà soát cuối kỳ. Theo quy
định hiện hành, thời hạn áp dụng biện pháp chống bán phá giá không quá năm năm kể từ
ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Do đó, khi hết thời hạn áp dụng,
biện pháp chống bán phá giá đương nhiên hết hiệu lực. Việc áp dụng cơ chế tự động rà soát
cho thấy ý chí của nhà nước mong muốn kéo dài khả năng áp dụng biện pháp chống bán
phá giá khi chúng hết hiệu lực theo quy định của pháp luật. Điều này hoàn toàn trái với quy
định về thời hạn áp dụng biện pháp chống bán phá giá và trái với những nguyên tắc được
ghi nhận trong pháp luật của WTO. Chúng tôi cho rằng pháp luật nên quy định việc rà soát
cuối kỳ chỉ được thực hiện khi các bên liên quan có yêu cầu.
- Cần phân biệt nội dung rà soát cuối kỳ và việc điều tra ban đầu. Theo quy định hiện
hành, việc rà soát được thực hiện theo các quy định về điều tra vụ việc chống bán phá giá
bao gồm các quy định về nội dung điều tra và thủ tục điều tra. Như đã phân tích, các quy
định này không hợp lý vì nội dung và mục đích của hoạt động rà soát và hoạt động điều tra
là khác nhau. Nội dung của việc rà soát không là xác định có hay không việc bán phá giá
của hàng hóa nhập khẩu, có hay không thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước…
mà là đánh giá về tác động của việc chấm dứt áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với
200
thị trường trong tương lai. Do đó, thủ tục và các hoạt động nghiệp vụ có thể áp dụng tương
tự như cuộc điều tra ban đầu, song nội dung của việc rà soát phải được quy định chi tiết và
có sự khác biệt với nội dung điều tra.
- Cần phân biệt nội dung và mục đích điều tra thường niên và điều tra cuối kỳ. Theo
đó, rà soát thường niên chỉ nhằm đánh giá những thay đổi của thị trường để xác định lại
mức độ áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong khi rà soát cuối kỳ quyết định có hay
không việc tiếp tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Với mục đích khác nhau như
trên, nội dung của hai hoạt động rà soát này không thể giống nhau.
- Cần quy định về trách nhiệm của người yêu cầu rà soát. Người yêu cầu cần cung cấp
chứng cứ chứng minh về việc cần thiết phải rà soát để thay đổi biện pháp chống bán phá giá
cho phù hợp với điều kiện thị trường hoặc chứng minh về nhu cầu tiếp tục áp dụng các biện
pháp này khi thời hạn áp dụng sắp kết thúc. Tùy theo đối tượng và nội dung yêu cầu mà
chứng cứ cần được cung cấp sẽ khác nhau.
4.3.2. Hoàn thiện bộ máy thực thi luật cạnh tranh cho phù hợp với điều kiện hiện nay của
Việt Nam
Xây dựng bộ máy thực thi phù hợp và có năng lực là điều kiện tiên quyết đảm bảo
hiệu quả của việc thực thi pháp luật chống bán phá giá. Hầu hết các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với một số vấn đề quan trọng là trình độ quản lý
đối với hệ thống chính sách chống bán phá giá. Việc duy trì có hiệu quả một hệ thống chính
sách như vậy không chỉ cần có một văn bản pháp luật chính thức về chống bán phá giá mà
còn đòi hỏi trình độ và năng lực của các cơ quan thi hành và giám sát biện pháp này. Một
trong những yếu tố quyết định năng lực của các cơ quan thi hành pháp luật là việc tổ chức
hợp lý về cơ cấu và thẩm quyền của từng cơ quan trong hệ thống đó. Nghị quyết
08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới đã đưa ra định
hướng khẩn trương hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh,
chống trợ cấp, chống bán phá giá, quản lý thị trường…[2, tr 4]. Do đó, việc tổ chức lại các
cơ quan thực thi pháp luật cần được đặt ra khi tiến hành hoàn thiện pháp luật chống bán phá
giá theo các định hướng sau:
Việc hoàn thiện bộ máy chống bán phá giá cần đặt trong xu thế cải cách bộ máy hành
pháp theo hướng tinh giản hợp lý.
Với những phân tích tại mục 4.1 của Luận án, chúng tôi cho rằng việc tách chức năng
điều tra và xử lý vụ việc cho các cơ quan khác nhau là hợp lý để bảo đảm sự cẩn trọng trong
201
việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Tuy nhiên, sự tồn tại của Hội đồng xử lý vụ
việc chống bán phá giá là chưa phù hợp với xu thế tinh giản bộ máy hành pháp và chưa phù
hợp với nhu cầu thực thi pháp luật. Hiện nay, trong bộ máy hành pháp đã tồn tại một số Hội
đồng có chức năng xử lý các vụ việc về hành vi xâm hại đến thị trường cạnh tranh như Hội
đồng cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các hội
đồng này được thành lập riêng biệt theo quyết định của Chính phủ và các thành viên do
những cán bộ quản lý nhà nước kiêm nhiệm. Trong khi đó, nhu cầu xử lý vụ việc chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, các vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh không nhiều nên
hoạt động của các hội đồng này không thường xuyên. Ngoài các quy định của pháp luật về
Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, gần như không có bất kỳ dấu hiệu vật chất nào
cho thấy sự tồn tại của cơ quan này trên thực tế. Vì vậy, tình trạng các DN trong nước
không biết đến vai trò, nhiệm vụ của các cơ quan thực thi pháp luật dẫn đến lúng túng trong
việc sử dụng pháp luật để tự bảo vệ mình là điều dễ hiểu.
Vấn đề cần giải quyết hiện nay là sắp xếp lại bộ máy thực thi pháp luật vừa đảm bảo
phù hợp với nhu cầu thực tế vùa đáp ứng nhu cầu tinh giản bộ máy hành pháp. Chúng tôi
cho rằng, nên nhập Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ vào
Hội đồng cạnh tranh vì những lý do sau:
(1) Mục đích của việc xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh và vụ việc chống bán phá giá
đều là bảo vệ sự lành mạnh của thị trường. Trong quá trình xử lý hai loại vụ việc này, cơ
quan có thẩm quyền đều sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ giống nhau như phân tích tác
động của hành vi đối với sự vận hành và phát triển của thị trường cạnh tranh, phân tích cơ
cấu thị trường cạnh tranh, phân tích tác động của hành vi đến môi trường cạnh tranh….
(2) Cơ cấu hiện tại của hai Hội đồng này gần như giống nhau bao gồm đại diện Bộ
Công thương, Bộ Tư Pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính…. Sự khác biệt chỉ là các
thành viên cụ thể được bổ nhiệm.
(3) Hiện nay, Hội đồng cạnh tranh đã thành lập Ban thư ký và đã khẳng định năng lực
làm việc qua việc xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh đầu tiên. Nếu nhập hai hội đồng này
thành một hội đồng duy nhất, chúng ta có thể khai thác bộ máy giúp việc hiện có của Hội
đồng cạnh tranh khi xử lý các vụ việc chống bán phá giá mà vẫn đảm bảo chiến lược tinh
giản bộ máy hành pháp.
(4) Trong tương lai gần, có thể Việt Nam chưa có nhu cầu tiến hành quá nhiều vụ việc
chống bán phá giá. Do đó, việc duy trì thêm một cơ quan có vai trò tư vấn (dưới danh nghĩa
Hội đồng) là không cần thiết. Thực tế cho thấy, vị trí của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán
phá giá ngày càng mờ nhạt trong bộ máy Nhà nước và trong nhận thức của các DN. Tư
202
cách thành viên của Hội đồng chỉ còn là hình thức vì các thành viên chưa từng có các hoạt
động chuyên môn trong lĩnh vực này, chưa có những hoạt động nghiệp vụ chung, chưa có
chiến lược phát triển hoạt động khi chưa có vụ việc cụ thể được xử lý.
Cần xem xét lại vai trò và vị trí pháp lý của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá
theo nguyên tắc trao thực quyền cho cơ quan này.
Với các quy định hiện hành, vai trò của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá
chưa được định hình rõ ràng. Mặc dù cơ quan này có thẩm quyền ra quyết định về nội dung
vụ việc song quyết định đó chỉ là một trong những căn cứ để Bộ trưởng Bộ Công thương ra
quyết định về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Do đó, cơ quan này không phải là
cơ quan xử lý vụ việc mà đơn giản chỉ có vai trò của một bộ máy tư vấn cho Bộ trưởng
trong việc ra quyết định xử lý vụ việc. Nếu chỉ với vai trò tư vấn, chúng ta không cần thành
lập một cơ quan riêng biệt trong bộ máy hành pháp với quy trình thành lập phức tạp (do
Chính phủ thành lập và Thủ tướng bổ nhiệm thành viên). Trong trường hợp này, nên trao
quyền cho Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định thành lập hội đồng tư vấn và lựa chọn
thành viên phù hợp với từng vụ việc cụ thể. Nếu thành lập một cơ quan có chức năng xử lý
vụ việc, cơ quan này cần được trao quyền ra quyết định cuối cùng về vụ việc bao gồm việc
áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Chúng tôi cho rằng, nên trao quyền xử lý vụ việc cho
Hội đồng xử lý (hoặc Hội đồng cạnh tranh nếu đề xuất nhập hai hội đồng được chấp thuận).
Sự bất hợp lý trong cơ chế hiện hành là quyền quyết định cuối cùng được trao cho một chức
danh không trực tiếp tham gia vào vụ việc. Do đó, các quyết định của Bộ trưởng hoàn toàn
dựa trên kết quả làm việc của cơ quan điều tra và của Hội đồng tư vấn và ý chí chủ quan
của người ra quyết định. Mọi áp lực từ vụ việc như sự mẫu thuẫn về quan điểm giữa các lực
lượng đối lập trên thị trường, sức ép kinh tế - chính trị giữa Việt Nam và các nước có liên
quan, áp lực về trách nhiệm cá nhân… sẽ ảnh hưởng đến bản lĩnh và quyết tâm của Bộ
trưởng. Vì thế, trao quyền xử lý cho một Hội đồng với cơ chế làm việc tập thể không chỉ
khắc phục phần nào hạn chế nói trên mà còn đảm bảo sự cẩn trọng và hiệu quả của quyết
định xử lý.
Cần xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan thực thi pháp luật
chống bán phá giá.
Với nguồn lực hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền chưa thể tiến hành điều tra và xử
lý các vụ việc chống bán phá giá khi có yêu cầu. Nhận định về những thách thức khi Việt
Nam là thành viên của WTO, Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban
chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có khẳng định đội ngũ cán bộ, công chức
nước ta (bao gồm cán bộ quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp và chuyên gia trong các
203
lĩnh vực) còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt
chúng ta còn thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế và ngoại ngữ để
giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh
doanh…[2, tr 2] Do đó, vấn đề quan trọng không kém công tác hoàn thiện pháp luật là cần
có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng và mạnh về trình độ và khả năng áp
dụng pháp luật. Trong điều kiện chưa có kinh nghiệm thực tiễn, công tác đào tạo chắc chắn
gặp nhiều khó khăn và cần có sự trợ giúp từ các nước phát triển đã có bề dày áp dụng pháp
luật chống bán phá giá. Vấn đề cần giải quyết là những cản trở trong tâm lý quản lý của các
cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách thương mại quốc tế bởi chiến lược đào tạo
này chưa thể phát huy hiệu quả trong ngắn hạn do khả năng áp dụng pháp luật chống bán
phá giá tại Việt Nam chưa cao. Tuy nhiên, việc đào tạo cán bộ điều tra và xử lý vụ việc sẽ
tạo thế chủ động cho Việt Nam trong dài hạn khi cần áp dụng các biện pháp phòng vệ hợp
pháp trong thương mại quốc tế. Trước mắt, cần nhanh chóng củng cố lực lượng điều tra
viên và nâng cao năng lực của nguồn nhân lực hiện tại cho Cục Quản lý cạnh tranh. Sau
nữa, nên sắp xếp lại cơ cấu của Hội đồng xử lý theo nguyên tắc không chỉ dựa trên chức
danh quản lý để bổ nhiệm thành viên mà cần thu hút thêm các nhà khoa học từ các Viện
nghiên cứu, các trường đại học và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Từ những định hướng trên, tác giả cho rằng, các vấn đề cụ thể cần giải quyết để nâng
cao năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật là:
Thứ nhất, cơ quan điều tra cần xây dựng quy trình điều tra chi tiết và có những hướng
dẫn cụ thể cho các DN khi tham gia vụ việc chống bán phá giá. Đạo luật về chống bán phá
giá sẽ chỉ đặt ra khung pháp lý cơ bản về thủ tục và nội dung điều tra. Dựa vào đó, cơ quan
điều tra sẽ thiết kế quy trình điều tra với những giai đoạn, những hoạt động điều tra cụ thể
và chi tiết. Dựa trên hướng dẫn cụ thể, các điều tra viên và các bên có liên quan có thể thực
hiện quyền và nghĩa vụ một cách thuận lợi và hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, cơ quan
điều tra chỉ có thể tham khảo kinh nghiệm điều tra của các nước và linh hoạt vận dụng trong
điều kiện của Việt Nam. Những nguyên tắc mà cơ quan điều tra luôn phải tuân thủ khi xây
dựng quy trình điều tra chi tiết là:
- Cơ quan điều tra không được bình luận về vụ việc khi chưa có kết luận điều tra. Mọi
sự bình luận dù với tư cách cá nhân đều có thể gây ra những hậu quả khó lường trước cho
thị trường.
- Cần ghi nhận trách nhiệm các điều tra viên, của nhân viên cơ quan điều tra trong
việc hướng dẫn DN khi nộp hồ sơ yêu cầu, khi cung cấp chứng cứ hoặc yêu cầu được cung
cấp tài liệu về vụ việc.
204
- Cần ghi nhận quyền được tiếp cận hồ sơ của mọi chủ thể có liên quan, trừ những tài
liệu được bảo mật, cho phép các chủ thể quan tâm đến vụ việc được bình luận về vụ việc
một cách có trật tự.
- Cần xây dựng cơ chế công khai các kết luận về vụ việc để mọi chủ thể quan tâm có
thể tiếp cận những nội dung cơ bản về diễn biến của vụ việc.
- Cần công khai quy trình điều tra cho mọi chủ thể có liên quan.
- Cần ghi nhận nguyên tắc bảo mật về hồ sơ yêu cầu cho đến khi có quyết định điều
tra. Mọi sự công khai thông tin đều có thể tác động không tốt đến tâm lý và hành động của
các bên liên quan.
Thứ hai, cơ quan điều tra nên có cơ chế phối hợp với các cơ quan khác để thu thập
thông tin có liên quan đến vụ việc như cơ quan hải quan để thu thập số liệu về diễn biến của
hoạt động nhập khẩu, cơ quan quản lý thị trường để phân tích tác động của lượng hàng hóa
nhập khẩu tiểu ngạch đối với ngành sản xuất trong nước, Bộ Kế hoạch và đầu tư để thu thập
số liệu về sự tăng trưởng hay suy giảm của ngành sản xuất trong nước…. Các công cụ và
phương tiện kỹ thuật mà những cơ quan trên sử dụng khi thực hiện trách nhiệm quản lý nhà
nước ở lĩnh vực được giao có vai trò hỗ trợ cho hoạt động điều tra.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế làm việc định kỳ của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán
phá giá. Trong trường hợp nhập chức năng của Hội đồng xử lý vào Hội đồng cạnh tranh, cơ
chế làm việc thường xuyên và định kỳ được thực hiện thông qua chức năng và hoạt động
của Ban thư ký của Hội đồng.
Thứ tư, đảm bảo sự độc lập của người giải quyết khiếu nại về quyết định áp dụng biện
pháp chống bán phá giá theo đúng nguyên tắc được ghi nhận trong pháp luật của WTO (rà
soát tư pháp). Theo quy định hiện hành, người ra quyết định về việc áp dụng biện pháp
chống bán phá giá đồng thời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định này.
Quy định này hoàn toàn trái với nguyên tắc các cơ quan có trách nhiệm rà soát tư pháp phải
độc lập với các cơ quan hữu quan đã ra các quyết định đang bị xem xét lại đã được quy định
trong ADA. Do đó, việc nghiên cứu để phân bổ thẩm quyền một cách hợp lý giữa việc điều
tra, việc ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá và giải quyết khiếu nại là cần
thiết và có ý nghĩa lớn đảm bảo pháp luật nội địa phù hợp với pháp luật WTO. Chúng tôi
đưa ra hai khả năng có thể lựa chọn:
- Nếu trao quyền ra quyết định cuối cùng cho Hội đồng xử lý vụ việc (Hội đồng cạnh
tranh) thì người giải quyết khiếu nại có thể là Bộ trưởng Bộ Công thương hoặc giải quyết
khiếu kiện là Tòa án;
205
- Nếu người có quyền quyết định vẫn còn là Bộ trưởng Bộ Công thương thì người
giải quyết khiếu nại có thể là Thủ tướng Chính phủ hoặc giải quyết khiếu kiện là Tòa án.
4.3.3. Những vấn đề khác cần giải quyết để tăng cường khả năng thực thi của pháp luật
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
4.3.3.1. Việc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá cần tiến hành song song với các
hoạt động đối ngoại để nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ thương mại - chính trị
trên các diễn đàn quốc tế và khu vực
Hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá không chỉ phụ thuộc vào
sự hoàn chỉnh của pháp luật và năng lực thực thi của các cơ quan có thẩm quyền mà còn bị
chi phối bởi vị thế của quốc gia tiến hành xử lý vụ việc. Do đó, việc tăng cường đàm phán
và xây dựng chiến lược nâng cao vị thế thương mại của Việt Nam trên thị trường khu vực
và quốc tế có ý nghĩa lớn đối với việc thực thi pháp luật chống bán phá giá. Trong đó, cần
triển khai những nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường đàm phán để các nước công nhận Việt Nam là quốc gia có nền
kinh tế thị trường. Một trong những nội dung cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO là
chấp nhận bị coi là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường cho đến năm 2018 [78, tr 93].
Cam kết này chủ yếu được áp dụng khi hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam bị kiện chống bán
phá giá tại các nước thành viên khác của WTO. Tuy nhiên, những bất lợi từ quy chế phi thị
trường cho thấy Việt Nam chưa thực sự có được các quan hệ thương mại bình đẳng với các
quốc gia khác. Trong trường hợp Việt Nam tiến hành các vụ việc chống bán phá giá đối với
hàng hóa nhập khẩu từ một quốc gia nào đó, quốc gia này có thể sử dụng quy chế phi thị
trường để trả đũa bằng cách điều tra ngược lại đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam.
Khi đó, chúng ta buộc phải cân nhắc giữa lợi ích thu được từ việc chống bán phá giá và thiệt
hại phải gánh chịu nếu bị áp thuế chống bán phá giá. Nếu thoát được quy chế phi thị trường,
việc trả đũa có thể vẫn xảy ra song sẽ giảm thiểu được thiệt hại với quy chế điều tra dành
cho các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Cách thức hiện nay để giải quyết vấn đề này là
tăng cường đàm phán song phương để các nước thành viên khác của WTO công nhận nền
kinh tế Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường.
Hai là, tham gia tích cực vào các diễn đàn thương mại khu vực và quốc tế. Vị thế của
một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào số lượng diễn đàn và tổ chức quốc tế mà quốc gia đó
tham gia mà còn là khả năng đóng góp vào các chiến lược thương mại và khung khổ pháp
lý của các tổ chức đó. Việc nâng cao năng lực tham gia xây dựng và giải quyết các vấn đề
chung của thương mại quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn và
ngoại giao tốt để triển khai công tác chuẩn bị và tiến hành đàm phán, thảo luận hiệu quả.
206
Ba là, khai thác triệt để lợi thế để việc hội nhập kinh tế quốc tế không một chiều và
không để sự tương thuộc trở thành sự phụ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào các nước
khác. Trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần đánh giá khách quan những
lợi thế và nhu cầu mà Việt Nam có hoặc cần có để xác định chính xác vị trí hiện tại trên thị
trường chung. Sự chủ quan đánh giá có thể tạo nên tâm lý ảo tưởng hoặc tự ti trước những
diễn biến của thị trường hoặc trước phản ứng của đối tác. Chúng tôi cho rằng, bên cạnh
chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hợp lý, Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển và bảo
vệ thị trường nội địa. Có như vậy, chúng ta sẽ linh hoạt và bản lĩnh ứng biến trước mọi biến
cố hoặc sự trả đũa từ các nước có liên quan trong mọi tranh chấp thương mại quốc tế.
Bốn là, cần linh hoạt sử dụng pháp luật chống bán phá giá như một công cụ phòng vệ
và trả đũa thương mại. Trong những năm qua, có nhiều quốc gia sử dụng công cụ chống
bán phá giá để phòng vệ và trả đũa thương mại mà điển hình là Trung Quốc. Quan hệ qua
lại trong thương mại quốc tế đôi khi là cuộc “mặc cả” giữa các quốc gia nhằm đạt được
những lợi ích tốt nhất cho các bên. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cũng trong
tình trạng đó. Vì vậy, quá trình áp dụng pháp luật chống bán phá giá phải được thực hiện
linh hoạt và đa chiều để có được quan niệm đúng đắn vì lợi ích của Việt Nam trên thị
trường chung.
4.3.3.2. Nâng cao nhận thức của DN và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành nghề
để đảm bảo cho việc thực thi pháp luật hiệu quả
a. Tăng cường hiểu biết của cộng đồng DN về pháp luật chống bán phá giá
Pháp luật chống bán phá giá đã có lịch sử phát triển hơn 100 năm và đã trở thành chế
định quan trọng của WTO. Tuy nhiên, ở Việt Nam lĩnh vực này còn mới mẻ nên nhiều DN
còn mơ hồ và chưa có những hiểu biết cơ bản về pháp luật khi tham gia các vụ việc dù với
vai trò là bị đơn hay nguyên đơn. Do đó, nâng cao nhận thức của các DN, các hiệp hội và
các cơ quan hữu quan về những quy định, nguyên tắc cơ bản, về quy trình xử lý vụ việc
chống bán phá giá theo PLVN và WTO là một công tác then chốt. Với tư cách nguyên đơn,
những hiểu biết căn bản về pháp luật sẽ giúp DN có được định hướng đúng đắn khi quyết
định lựa chọn các biện pháp phòng vệ trước sức ép cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu,
giúp DN xây dựng các chiến lược chống bán phá giá hiệu quả và xác định các hoạt động
cần thiết khi tham gia vụ việc.
b. Nâng cao nhân thức về vai trò của DN, hiệp hội khi tham gia vụ việc với tư cách
nguyên đơn hoặc bên bị thiệt hại
Việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi và hoạt động kinh doanh của các DN trong nước. Với các DN sản xuất hàng hóa
207
tương tự, các biện pháp chống bán phá giá là công cụ bảo vệ họ trước sự cạnh tranh của
hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Với các DN nhập khẩu, họ là đối tượng nộp thuế chống
bán phá giá và có thể phải mất dần khách hàng do giá tăng sau khi áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá. Vì vậy, việc tích cực tham gia vào vụ việc chống bán phá giá bằng việc
trả lời bản câu hỏi, cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan là cần thiết và là cơ
hội để các DN thu thập thêm thông tin về vụ việc, nâng cao kiến thức pháp luật và đưa ra
các lập luận bảo vệ quyền lợi của bản thân một cách tối ưu. Diễn biến của vụ việc điều tra
áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng kính nổi nhập khẩu vào Việt Nam cho thấy các
DN chưa chủ động và tích cực tham gia vụ việc. Nhiều DN nhập khẩu đã không tham gia
trả lời câu hỏi và đăng ký tham gia với tư cách bên liên quan54. Chỉ khi khả năng áp dụng
biện pháp tự vệ được đặt ra và quyền lợi đang bị đe dọa, các DN này mới mong muốn tham
gia vào vụ việc. Việc nâng cao nhận thức của DN về vai trò của họ trong các vụ việc phòng
vệ thương mại nói chung và chống bán phá giá nói riêng cần có sự hỗ trợ từ Nhà nước bằng
công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, phổ biến kiến thức về thương mại quốc tế với sự
hỗ trợ của các hiệp hội.
Các DN cần có thái độ đoàn kết với nhau khi tham gia các vụ việc chống bán phá giá.
Dù với tư cách là nguyên đơn hay bị đơn hoặc người liên quan, các DN cần liên kết với
nhau hoặc liên kết thông qua vai trò của Hiệp hội để tạo nên sức mạnh cho những lập luận,
những quan điểm có liên quan đến quyền lợi của họ. Với tư cách nguyên đơn hoặc người bị
thiệt hại, các DN sản xuất trong nước cần đáp ứng các tiêu chuẩn về tính đại diện để hồ sơ
yêu cầu hợp lệ hoặc để hợp thành ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, sự liên kết là cơ hội
để các DN có thể trao đổi thông tin, tài liệu nhằm có được những lập luận, giải trình tốt nhất
khi tham gia vụ việc. Việc liên kết còn có thể giúp DN giảm những chi phí cần thiết như phí
luật sư, chi phí cho công tác nghiên cứu, đánh giá thị trường, quan hệ với công chúng….
Các DN cần nâng cao năng lực để tham gia các vụ việc chống bán phá giá bằng việc
xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp và có khoa học trong công tác điều hành và
quản lý DN, cụ thể là việc lưu giữ tài liệu, hệ thống thông tin… để đáp ứng các yêu cầu và
tiêu chuẩn về kỹ thuật điều tra vụ việc chống bán phá giá. Việc cung cấp thông tin không
chỉ đòi hỏi các DN đáp ứng về số lượng tài liệu, chứng cứ mà còn đòi hỏi các tiêu chuẩn kỹ
thuật nhất định phục vụ cho hoạt động điều tra. Những yếu kém trong việc lưu trữ tài liệu
hoặc không minh bạch thông tin có thể cản trở việc chứng minh về quan điểm, về các lập
luận của DN khi tham gia vụ việc.
54 Theo báo cáo điều tra sơ bộ của Cục Quản lý cạnh tranh mặc dù có hơn 100 nhà nhập khẩu mặt hàng kính nổi
bị điều tra nhưng chỉ có 10 DN hợp tác và cung cấp thông tin.
208
Các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức có thể bao gồm tổ chức các tọa đàm, hội
thảo, các khóa đào tạo, nghiên cứu, xuất bản các cẩm nang, kỷ yếu hoặc hướng dẫn thực thi
pháp luật, tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm của các nước. Trong những năm qua, các tài
liệu được xuất bản hoặc công bố về pháp luật chống bán phá giá chủ yếu phục vụ cho công
tác phòng chống các vụ kiện hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam tại các nước khác mà chưa
có những nỗ lực cần thiết cho việc tuyên truyền và phổ biến PLVN về vấn đề này. Trong
bối cảnh đó, sự thiếu tích cực và những hạn chế về nhận thức của DN đối với lĩnh vực pháp
luật này là tất yếu. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của DN, hiệp hội ngành nghề là vấn đề
cần thiết và cần được xem là nhiệm vụ hàng đầu của công tác thực thi pháp luật.
c. Xây dựng cơ chế dự phòng và thông tin cho DN
Theo pháp luật hiện hành, để có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ việc
chống bán phá giá, các DN trong nước phải có đủ các thông tin cần thiết về số lượng, khối
lượng, về giá xuất khẩu, giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu bị yêu cầu. Điều này là
một thách thức đối với phần lớn các DN có quy mô vừa và nhỏ. Do đó, xây dựng và phát
triển hệ thống dự phòng và thông tin thương mại là cần thiết để các DN có thể khai thác khi
tham gia các vụ việc cho dù là nguyên đơn hay bị đơn trong các vụ việc chống bán phá giá.
Hệ thống dự phòng này có thể do các hiệp hội phối hợp với các viện nghiên cứu và các cơ
quan quản lý Nhà nước có liên quan cùng xây dựng và phát triển dưới hình thức trung tâm
xúc tiến và tư vấn pháp luật và thương mại. Hoạt động chủ yếu tập trung vào các nội dung:
- Nghiên cứu giá cả và định hướng phát triển của thị trường, theo dõi chặt chẽ và
thường xuyên thông tin về tình hình nhập khẩu và các thông tin về giá cả, số lượng, chủng
loại mặt hàng, nguồn xuất khẩu và dự báo các chiến lược xuất khẩu của đối tác…. Từ kết
quả nghiên cứu, hệ thống này có thể cảnh báo cho DN về sức ép cạnh tranh của hàng hóa
nhập khẩu để có chiến lược kinh doanh hợp lý và có những định hướng hiệu quả trong việc
sử dụng các công cụ pháp lý để phòng vệ.
- Tư vấn cho DN về thủ tục pháp lý để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ
việc và giúp các DN liên kết với nhau, xây dựng chiến lược tham gia vụ việc, hỗ trợ DN
trong việc xây dựng hồ sơ yêu cầu hợp pháp và đầy đủ.
4.3.3.3. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò và nhiệm vụ của pháp luật
chống bán phá giá đối với thị trường
Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá có thể tạo ra sự chia rẽ trong
nội bộ DN trong nước và giữa các lực lượng thị trường có lợi ích khác nhau, thậm chí đối
lập nhau. DN nước ngoài bị điều tra có thể khai thác và tranh thủ sự mâu thuẫn lợi ích của
các nhóm ngành khác nhau và của DN với người tiêu dùng để cùng phối hợp xây dựng hình
209
ảnh, phát triển quan niệm phản đối vụ việc trong lòng xã hội và thị trường Việt Nam. Ở góc
độ tích cực, những phản hồi của các thành phần, các chủ thể tham gia thị trường có thể giúp
cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết định đúng đắn và hiệu quả cho sự phát triển chung
của thị trường, song mặt khác chúng có thể tạo ra áp lực không đáng có cho các cơ quan
này. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của xã hội nói chung về vai trò của pháp luật chống
bán phá giá là cần thiết để các chủ thể có liên quan có thể đưa ra các quan điểm về vụ việc
một cách khách quan và mang tính xây dựng. Trong công tác này, cần có sự tham gia tích
cực từ DN và các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể:
- Các DN trong nước cần tôn trọng khách hàng và người tiêu dùng bằng cách nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng. Chỉ khi người tiêu dùng và khách
hàng tin tưởng vào khả năng cung ứng của DN cả về số lượng, chất lượng và thái độ phục
vụ thì họ sẽ sẵn sàng cùng với DN bảo vệ thị trường trước áp lực cạnh tranh bất chính từ
hàng hóa nhập khẩu. Trong trường hợp ngược lại, uy tín từ hàng hóa nhập khẩu và từ chất
lượng phục vụ của nhà cung cấp hàng hóa nhập khẩu đương nhiên sẽ thu phục được người
tiêu dùng trong nước. Khi đó, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không thể nhận
được sự ủng hộ ngay từ khách hàng và người tiêu dùng trong nước.
- Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng để đảm bảo củng cố niềm tin của họ vào pháp luật. Một đạo luật sẽ chỉ có tác dụng
điều chỉnh khi được xã hội công nhận và ủng hộ. Pháp luật chống bán phá giá không nằm
ngoài quy luật này. Việc thực thi pháp luật chống bán phá giá cần được đặt trong quan hệ
với hiệu quả điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật bảo vệ người tiêu
dùng, pháp luật cạnh tranh…. Hiệu quả thực thi các lĩnh vực pháp luật nói trên sẽ tạo nên
niềm tin của các DN và người tiêu dùng vào giá trị của pháp luật nói chung và pháp luật
chống bán phá giá nói riêng. Nếu người tiêu dùng và DN nhận thức được rằng pháp luật
được xây dựng và áp dụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ một cách hiệu quả thì xã
hội sẽ có được sự đồng thuận ngay cả khi một bộ phận của thị trường phải gánh chịu những
tổn thất tạm thời, ngắn hạn. Theo đó, người tiêu dùng và DN có liên quan sẽ dễ dàng chấp
nhận những thiệt hại trước mắt do việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá gây ra với thái
độ tích cực.
- Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của pháp luật chống bán phá giá
nên được thực hiện thông qua các chương trình tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện
truyền thông, xây dựng các môn học về pháp luật chống bán phá giá trong các chuyên
ngành đào tạo luật học và kinh tế đối ngoại (môn học tự chọn, định hướng cho Bộ môn luật
thương mại quốc tế, kinh tế đối ngoại…).
210
Kết luận:
Từ những nghiên cứu, trình bày và đề xuất của chương 4, chúng tôi có một số kết luận
sau:
1. Các cơ quan thực thi pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam bao gồm Cơ quan
điều tra (Cục Quản lý cạnh tranh), Hội đồng xử lý vụ việc và Bộ trưởng Bộ Công
thương. Với những phân tích cụ thể trong chương 3 của Luận án, chúng tôi đã phân
tích cụ thể những ưu điểm và hạn chế trong cách thức tổ chức và phân chia thẩm
quyền giữa các cơ quan nói trên. Do đó, công tác hoàn thiện bộ máy thực thi pháp
luật đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo việc thực thi pháp
luật hiệu quả.
2. Việc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá cần được đặt trong bối cảnh thực tế của
Việt Nam. Việc áp dụng pháp luật chống bán phá giá đã từng được các cơ quan Nhà
nước và các DN đặt ra trước sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
Trung Quốc. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà pháp luật chống bán phá giá
chưa được áp dụng trên thực tế. Thông qua các vụ việc trên, luận án đã phân tích các
yếu tố khách quan và chủ quan có thể tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực cho việc
thực thi pháp luật như pháp luật còn nhiều hạn chế lớn, các cơ quan có thẩm quyền
chưa sẵn sàng về nhân sự và năng lực, vị thế thương mại của Việt Nam trên thị
trường chung chưa cao….
3. Việc hoàn thiện pháp luật cần được thực hiện một cách toàn diện và triệt để. Ngoài
việc sửa đổi toàn bộ nội dung của Pháp lệnh chống bán phá giá, các cơ quan có thẩm
quyền cần xây dựng quy trình chi tiết cho hoạt động điều tra và xử lý vụ việc. Quy
trình này cần được công khai để vừa đảm bảo nguyên tắc minh bạch pháp luật, vừa
có tác dụng hướng dẫn các DN và các chủ thể có liên quan trong việc tham gia vụ
việc chống bán phá giá.
4. Để đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật, cần mạnh dạn xóa bỏ khái niệm
bán phá giá trong Pháp lệnh giá năm 2002.
5. Trên cơ sở phân tích nội dung của các quy định cụ thể trong chương 2 và 3, luận án
đưa ra nhiều đề xuất cụ thể về việc sửa đổi từng nội dung, từng quy định không phù
hợp với Hiệp định chống bán phá giá hoặc không đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật.
211
6. Luận án bước đầu đưa ra các đề xuất về việc đảm bảo khả năng thực thi pháp luật
thông qua các chương trình, các hoạt động nâng cao nhận thức của cộng đồng DN,
của xã hội về pháp luật chống bán phá giá.
212
KẾT LUẬN
“Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt
Nam” đang là một đề tài được giới chuyên môn quan tâm. Đây là một đề tài có ý nghĩa
về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng. Nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang tích cực và
chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế bằng chiến lược đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
Từ việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về bán phá giá và thực trạng pháp luật
chống bán phá giá tại Việt Nam, tác giả rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Trong khoa học pháp lý không có những xung đột lớn về khái niệm và bản
chất của hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, các nhà làm luật Việt
Nam lại có những nhận thức khác biệt về hiện tượng này trong các giai đoạn xây dựng
pháp luật khác nhau. Bằng chứng cho nhận định này là sự tồn tại hai quy định về bán
phá giá có nội dung khác nhau trong Pháp lệnh giá năm 2002 và Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Cho đến nay, hai quy định này
vẫn còn hiệu lực.
2. Bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá được xác định từ ba nền tảng cơ
bản là các nguyên lý của tự do thương mại, lý thuyết về định giá cướp đoạt (định giá
hủy diệt) và lý thuyết về hành vi phân biệt giá trong kinh tế học và trong pháp luật
cạnh tranh. Sự kết hợp các lý thuyết nói trên đã khẳng định rằng bán phá giá là hành vi
phân biệt giá trong thương mại quốc tế và là hiện tượng tất yếu được hình thành trong
giao thương quốc tế. Bán phá giá chỉ trở thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khi chúng gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước của quốc
gia nhập khẩu. Bên cạnh đó, do tính tất yếu của hiện tượng này nên việc bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật mà chỉ là hiện tượng có
khả năng làm phát sinh quyền được phòng vệ của quốc gia nhập khẩu.
3. Pháp luật chống bán phá giá là một chế định quan trọng trong thương mại
quốc tế. Ngày nay, chế định này đã trở thành một nội dung quan trọng trong khuôn
khổ pháp lý quốc tế bằng sự ra đời của Hiệp định thực thi ĐiềuVI của GATT. Các
quốc gia thành viên của Tổ chức thương mại thế giới cũng đã ban hành và áp dụng
ngày càng phổ biến các văn bản pháp luật về chống bán phá giá dựa trên những
nguyên tắc đã được ghi nhận trong ADA. Tại Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên
quy định về vấn đề này là Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt
213
Nam năm 2004. Văn bản pháp luật này chủ yếu quy định về quy trình điều tra và xử lý
vụ việc chống bán phá giá bao gồm các quy định về căn cứ xác định hiện tượng bán
phá giá, xác định thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước và chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan tiến hành thủ tục điều tra, xử lý vụ việc.
4. Các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá khá tương đồng với các
nguyên tắc được ghi nhận trong ADA. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm khác biệt cơ
bản như: 1) cách thức thiết kế và sắp xếp các nội dung khác nhau. Trong Pháp lệnh,
các quy định được sắp xếp như một văn bản pháp luật hướng dẫn về quy trình điều tra
và xử lý vụ việc. Các quy định về căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, thiệt hại
đáng kể… là một nội dung của quá trình điều tra vụ việc. Trong khi ADA chia các quy
định thành hai nội dung rõ ràng là các quy định về việc xác định hiện tượng bán phá
giá, xác định thiệt hại vật chất và quan hệ nhân quả và các quy định về quy trình điều
tra, xử lý vụ việc. 2) Các quy định trong PLVN chưa đầy đủ và rõ ràng bằng các quy
định trong ADA. Nhiều nội dung chưa được Pháp lệnh giải quyết hoặc chưa giải quyết
triệt để.
5. Các khái niệm và những nguyên tắc cơ bản trong PLVN về cơ bản là tương
thích với pháp luật của WTO. Tuy nhiên, những quy định về căn cứ xác định bán phá
giá, xác định thiệt hại chỉ mang tính nguyên tắc nên còn nhiều vấn đề chưa được quy
định hoặc chưa được làm rõ. Quy trình điều tra đã được định hình song vẫn còn thiếu
nhiều quy định làm ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng. Tác giả cho rằng các quy định
pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam chưa đầy đủ và còn nhiều nội dung chưa
phù hợp với pháp luật của WTO nên khó áp dụng trong thực tế.
6. Qua phân tích các quan niệm về bán phá giá được các nhà làm luật Việt Nam
ghi nhận trong các văn bản pháp luật, tác giả luận án đã đưa ra kiến nghị cần xóa bỏ
quy định về bán phá giá trong Pháp lệnh giá năm 2002 và phân định rõ phạm vi điều
chỉnh, chức năng điều chỉnh của pháp luật về quản lý giá, pháp luật cạnh tranh và pháp
luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Sự phân định này là cần
thiết không chỉ bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật và sự thống nhất trong các
quy định pháp luật mà còn là cơ sở pháp lý để tạo ra nhận thức đúng đắn về bán phá
giá trong xã hội và cộng đồng DN.
7. Luận án đã nghiên cứu và phân tích cách thức tổ chức bộ máy thực thi pháp
luật và những yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng thực thi pháp luật chống bán phá giá.
Những yếu tố này cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho pháp luật chưa được thực thi
trên thực tế sau hơn 5 năm có hiệu lực. Đó là những hạn chế của pháp luật, năng lực
214
thực thi và sự bất hợp lý trong tổ chức bộ máy các cơ quan có thẩm quyền, sự thiếu
hiểu biết về pháp luật và thiếu đoàn kết trong cộng đồng DN, vị thế thương mại của
Việt Nam chưa cao….
8. Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của phép duy vật biện chứng, sử dụng các
phương pháp so sánh luật học, nghiên cứu tổng hợp, phân tích… luận án đã cơ bản
giải quyết được các vấn đề lý luận về bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá, xác
định giới hạn và cách thức điều chỉnh của pháp luật đối với hiện tượng này, phân tích
đánh giá các căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, xác định thiệt hại và quy trình xử
lý vụ việc, các biện pháp chống bán phá giá theo PLVN. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh
dạn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá như quy định rõ
hơn các căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, xác định thiệt hại vật chất, xác định
thời kỳ điều tra, xây dựng lại khung pháp luật về quy trình điều tra, xử lý vụ việc, tổ
chức lại bộ máy cơ quan thực thi pháp luật….
9. Luận án cũng nêu lên những đề xuất bước đầu về các biện pháp nâng cao năng
lực áp dụng pháp luật như xây dựng chiến lược đào tào cán bộ cho cơ quan điều tra, cơ
quan xử lý vụ việc, xây dựng các hướng dẫn chi tiết về việc tham gia của các bên liên
quan vào quá trình điều tra, xử lý vụ việc, xây dựng và thực thi các chiến lược đào tạo,
củng cố kiến thức pháp luật cho cộng đồng DN….
10. Luận án được nghiên cứu chủ yếu dựa trên hiện trạng PLVN trên cơ sở so
sánh với pháp luật của WTO và các nước tiêu biểu như Canađa, Hoa Kỳ, EU. Vì lĩnh
vực pháp luật này chưa được áp dụng trên thực tế và sự giới hạn dung lượng của luận
án nên tác giả chưa có điều kiện làm rõ những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng hoặc
chưa tập trung nghiên cứu án lệ của các nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng các kết
quả nghiên cứu của luận án vẫn có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Giá trị
thực tiễn của luận án được khẳng định qua những kết quả nghiên cứu về thực trạng
pháp luật và khả năng thực thi của nó. Những nội dung chưa được nghiên cứu được
coi là định hướng nghiên cứu tiếp theo cho tác giả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam.pdf