Đề tài: Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
I/ KHÁI QUÁT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1 Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.2.2. Các loại biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay và các điều kiện về tài sản bảo đảm
1.3.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay
1.3.2. Các điều kiện để tài sản trở thành tài sản bảo đảm
2. Các biện pháp bảo đảm tài sản bằng tiền vay theo quy định của pháp luật hiện hành
2.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và của bên bảo lãnh
2.1.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và của bên bảo lãnh
2.1.2. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay
2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
II/ XỬ LÝ TÀI SẢN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Xử lý tài sản bảo đảm
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm
1.2. Các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm
2. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của pháp luật hiện hành
2.1. Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
2.2 Các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm
2.2.1. Bán tài sản bảo đảm
2.2.2. Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm
2.2.3. Nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ
2.3. Quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng
2.4. Thanh toán thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ VIỆC XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
I/ MỘT VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Techcombank
2. Cơ cấu tổ chức và điều hành của Ngân hàng Techcombank
2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Techcombank
2.2. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban của Ngân hàng Techcombank
3. Một số kết quả mà Ngân hàng Techcombank đã đạt được trong thời gian hoạt động vừa qua
3.1 Các chỉ số tài chính cơ bản
3.2 Hoạt động tín dụng
4. Phương hướng hoạt động và mục tiêu trong tương lai
II/ THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ VIỆC XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
1. Khái quát về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Techcombank
1.1. Các phương thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Techcombank
1.1.1 Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
1.1.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
1.2. Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ tại ngân hàng Techcombank
1.2.1. Nguyên tắc xử lý TSBĐ
1.2.2 Phương thức xử lý TSBĐ
1.2.3 Tiến trình thực hiện xử lý TSBĐ
2. Những khó khăn gặp phải trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm của Ngân hàng Techcombank
2.1. Khó khăn về hệ thống văn bản pháp luật
2.2 Khó khăn khi tiến hành xử lý TSBĐ trong thực tiễn
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
I/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GIÚP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TSBĐ
II/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHÍA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
68 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9213 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g doanh nghiệp lớn và định chế tài chính là đầu mối xây dựng, triển khai các chiến lược/chính sách/chương trình/hoạt động nhằm thúc đẩy hoạt động bán hàng đạt/vượt chỉ tiêu được giao đối với các khách hàng thuộc phân khúc Khách hàng doanh nghiệp lớn (theo quy định của Techcombank); đồng thời thiết lập và phát triển mối quan hệ với các định chế tài chính trong và ngoài nước để hỗ trợ và phát triển hoạt động kinh doanh cho Techcombank.
Khối Tài chính và kế hoạch
Khối tài chính và kế hoạch có chức năng lập và là nguồn duy nhất của tất cả các báo cáo quản trị, số liệu thông tin quản trị, thông tin kế toán, báo cáo tài chính và kế hoạch vốn.
Khối tài chính và kế hoạch cùng hợp tác với các đơn vị khác để thực hiện phác họa, quản lý các hệ thống và dự án tài chính của Ngân hàng.
Các khối và các chi nhánh chịu sự quản lý, điều hành của Ban Điều hành. Ngoài ra còn chịu sự giám sát của Ban Kiểm soát.
3. Một số kết quả mà Ngân hàng Techcombank đã đạt được trong thời gian hoạt động vừa qua
3.1 Các chỉ số tài chính cơ bản.
Biểu 1. Các chỉ số tài chính cơ bản của năm.
Đơn vị: Tỷ VNĐ
STT
Chỉ số
2004
2005
2006
2007
2008
1
Tổng tài sản
7.667
10.666
17.326
39.542
59.360
2
Vốn điều lệ
412
617
1.500
2.521
3.642
3
Tổng doanh thu
494
905
1.398
2.653
8.382
4
Lợi nhuận trước thuế
107,01
286,06
356
709
1.600
5
Lợi nhuận sau thuế
76,13
206,15
257
510
1.173
6
Lợi nhuận thuần/Vốn cổ phần (ROE) (%)
31,71
45,19
26,76
22,98
25,87
7
Lợi nhuận thuế/Tổng tài sản (ROA) (%)
1,70
2,60
1,89
1,99
2,28
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2008 của ngân hàng Techcombank)
Năm 2008 là năm khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam. Lạm phát tăng nhanh, cán cân thương mại thâm hụt khá lớn, thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm … và sau đó là suy giảm kinh tế đã làm cho rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp những bất lợi không thể lường trước được. Tuy nhiên Techcombank đã vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển vững mạnh, an toàn và hiệu quả, gia tăng quy mô năng lực hoạt động kinh doanh.
Các chỉ tiêu về Tổng tài sản, Huy động vốn, Dư nợ cho vay đều đạt từ 130% đến 156 % so với năm 2007. Kết thúc năm tài chính, tổng huy động từ khách hàng ( bao gồm tiền gửi của khách hàng phát hành giấy tờ có giá và nguồn vốn ủy thác) đạt 41.365 tỷ đồng, tăng 64,54% so với cuối năm 2007 và chiếm 69.68 tổng tài sản của Ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn đạt 13,99%, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn 8% được hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng.
Nhờ có tiềm lực vốn và tài chính vững mạnh, trong những lúc khó khăn nhất của thị trường, Techcombank vẫn luôn cung cấp vốn vay ra thị trường, ưu tiên giải ngân cho các lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế, thường xuyên cung ứng ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu. Techcombank cũng chủ động kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, hạn chế cho vay đối với một số lĩnh vực nhiều rủi ro như đầu tư chứng khoán, đầu cơ bất động sản … Cùng với việc từng bước tập trụng hóa công tác thẩm định tín dụng, Techcombank không ngừng nâng cao khả năng quản trị rủi ro, hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát rủi ro chuyên sâu, do đó đã hạn chế được nợ xấu ở mức thấp (chỉ chiếm 2,52% tổng dư nợ), trong đó tổng số dư quỹ dự phòng rủi ro đạt 48,74% so với tổng số nợ xấu.
Năm 2008, việc đưa ra các loại hình dịch phụ phi tín dụng đáp ứng được yêu cầu đa dạng của khách hàng đã góp phần đáng kể vào việc tăng thu nhập của toàn Ngân hàng. Tổng doanh thu thuần từ các nguồn thu phí và hoa hồng năm 2008 đạt 438 tỷ đồng, tăng 172,91% so với năm 2007.
Lợi nhuận trước thuế của Techcombank trong năm 2008 đạt 1.600 tỷ đồng, tăng 125,48% so với năm 2007 và cao hơn kế hoạch đầu năm 55%. Đây là mức lợi nhuận cao thứ hai trong trong hệ thống các ngân hàng TMCP ở Việt Nam, là thành công đáng tự hào trong bối cảnh khủng hoảng thị trường năm 2008 khi mà không ít ngân hàng phải điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch. Tỷ lệ thu nhập thuần trên tài sản (ROA) và tỷ lệ thu nhập thuần trên vốn cổ phần (ROE) đều tăng đáng kể: từ 1,99% và 22,98% năm 2007 lên 2,28% và 25,87% năm 2008.
3.2 Hoạt động tín dụng
Biểu 2. Hoạt động tín dụng
Đơn vị: Tỷ VNĐ
STT
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
1
Số dư huy động dân cư
2.129
3.891
6.684
14.119
29.779
2
Cho vay bán lẻ
940
1.560
2.817
7.480
7.954
3
Số dư huy động Khách hàng doanh nghiệp
-
-
3.178,22
10.057
11.312
4
Dư nợ cho vay Khách hàng doanh nghiệp
2.525
3.819
5.993
12.478
18.388
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2008 của Ngân hàng Techcombank)
Hoạt động huy động vốn từ dân cư của Techcombank vẫn tăng cao trong tình trạng biến động, góp phần giữ thanh khoản ngân hàng luôn ở mức an toàn cao. Số dư huy động từ dân cư vào thời điểm cuối năm 2008 đạt 29.779 tỷ đồng, tăng 110,91% so với thời điểm cuối năm 2007, chiếm 71,99% tổng vốn huy động của Techcombank. Đây là tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất trong số các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Hơn nữa, 95,13% tổng số tiền gửi dân cư là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi bằng ngoại tệ cũng chiếm tới 22,41% tổng huy động vốn, giúp Ngân hàng chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn của mình.
Năm 2008, Techcombank đưa ra sản phẩm đầu tư qua đêm trên khoản tiền gửi thanh toán F@st Invest với lãi suất cao hơn, giúp doanh nghiệp sử dụng khoản vốn nhàn rỗi của mình một cách hiệu quả nhất. Nhờ đó, hoạt động huy động vốn từ các tổ chức kinh tế của Techcombank mặc dù không đạt kết quả tăng trưởng mạnh mẽ như dự tính nhưng vẫn tăng trong bối cảnh thanh khoản của thị trường tài chính gặp khó khăn. Số dư huy động tại thời điểm cuối năm 2008 đạt mức 11.312 tỷ đồng, tăng 12,48% so với thời điểm cuối năm 2007. Trong đó, tiền gửi có kỳ hạn chiếm 54,59%, tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm 16,76% tổng số tiền huy động. Tính đến 31/12/2008, dư nợ cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp đạt 18.388 tỷ đồng, tăng 47,36% so với cuối năm 2007.
Song song với việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng, trong năm 2008, Techcombank tiến hành tập trung hóa công tác thẩm định, phê duyệt, hỗ trợ tín dụng và chăm sóc khách hàng. Những biện pháp này giúp ngân hàng kiểm soát tốt các khoản cho vay, giữ nợ xấu ở mức tương đối thấp và an toàn trong bối cảnh nền kinh tế gặp khủng hoảng, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí mất khả năng trả nợ và phá sản.
4. Phương hướng hoạt động và mục tiêu trong tương lai.
Techcombank là ngân hàng thương mại đô thị đa năng ở Việt nam, cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính đồng bộ, đa dạng và có tính cạnh tranh cao cho dân cư và doanh nghiệp nhằm các mục đích thoả mãn khách hàng, tạo giá trị gia tăng cho cổ đông, lợi ích và phát triển cho nhân viên và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.
Nhìn về phía trước, còn rất nhiều việc Techcombank phải làm để biến ước mơ trở thành ngân hàng lớn và được ưa thích nhất tại Việt Nam. Với sự tự tin, cam kết và lòng quyết tâm cao, mọi thành viên đại gia đình Techcombank đang nghĩ và hoạt động hướng tới mục tiêu phát triển ngân hàng nhằm đem lại nhiều hơn nữa lợi ích cho khách hàng, giá trị cho cổ đông: Techcombank đem lại “sự thân thiện đến tin cậy”. Mục tiêu của Techcombank là trở thành ngân hàng thương mại đô thị đa năng hàng đầu ở Việt Nam với 200 chi nhánh và điểm giao dịch ở năm 2010. Mục tiêu đó được ngân hàng thực hiện trên cơ sở khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính đồng bộ, đa dạng và có tính cạnh tranh cao cho dân cư và doanh nghiệp nhằm các mục đích thỏa mãn khách hàng, tạo giá trị gia tăng cho cổ đông, lợi ích và phát triển cho nhân viên và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. (3)
________________________
(3) Trích bài viết “Techcombank – Hơn cả một niềm tin” - Cẩm nang các tổ chức tín dụng tại Việt Nam (Tác giả: Nguyễn Thiều Quang – Chủ tịch HĐQT Techcombank)
II/ THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ VIỆC XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK.
1. Khái quát về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Techcombank.
1.1. Các phương thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Techcombank.
Các phương thức đảm bảo bằng tài sản được áp dụng đối với Khách hàng thực hiện các giao dịch có tài sản bảo đảm tại Techcombank như sau:
- Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của Khách hàng;
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba;
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. (4)
1.1.1 Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Techcombank cho phép khách hàng vay tiền với tài sản bảo đảm là tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc thuộc sở hữu của bên thứ ba: “Khách hàng phải cầm cố, thế chấp tài sản hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm (sau đây gọi tắt là tài sản bảo đảm) thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với Techcombank, trừ trường hợp khách hàng được Techcombank đồng ý thực hiện các giao dịch không cần có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.” (Quy chế về bảo đảm bằng tài sản tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam)
Việc lựa chọn áp dụng phương thức bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba được Techcombank và khách hàng thỏa thuận.
Techcombank có quyền lựa chọn tài sản đủ điều kiện để làm tài sản bảo đảm cũng như lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản cho khách hàng.
___________________________
(4) Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Ban hành kèm theo quyết định số 238/QĐ-HĐ ngày 23/02/2001 của Chủ tịch Hội Đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam)
BLDS 2005 không quy định thế nào là “bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba”. Biện pháp “bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba” được hiểu chính là việc khách hàng vay tại ngân hàng, TCTD sử dụng tài sản của bên thứ ba để cầm cố, thế chấp. Mối quan hệ ba bên gồm khách hàng vay, ngân hàng và bên thứ ba được hiểu là mối quan hệ bảo lãnh chung và bên thứ ba được gọi là bên bảo lãnh. Mối quan hệ giữa bên thứ ba (bên bảo lãnh) với ngân hàng lại được thể hiện thông qua hợp đồng bảo đảm tài sản. Chính vì vậy, bản chất của biện pháp “bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba” chính là việc bên thứ ba (bên bảo lãnh) cầm cố, thế chấp tài sản của mình để bảo đảm khoản nợ của khách hàng vay (bên được bảo lãnh) với ngân hàng (bên nhận bảo lãnh).
Cần xác định rõ bản chất của biện pháp “bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba” bởi lẽ hậu quả pháp lý của “bảo lãnh” và “bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba” là khác nhau:
- Bảo lãnh: BLDS 2005 quy định “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh (điều 369 BLDS 2005)
- “Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba”: khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản đã cam kết của mình ra để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Trong mọi trường hợp, phạm vi thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh chỉ nằm trong khối tài sản đã cam kết trong hợp đồng đã ký trước đó giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa khách hàng vay, bên thứ ba và ngân hàng
Khách hàng vay
(Bên được bảo lãnh)
Bên thứ ba
(Bên bảo lãnh)
Ngân hàng
(Bên nhận bảo lãnh)
1
2
3
(1): Quan hệ dân sự (Hợp đồng dân sự)
(2): Quan hệ tín dụng (Hợp đồng tín dụng)
(3): Quan hệ bảo lãnh (Hợp đồng cấm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba)
1.1.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Tài sản hình thành từ vốn vay chính là tài sản hình thành trong tương lai, có được từ việc khách hàng đầu tư khoản vốn vay của mình.
Techcombank lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay khi cho vay các khoản vay trung hạn, dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống, nếu khách hàng và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các điều kiện sau:
Đối với khách hàng:
- Có tín nhiệm với Techcombank trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Đối với trường hợp vay vốn lần đầu, khách hàng có uy tín về khả năng sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa có chất lượng trên thị trường; hoặc khách hàng có khả năng khai thác có hiệu quả tài sản phục vụ đời sống.
- Có khả năng tài chính và có các nguồn thu hợp pháp có khả năng thu được trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Techcombank.
- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật.
- Có mức vốn tự có (vốn của chủ sở hữu) tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng phương thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba đáp ứng được điều kiện đã quy định của Techcombank.
Đối với tài sản hình thành từ vốn vay:
Tài sản hình thành từ vốn vay dùng bảo đảm vay phải xác định được:
- Quyền sở hữu của khách hàng.
- Phải xác định danh mục, số lượng, giá trị, đặc điểm của tài sản.
- Tài sản được phép giao dịch và không có tranh chấp.
Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiềm, thì khách hàng phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng.
1.2. Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ tại ngân hàng Techcombank
1.2.1. Nguyên tắc xử lý TSBĐ
Việc xử lý TSBĐ tại ngân hàng Techcombank được thực hiện theo quy định chung của pháp luật và các quy định riêng của ngân hàng Techcombank.
Nguyên tắc xử lý TSBĐ:
a/ Việc xử lý TSBĐ thực hiện theo đúng thỏa thuận giữa Techcombank và bên bảo đảm tại các văn bản:
- Hợp đồng bảo đảm đã ký kết
- Các biên bản, văn bản làm việc với bên bảo đảm trong quá trình thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm
- Văn bản ủy quyền/cam kết của bên bảo đảm về việc xử lý tài sản bảo đảm
- Các văn bản thỏa thuận khác phù hợp với quy định của pháp luật
b/ Trường hợp Techcombank không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được với bên bảo đảm về phương án xử lý tài sản thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì được trực tiếp bán.
c/ Việc xử lý TSBĐ phải tuân thủ quy định tại văn bản “Hướng dẫn về việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ” (sau đây gọi tắt là HD-XLTSBĐ), Quy trình xử lý nợ xấu và các quy định hiện hành của pháp luật.
d/ Việc xử lý TSBĐ phải thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Techcombank, bên bảo đảm và các bên tham gia giao dịch bảo đảm khác (nếu có)
1.2.2 Phương thức xử lý TSBĐ
a/ Trường hợp thỏa thuận với bên bảo đảm về phương thức xử lý TSBĐ thì Techcombank tiến hành thỏa thuận một trong các phương thức sau:
- Techcombank trực tiếp bán TSBĐ: Techcombank trực tiếp tổ chức bán tài sản theo trình tự, thủ tục được quy định tại HD-XLTSBĐ, ký kết hợp đồng mua bán với bên mua tài sản và xuất hóa đơn cho bên mua tài sản (nếu bên mua tài sản có yêu cầu)
- Techcombank ủy thác/ủy quyền cho tổ chức có chức năng mua bán TSBĐ: Techcombank ký kết hợp đồng ủy thác/ủy quyền cho công ty AMC hoặc các tổ chức khác có chức năng mua bán tài sản để bán tài sản bảo đảm theo trình tự, thủ tục quy định tại HD-XLTSBĐ.
- Techcombank ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá: Techcombank ủy quyền cho tổ chức có chức năng bán đấu giá theo quy định của pháp luật đối với những tài sản mà Techcombank và bên bảo đảm thỏa thuận về phương thức bán đầu giá tài sản, hoặc trường hợp pháp luật quy định việc xử lý TSBĐ buộc phải thông qua đấu giá.
- Bên bảo đảm trực tiếp bán TSBĐ: Bên bảo đảm trực tiếp ký hợp đồng mua bán TSBĐ với người mua. Đơn vị xử lý TSBĐ của Techcombank có trách nhiệm hỗ trợ bên bảo đảm trong việc bán TSBĐ (giới thiệu người mua, tư vấn thủ tục … ). Tiền bán TSBĐ phải được chuyển về tài khoản của bên bảo đảm mở tại Techcombank. Sau khi tiền bán tài sản được chuyển vào tài khoản, Chi nhánh/Phòng giao dịch phối hợp với CCA thực hiện việc hạch toán thu nợ và giải chấp TSBĐ theo quy định tại HD-XLTSBĐ và quy định có liên quan của Techcombank.
- Techcombank nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm: Techcombank trực tiếp nhận chính TSBĐ để bù trừ cho nghĩa vụ của bên bảo đảm theo HD-XLTSBĐ.
b/ Trường hợp không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được về phương thức xử lý TSBĐ: TSBĐ được bán đầu giá hoặc xử lý theo phương thức quy định tại HD-XLTSBĐ.
1.2.3 Tiến trình thực hiện xử lý TSBĐ
Sơ đồ 3: Tiến trình thực hiện xử lý TSBĐ
NGƯỜI THỰC HIỆN
TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN
Đơn vị xử lý TSBĐ
Phê duyệt
Tổ chức xử lý TSBĐ theo phương án đã được phê duyệt
Thủ tục sau khi xử lý TSBĐ
Tiếp nhận TSBĐ để xử lý
Xây dựng phương án xử lý TSBĐ và trình phê duyệt
Đơn vị xử lý TSBĐ
Ban Tổng giám đốc
Đơn vị xử lý TSBĐ/Hội đồng xử lý TSBĐ
Đơn vị xử lý TSBĐ
(Nguồn: Hướng dẫn về việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của Techcombank)
Đơn vị xử lý TSBĐ căn cứ vào tình hình diễn biến của: khoản vay, khả năng trả nợ; đề nghị của khách hàng, của bên bảo đảm; các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký với Techcombank và quy định có liên quan của Techcombank để yêu cầu bên bảo đảm/bên giữ TSBĐ bàn giao hoặc tiến hành thu giữ, tiếp nhận và xử lý TSBĐ.
Sau khi tiếp nhận TSBĐ, đơn vị xử lý TSBĐ có trách nhiệm xác định giá trị TSBĐ và xây dựng phương án xử lý TSBĐ trình ban Tổng giám đốc phê duyệt trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận được TSBĐ.
Việc xử lý TSBĐ được thực hiện theo phương thức do bên bảo đảm và Techcombank thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng. Nếu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được phương thức xử lý TSBĐ, Techcombank xử lý TSBĐ theo quy định tại HD-XLTSBĐ hoặc theo quy định khác của pháp luật hiện hành.
Giá trị thu về sau khi xử lý TSBĐ (đã trừ các chi phí bảo quản TSBĐ và các chi phí cần thiết cho việc xử lý TSBĐ theo quy định tại HD-XLTSBĐ và quy định của pháp luật):
- Nếu lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm thì phần giá trị chênh lệch được hoàn trả cho bên bảo đảm
- Nếu ngang bằng với nghĩa vụ được bảo đảm thì Techcombank nhận toàn bộ giá trị đó để trừ nợ và bên bảo đảm được xem là đã hoàn thành nghĩa vụ đối với Techcombank.
- Nếu nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì bên bảo đảm phải tiếp tục thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu cho Techcombank.
2. Những khó khăn gặp phải trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm của Ngân hàng Techcombank.
2.1. Khó khăn về hệ thống văn bản pháp luật.
Hệ thống văn bản pháp luật nhìn chung còn nhiều bất cập và chưa thống nhất. Số lượng các văn bản quy định về lĩnh vực ngân hàng còn hạn chế. Đặc biệt, những quy định về tài sản bảo đảm còn ít và nằm rải rác tại nhiều văn bản, thể hiện sự không thống nhất.
Trong giai đoạn trước, khi Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP và Nghị đinh 165/1999/NĐ-CP còn hiệu lực, những quy định về tài sản bảo đảm tại các Nghị định và Bộ luật Dân sự 2005 là chưa thống nhất. Ví dụ điển hình là quy định về phạm vi bảo đảm của tài sản. Điều 324 BDS 2005 quy định một tài sản có thể dùng bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ và các nghĩa vụ ấy có thể “thuộc nhiều đối tượng”. Tuy nhiên Nghị định 178/1999/NĐ-CP và Nghị định 165/1999/NĐ-CP lại có sự khác biệt trong quy định, theo đó, “một tài sản được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng; trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, thì một tài sản có thể được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ “tại một tổ chức tín dụng” với điều kiện giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.” (Điều 11 Nghị định 178/1999/NĐ-CP).
Sự không thống nhất trong các quy định trên của pháp luật đã gây khá nhiều rắc rối cho Ngân hàng Techcombank trong một giai đoạn ngắn. “Quy chế về bảo đảm tài sản của Ngân hàng Techcombank” được ban hành theo Quyết định số 238/QĐ-HĐ ngày 23/02 năm 2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Techcombank, theo đó, tại điểm 3 Mục 5 Chương II của quy chế có quy định “ Một tài sản được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ tại Techcombank; trường hợp tài sản là loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, thì một tài sản có thể được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại Techcombank, với điều kiện phải thực hiện quy định tại điểm 1.4 Mục này”. Như vậy, trong một năm từ khi BLDS 2005 ra đời cho tới khi Nghị định 163/2006/NĐ-CP ra đời, Techcombank đã gặp nhiều rắc rối trong việc thực hiện quy định của pháp luật về phạm vi tài sản bảo đảm.
Sự ra đời của Nghị định 163/2006/NĐ-CP làm hết hiệu lực của Nghị định 178/1999/NĐ-CP và Nghị định 165/1999/NĐ-CP đã giúp thống nhất hơn các quy định của pháp luật về tài sản bảo đảm. Điều 5 Nghị đinh 163/2006/NĐ-CP quy định “Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự thì các bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Vấn đề “phạm vi bảo đảm của tài sản” chỉ là một trong những khó khăn mà Ngân hàng Techcombank gặp phải về hệ thống văn bản pháp luật.
2.2 Khó khăn khi tiến hành xử lý TSBĐ trong thực tiễn.
Đối với TSBĐ là bất động sản:
Khi nhận TSBĐ là bất động sản, Techcombank cũng gặp phải một số khó khăn điển hình trong khâu xử lý TSBĐ như: Khách hàng không hợp tác, cố tính trốn tránh (nguyên nhân khách quan); Cán bộ thẩm định không xác định đúng giá trị của TSBĐ hoặc không xác minh chính xác mối quan hệ giữa khách hàng vay vốn và ngân hàng (nguyên nhân chủ quan).
Khách hàng không hợp tác, cố tình trốn tránh là khó khăn hàng đầu mà Techcombank thường xuyên gặp phải. Việc xử lý TSBĐ trở nên phức tạp và nhiều trường hợp dẫn đến không thể xử lý được. Trong những trường hợp này, Techcombank chỉ còn cách khởi kiện khách hàng tại tòa án. Với hướng giải quyết này, thời gian xử lý TSBĐ bị kéo dài hơn so với dự tính ban đầu của ngân hàng, thời gian tố tụng thường kéo dài, giá trị của TSBĐ thường không đúng thực tế bởi các cơ quan chức năng xác định giá trị tài sản theo khung giá nhà nước, các thủ tục tại Tòa án nhiều phiền hà… Không chỉ dừng tại đó, giai đoạn Thi hành án cũng làm mất rất nhiều thời gian của Ngân hàng. Thời gian xử lý TSBĐ càng kéo dài, Techcombank càng chịu nhiều tổn thất.
Trường hợp cán bộ thẩm định không xác định đúng giá trị của TSBĐ hoặc không xác minh chính xác mối quan hệ giữa khách hàng vay vốn và ngân hàng cũng gây khó khăn cho việc xử lý TSBĐ của Ngân hàng Techcombank. Khi xác định giá trị TSBĐ là bất động sản, cán bộ thẩm định không nắm được giá trị thực của TSBĐ, không chú ý tới việc bất động sản có nằm trong khu vực khó bán hay không (đối với TSBĐ là nhà ở, xưởng sản xuất…). Điều này dẫn đến khó khăn cho Ngân hàng khi xử lý TSBĐ bởi thời gian xử lý TSBĐ sẽ kéo dài, nhiều trường hợp sau khi xử lý TSBĐ ngân hàng lại không thu đủ nợ…
Đối với TSBĐ là động sản:
Khó khăn lớn nhất mà Ngân hàng Techcombank gặp phải khi xử lý TSBĐ là động sản là khách hàng thường cố tình trốn tránh, tẩu tán TSBĐ, dẫn đến ngân hàng không thể xử lý TSBĐ được và không thể thu hồi nợ. Ví dụ: Cá nhân vay tiền của ngân hàng để mua ô tô và giao cho ngân hàng giữ giấy tờ sở hữu ô tô. Khi đến hạn trả tiền, cá nhân đó đem bán ô tô cho người khác, thu tiền về, sau đó chạy trốn. Lúc này, mặc dù ngân hàng có trong tay giấy tờ sở hữu của ô tô cũng không thể thu hồi lại khoản nợ mà khách hàng đã vay.
Trong những trường hợp này, nếu ngân hàng khởi kiện khách hàng thì bản thân ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Giả sử khách hàng được triệu tập nhưng không đến thì lúc này Tóa án có quyền xử vắng mặt và tuyên buộc khách hàng phải trả nợ và xử lý TSBĐ nhưng khách hàng lại không giao nộp TSBĐ. Lúc này bản án cũng không được thi hành vì không có đối tượng thi hành. Như vậy ngân hàng sẽ không có khả năng thu hồi nợ. Trường hợp khách hàng đồng ý thanh toán nhưng số tiền rất nhỏ so với nghĩa vụ phải thực hiện và thực hiện không đúng lịch (ví dụ một tháng phải trả 10 triệu nhưng khách hàng chỉ trả 2 triệu một tháng .. ) thì ngân hàng cũng không thể giải quyết vụ việc một các triệt để vì không có đầy đủ căn cứ khởi tố hình sự.
Trong một số trường hợp khác, khi giá trị TSBĐ không đủ để thu nợ, ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ. Ví dụ: Doanh nghiệp mua xe ôtô trả góp. Khi khoản vay của doanh nghiệp với ngân hàng bị quá hạn, doanh nghiệp đồng ý bàn giao xe để ngân hàng xử lý. Tuy nhiên, giá trị xe không đủ thu nợ. Sau khi xử lý TSBĐ là ôtô, ngân hàng tiếp tục yêu cầu khách hàng trả nợ nhưng khách hàng lúc này đã ngừng hoạt động, không có nguồn trả nợ. Như vậy trong trường hợp này ngân hàng không thể thu nợ được
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK.
I/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GIÚP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TSBĐ
Pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong việc lành mạnh hoá thị trường vốn, giúp các tổ chức, cá nhân trong xã hội dễ dàng tiếp cận với nguồn tín dụng. Hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm giúp thiết lập chuẩn mực pháp lý cho các ứng xử của các bên tham gia giao dịch, điều chỉnh có hiệu quả quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Nhìn lại sự phát triển của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, ta thấy có những điểm nổi bật đáng lưu ý sau:
- Giai đoạn trước ngày 01/01/2006
Trước khi Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam phân chia hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thành 2 chế định hoàn toàn độc lập, giống như pháp luật về hợp đồng ở Liên Xô và CHDC Đức trước đây. Theo đó, pháp luật về giao dịch bảo đảm cũng có sự phân chia tương ứng. Hệ quả là các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực dân sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành, còn các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực kinh tế thì chịu sự điều chỉnh trước hết của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Giai đoạn sau ngày 01/01/2006
BLDS năm 2005 ra đời đã bãi bỏ hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Do đó, kể từ ngày 01/01/2006, về mặt pháp lý, các giao dịch dân sự nói chúng và giao dịch bảo đảm nói riêng được xác lập giữa các doanh nghiệp với nhau để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hay được xác lập giữa cá nhân với nhau để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng đều được điều chỉnh dựa trên những nguyên tắc của chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó, các quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng chung cho các quan hệ dân sự và là cơ sở pháp lý được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Pháp luật chuyên ngành phải đảm bảo tính thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự. Với việc thống nhất pháp luật về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, trong đó có các giao dịch bảo đảm và bãi bỏ Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế dẫn đến trong trường hợp các văn bản pháp luật chuyên ngành, ví dụ về đất đai, thương mại không có quy định thì áp dụng các quy định tương ứng trong Bộ luật dân sự 2005.
Bộ Luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ VIII thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 1996 đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống pháp luật nước ta. Đây là Bộ luật đầu tiên được xây dựng khá đồ sộ và hoàn chỉnh, là nền tảng, cơ sở trong quá trình phát triển pháp luật dân sự nước nhà và góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật dân sự thống nhất, có hiệu lực pháp lý cao, từng bước khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của pháp luật dân sự trước đây.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định từ Điều 318 đến điều 357 Mục 5 Chương XVII, Phần thứ ba của BLDS 2005, nhìn chung còn chưa cụ thể, do đó việc cần thiết là phải ban hành Nghị định về giao dịch bảo đảm.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 29/12/2009 về giao dịch bảo đảm đã hướng dẫn thi hành một số quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong BLDS 2005. Sự ra đời của Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã giúp thống nhất pháp luật về giao dịch bảo đảm trong quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, không phân biệt bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khác.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này mang đến cho các ngân hàng và các TCTD của Việt Nam nhiều thuận lợi, đó là được hưởng những ưu đãi mà những nước là thành viên của WTO được hưởng, có môi trường kinh doanh ổn định, phạm vi kinh doanh mở rộng, nâng cao khả năng thu hút nguồn đầu tư nước ngoài, … Tuy nhiên, các ngân hàng và TCTD cũng gặp không ít khó khăn: sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài có uy tín trên thị trường quốc tế, công nghệ và hệ thống sản phẩm chưa đạt được chất lượng cao, cán bộ nhân viên và trình độ quản lý … đặc biệt là hệ thống pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bởi vậy, trên cơ sở những kết quả đạt được trong thời gian qua, để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung, pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý TSBĐ nói riêng, chúng ta cần nghiên cứu, thực hiện một số giải pháp hữu ích . Sau đây, tôi xin đưa ra một số giải pháp chung như sau:
Thứ nhất, cần mở rộng hơn nữa phạm vi tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP và các quy định có liên quan quy định: Tài sản bảo đảm có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản thuộc quyển sở hữu của bên bảo đảm. Ngoài điều kiện tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, nếu pháp luật có quy định khác về điều kiện đối với tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì phải đáp ứng đấy đủ các điều kiện đó (ví dụ: quy định về nhà ở chỉ được dùng để bảo đảm khoản vay tại một tổ chức tín dụng). Những quy định về điều kiện đối với tài sản bảo đảm như trên còn thiếu rõ ràng, chưa cụ thể. Điều này đã gây ra khó khăn trong việc khai thông thị trường vốn, cản trở các chủ thể kinh doanh, (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế… Do vậy, cần đưa ra khái niệm cụ thể và rõ ràng hơn về phạm vi tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhằm tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân dùng tài sản hợp pháp để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, cần đưa ra quy định cụ thể về khái niệm “quyền từ hợp đồng”
Cùng với tiến trình hội nhập đời sống quốc tế, tài sản bảo đảm là các quyền từ hợp đồng sẽ trở nên phổ biến. Các quyền từ hợp đồng là một khái niệm rộng hơn quyền tài sản hiện đang được quy định trong Bộ luật dân sự. Trong thực tế, đã có trường hợp dùng quyền được bao tiêu sản phẩm gia công, quyền yêu cầu thanh toán trong các hợp đồng, quyền nhận tiền bảo hiểm, quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ hoặc phát sinh từ các hợp đồng tín dụng thương mại... để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Song, đến thời điểm hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định cụ thể về nội hàm của khái niệm “quyền từ hợp đồng”, “quyền tài sản hình thành trong tương lai”, về căn cứ chứng minh quyền thuộc sở hữu, sử dụng của bên bảo đảm và về cơ chế bảo vệ bên nhận bảo đảm bằng các quyền… Trong thời gian tới, các quyền từ hợp đồng (bao gồm cả quyền tài sản) sẽ giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong giao lưu dân sự, thương mại, do vậy pháp luật về giao dịch bảo đảm cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn về loại tài sản bảo đảm đặc thù này.
Thứ ba, cần rà soát để bãi bỏ những quy định không phù hợp với thực tiễn, hạn chế các chủ thể thiết lập, thực hiện các giao dịch bảo đảm
Hiện nay vẫn còn rất nhiều quy định về giao dịch bảo đảm được quy định tại các văn bản pháp luật khác nhau và gây ra mâu thuẫn, khiến ngân hàng và các TCTD gặp nhiều khó khăn khi giao kết hợp đồng bảo đảm cũng như khi xử lý TSBĐ. Ví dụ: cách thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 quy định trong trường hợp không xử lý được theo thoả thuận thì quyền sử dụng đất được bán đấu giá, trong khi đó BLDS 2005 quy định bên nhận bảo đảm phải khởi kiện tại Toà án. Ngoài ra, cần nghiên cứu để bổ sung một số quy định đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ví dụ: những quy định nhằm bảo vệ quyền kiểm soát tài sản bảo đảm là quyền tài sản (đặc biệt là quyền đòi nợ) của bên nhận bảo đảm hay như quy định về hạn chế tài sản là nhà ở dùng để thế chấp cho nhiều nghĩa vụ tại nhiều tổ chức tín dụng trong Luật Nhà ở…
Thứ tư, đưa ra các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nợ có bảo đảm được thực thi tốt nhất quyền năng của mình.
Trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất nhưng vẫn phải khách quan, trung thực. Việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với những tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm cũng cần được xem xét để áp dụng. Nếu được áp dụng thủ tục rút gọn, bên nhận bảo đảm sẽ dễ dàng tiếp cận và xử lý tài sản bảo đảm hoặc chỉ cần chứng minh hai chứng cứ là: hợp đồng bảo đảm hợp pháp và con nợ không có khả năng trả nợ theo đúng cam kết, thì chủ nợ hoàn toàn có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo như thoả thuận hoặc theo pháp luật quy định.
- Toà án nên tổ chức xét xử theo thủ tục khẩn cấp và không đình hoãn phiên xử dù có liên quan đến các vụ án khác, vì đây là vụ kiện đòi nợ đã quá rõ ràng, tài sản thế chấp đã qua công chứng và được bảo đảm cho riêng món nợ mà ngân hàng được quyền ưu tiên thanh toán.
- Cần có một điều luật quy định việc xét xử vắng mặt để tránh tình trạng bên nợ bỏ trốn, tạo điều kiện cho Toà án có thể xét xử vắng mặt mà không phải chờ đến lúc tìm được con nợ mới xử tiếp như hiện nay.
- Đơn giản hoá thủ tục phát mại khi đã có bản án có hiệu lực pháp lý của Tòa án: Ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng ủy quyền bán tài sản tại Trung tâm đấu giá với giá khởi điểm do ngân hàng ấn định, không thông qua trung gian Phòng thi hành án như hiện nay tránh mất nhiều thời gian.
II/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHÍA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK.
Gặp rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều không thể tránh khỏi của các ngân hàng TMCP nói chung và Ngân hàng Techcombank nói riêng. Qua những phân tích về khó khăn mà Ngân hàng Techcombank gặp phải trong việc cho vay có TSBĐ và quá trình xử lý TSBĐ đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng bản thân Ngân hàng Techcombank cần có những đổi mới nhất định để hoạt động tín dụng cũng như việc xử lý TSBĐ của ngân hàng đạt được hiệu quả tốt hơn nữa. Sự đổi mới này không chỉ giới hạn trong các quy định về giao dịch bảo đảm, mà còn bao gồm cả những đổi mới về khía cạnh kinh doanh của Ngân hàng Techcombank. Sau đây, tôi xin đưa ra một số kiến nghị của mình cho Ngân hàng Techcombank.
Thứ nhất, Ngân hàng Techcombank cần mở rộng hơn nữa chính sách tín dụng, áp dụng tối đa các quy định về bảo đảm tiền vay bằng tài sản với nhiều loại khách hàng, không chỉ có khách hàng lâu năm mà cả khách hàng tiềm năng mới.
Để giảm thiểu rủi ro cho các khoản vay, các ngân hàng và TCTD thường ưu tiên cấp tín dụng cho các khách hàng lâu năm bởi giữa khách hàng và ngân hàng đã có sẵn sự tin tưởng với nhau, ngân hàng nắm rõ hơn về khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên, sự hạn chế này là không hoàn toàn tốt cho các ngân hàng và TCTD. Sự năng động của thị trường hiện nay đã làm xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp, nhà sản xuất mới. Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc mở rộng phạm vi khách hàng là hoàn toàn cần thiết. Khách hàng cho các ngân hàng, TCTD không chỉ nằm gọn trong danh sách khách hàng lâu năm. Việc mở rộng danh sách khách hàng được cấp tín dụng, đã giúp các ngân hàng, TCTD mở ra những cơ hội mới để tiếp cận tối đa thị trường năng động hiện nay, tạo điều kiện để nâng cao sự ảnh hưởng của bản thân ngân hàng, TCTD tới thị trường tiền tệ trong nước cũng như quốc tế.
Ngân hàng Techcombank là một ngân hàng năng động với những sản phẩm dịch vụ đạt chất lượng cao, sự tiếp cận thị trường mới là rất cần thiết để Techcombank nâng cao sự ảnh hưởng của mình trong hệ thống các Ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Để làm được điều này, Ngân hàng Techcombank cần mở rộng phạm vi khách hàng của mình, đón nhận không chỉ khách hàng lâu năm mà cả những khách hàng mới với tiềm năng cao.
Thứ hai, Ngân hàng Techcombank cần hoàn thiện các quy định về cho vay có TSBĐ và đổi mới “ Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của Ngân hàng Techcombank”.
“Quy chế đảm bảo bằng tài sản của Ngân hàng Techcombank” được ban hành ngày 23/02/2001, bởi vậy, rất nhiều quy định được đưa ra trong quy chế không còn phù hợp với thị trường hiện nay. Điều này gây ra những khó khăn nhất định cho cả Ngân hàng Techcombank, khách hàng vay, và các cơ quan nhà nước có liên quan trong quá trình thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý TSBĐ. Sau khi BLDS 2005 được ban hành và có hiệu lực, đã có rất nhiều quy định mới về vấn đề bảo đảm tiền vay. Nhiều loại tài sản được quy định và đạt tiêu chuẩn làm TSBĐ, nhiều loại hình giao dịch bảo đảm mới xuất hiện trên thị trường và được pháp luật công nhận … Chính vì vậy, Ngân hàng Techcombank cần phải đổi mới không chỉ “Quy chế về đảm bảo bằng tài sản” mà cả những văn bản nội bộ có liên quan để theo kịp với thị trường cũng như sự thay đổi của hệ thống pháp luật.
Việc ban hành mới “Quy chế đảm bảo bằng tài sản” mang ý nghĩa là bảo đảm tính pháp lý cho hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm khi xảy ra tranh chấp và xử lý TSBĐ.
Thứ ba, cần quy định rõ ràng trách nhiệm của cán bộ tín dụng khi thẩm định tài sản bảo đảm.
Thẩm định tài sản bảo đảm là hoạt động quan trọng trong toàn bộ quá trình cấp tín dụng của ngân hàng. Kết quả của công tác thẩm định sẽ giúp ngân hàng nắm rõ hơn khả năng trả nợ của khách hàng vay. Việc thẩm định tốt, chính xác giá trị tài sản bảo đảm giúp ngân hàng xác định rõ hạn mức cho vay của mình đối với khách hàng vay. Nếu cán bộ thẩm định làm việc tác trách, không cẩn thận khi thẩm định tài sản bảo đảm, xác định sai giá trị tài sản bảo đảm, thì ngân hàng sẽ có thể gặp nhiều khó khăn trong khâu xử lý tài sản bảo đảm sau đó, và có thể không thu hồi đủ khoản nợ, dẫn đến làm tăng tỉ lệ nợ xấu.
Việc quy định rõ trách nhiệm của cán bộ tín dụng khi thẩm định tài sản bảo đảm sẽ giúp cán bộ tín dụng có trách nhiệm cao trong công việc của mình.
Thứ tư, cần thực hiện đầy đủ các bước đã được quy định đầy đủ trong quy trình cho vay có tài sản bảo đảm của Ngân hàng Techcombank.
Với tâm lý có TSBĐ cho việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các ngân hàng và TCTD nói chung thường tin tưởng vào TSBĐ mà không đặt nhiều quan tâm vào tình hình tài chính của chủ đầu tư khi vay vốn và tính khả thi của dự án vay vốn. Sự lơ là, thiếu thận trọng này là một trong các nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Những rủi ro này có thể sẽ không xảy ra nếu khi cho vay, ngân hàng chú trọng hơn nữa công tác thẩm định khách hàng. Thực chất, việc sử dụng TSBĐ là biện pháp dự phòng trong trường hợp khách hàng vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, hay do dự án vay vốn kém hiệu quả và xảy ra những rủi ro, tổn thất nằm ngoài khả năng dự đoán của ngân hàng. Chính vì vậy, các ngân hàng, TCTD nói chung và Ngân hàng Techcombank nói riêng tuân thủ đầy đủ các bước đã được quy định trong quy trình cho vay có TSBĐ đã được chính ngân hàng và các TCTD ban hành.
Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn về các mặt có liên quan đến hoạt động tín dụng cho cán bộ tín dụng.
Thực tế, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong khâu xử lý TSBĐ và nguyên nhân là công tác thẩm định của các bộ tín dụng thiếu chính xác. Ví dụ: Khi cán bộ tín dụng thẩm định không kỹ khoản vay, không xác minh chính xác mối quan hệ giữa khách hàng vay vốn và bên bảo đảm… thì khi xử lý TSBĐ, ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Với khoản vay có TSBĐ là bất động sản, cán bộ tín dụng cần xem xét các khía cạnh như: định giá chính xác bất động sản, xem xét bất động sản có nằm trong quy hoạch của nhà nước hay không … Với khoản vay có TSBĐ là động sản, cán bộ tín dụng cần xác định đúng giá trị của động sản, xác định đúng bộ hồ sơ giấy tờ mà khách hàng giao nộp cho ngân hàng là hồ sơ, giấy tờ gốc, không có sự lừa đảo… Với khoản vay có bảo đảm của bên thứ ba, cán bộ tín dụng cần xác minh rõ mỗi quan hệ giữa khách hàng vay và bên bảo đảm, khả năng thực hiện nghĩa vụ thay của bên bảo đảm…
Nhìn chung, công tác thẩm định trước khi cho vay của các cán bộ tín dụng là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ của bản thân ngân hàng. Ngân hàng Techcombank cần tiếp tục đẩy mạnh giai đoạn thẩm định trước khi vay, đồng thời nâng cao hơn trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng để hạn chế lớn nhất tỉ lệ nợ xấu.
Thứ sáu, nghiên cứu thành lập công ty mua bán khai thác tài sản bảo đảm.
Căn cứ vào tình hình giá trị tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, ngân hàng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức ủy thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thỏa thuận. Công ty mua bán khai thác TSBĐ sẽ giúp ngân hàng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả, giải tỏa nhanh TSBĐ đang đóng băng tại ngân hàng.
Thứ bảy, thiết lập quan hệ với các cơ quan tư vấn, các văn phòng luật để xây dựng các hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh chặt chẽ, tuân thủ pháp luật.
Cơ quan tư vấn và văn phòng luật làm nhiệm vụ chuyên sâu về vấn đề tư vấn pháp luật. Việc kết hợp với những cơ quan trên sẽ giúp Techcombank soạn thảo được nhiều hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chặt chẽ hơn, tránh những trường hợp rủi ro không đáng có. Trường hợp xảy ra tranh chấp, Techcombank sẽ nhận được sự tư vấn kịp thời từ phía các cơ quan tư vấn, văn phòng luật. Sự tư vấn kịp thời này giúp Techcombank phần nào giải quyết dễ dàng hơn vụ tranh chấp, rút gọn thời gian xử lý tài sản bảo đảm, hạn chế hơn tổn thất mà ngân hàng phải chịu.
Thứ tám, thiết lập hệ thống thông tin khách hàng, lưu giữ các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, và các sự việc cụ thể để nắm vững đối tác.
Khi đồng ý cho khách hàng vay tiền, việc nắm rõ thông tin cụ thể về khách hàng là điều cần thiết. Việc thiết lập hệ thống thông tin khách hàng sẽ giúp ngân hàng Techcombank dễ dàng nằm bắt thông tin về khách hàng và đồng thời tạo cơ sở cho việc tìm hiểu khách hàng. Thông qua hệ thống thông tin khách hàng, ngân hàng sẽ phân loại được chất lượng khách hàng, quyết định có nên hay không nên cho khách hàng đó vay tiền.
Thứ chín, xây dựng gói dịch vụ khuyến mại cho những khách hàng đã vay tiền tại Techcombank sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản nhưng không phải sử dụng những biện pháp xử lý tài sản.
Hình thức khuyến mại này được sử dụng nhằm khuyến khích những khách hàng vay trong tương lai tự nguyện và hợp tác trả nợ đúng hạn, thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Điều này vừa góp phần huy động nguồn khách hàng sử dụng dịch vụ cấp tín dụng tại Techcombank, vừa thắt chặt mối quan hệ ngân hàng – khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng vay tự giác trả nợ đúng hạn, thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết khi vay.
KẾT LUẬN
Hoạt động tín dụng là hoạt động có độ rủi ro cao nhất mà các ngân hàng và TCTD gặp phải. Lý do của vấn đề này chính là do các ngân hàng và TCTD chỉ là người cho vay chứ không phải là người trực tiếp sử dụng khoản tiền để đầu tư. Việc khoản vay đó có được sử dụng có ích, đem lại lợi nhuận cao hay thấp, phụ thuộc vào khách hàng vay (người trực tiếp sử dụng khoản vay), phụ thuộc vào thị trường, cơ hội kinh doanh, hoàn cảnh kinh tế cụ thể … Tuy ngân hàng, các TCDT có công tác thẩm định cụ thể trước khi cho vay nhưng rủi ro của khoản vay là không thể lường trước. Bởi vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản là nội dung quan trọng trong hệ thống văn bản luật ngân hàng. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng vay, ngân hàng và giúp giảm thiểu rủi ro các khoản vay.
Nhìn chung các quy định của ngân hàng Techcombank về vấn đề bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý TSBĐ đều tuân theo các quy định chung của pháp luật hiện hành. Ngân hàng Techcombank với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình, luôn tạo điều kiện tốt nhất để thỏa mãn nhu cầu vay của khách hàng. Những quy định về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý TSBĐ của Techcombank thể hiện sự cân bằng giữa lợi ích của khách hàng vay và lợi ích của ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng cũng như của ngân hàng.
Do thời gian thực tập có hạn và kiến thức của bản thân còn hạn chế nên báo cáo thực tập của tôi còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè để bài báo cáo đạt kết quả tốt!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A/ CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Bộ luật dân sự năm 2005
2. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997;
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2003
3. Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997;
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004
4. Luật Đất đai 2003
5. Luật Công chứng năm 2006
6. Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm
7. Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
8. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/11/2006 về giao dịch bảo đảm
9. Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm
10. Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
11. Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai
12. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về ban hành quy chế bán đấu giá tài sản
13. Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/05/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
14. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
15. Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
16. Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/04/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng
17. Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
18. Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của TTLT 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT
B/ CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
1. Báo cáo thường niên năm 2004 – 2008 của Techcombank
2. Điều lệ của Techcombank
3. Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
(Ban hành theo quyết định số 238/QĐ-HĐ ngày 23/02/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam)
4. Hướng dẫn về việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ
(Ban hành kèm theo quyết định số 37/2010/QĐ-TGĐ ngày 05/01/2010 của Tổng Giám Đốc, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010)
5. Quy trình xử lý các khoản nợ xấu
(Ban hành kèm theo quyết định số 36/2010/QĐ-TGĐ ngày 05/01/2010 của Tổng Giám Đốc, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010)
6. Quy trình nhận TSBĐ ban hành ngày 16/09/2003 của Tổng Giám Đốc, có hiệu lực từ ngày 16/09/2003
7. Chính sách tín dụng của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 00082/HĐQT-TCB ngày 01/03/2007 của Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
8. Quyết định số 0022/QĐ-HĐQT ngày 18/01/2007 của Hội đồng quản trị ban hành Quy chế Tài chính Techcombank và các văn bản hướng dẫn Quyết định số 238/QĐ-HĐQT ngày 23/02/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị ban hành Quy chế về TSBĐ và các văn bản sửa đổi, bổ sung
9. Quyết định số 01065/QĐ-TGĐ ngày 30/10/2003 của Tổng Giám Đốc ban hành Quy trình nhận TSBĐ
10. Quyết định số 04341/2007QĐ-TGĐ ngày 29/08/2007 của Tổng Giám Đốc ban hành Quy trình định giá TSBĐ tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
11. Quyết định số 0872/2009/QĐ-TGĐ ngày 03/03/2009 của Tổng Giám Đốc ban hành Quy trình xử lý các khoản nợ xấu
12. Trần Công Thịnh – Khoa Luật, ĐH Quốc Gia Hà Nội:
Bài viết: “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định cầm cố tài sản”, đăng ngày 28/12/2009 tại
13. Hồ Quang Huy:
Bài viết: “Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm”, đăng ngày 10/12/2008 tại
14. Th.S Trần Anh Tuấn:
Bài viết: “Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn trong các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP.HCM”, đăng tháng 09/2002 tại
15. Bài viết “ Mổ xẻ lý do HSBC “chọn” Techcombank”, đăng ngày 10/09/2008 tại
16. Bài viết “Techcombank – Hơn cả một niềm tin” - Cẩm nang các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thiều Quang – Chủ tịch HĐQT Techcombank
MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Sơ đồ 1: Mô hình cơ cấu tổ chức của Techcombank
Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa khách hàng vay, bên thứ ba và ngân hàng
Sơ đồ 3: Tiến trình thực hiện xử lý TSBĐ
Biểu 1 : Các chỉ số tài chính cơ bản của năm
Biểu 2 : Hoạt động tín dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank.doc