Pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng
LỜI MỞ ĐẦU
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một bộ phận gắn liền với nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000 là sự kiện đánh dấu bước phát triển trong quá trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam. Tuy đã chính thức vận hành được hơn 6 năm nhưng nhìn chung thị trường chứng khoán vẫn được xem là lĩnh vực mới mẻ ở nước ta. Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chào bán chứng khoán có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. Khái quát chung. 1
1. Khái niệm chứng khoán. 1
1.1. Định nghĩa chứng khoán. 1
1.2. Đặc điểm của chứng khoán. 2
1.3. Phân loại chứng khoán. 3
2. Chào bán chứng khoán. 4
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán. 4
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán. 4
II. Pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng. 5
1. Đối tượng phát hành. 6
2. Phương thức phát hành. 6
3. Điều kiện phát hành. 6
4. Trình tự, thủ tục chào bán. 7
III. Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng 7
III. Một số đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng. 8
C. KẾT LUẬN 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2683 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một bộ phận gắn liền với nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000 là sự kiện đánh dấu bước phát triển trong quá trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam. Tuy đã chính thức vận hành được hơn 6 năm nhưng nhìn chung thị trường chứng khoán vẫn được xem là lĩnh vực mới mẻ ở nước ta. Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chào bán chứng khoán có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm chứng khoán
1.1. Định nghĩa chứng khoán
Theo quan điểm truyền thống, chứng khoán là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với vốn của tổ chức phát hành. Như vậy nói đến chứng khoán là nói đến các quyền tài sản. Đó có thể là quyền của chủ nợ đối với người sở hữu chứng khoán, cũng có thể là quyền của người mua chứng khoán đối với phần vốn của công ty. Về bản chất nó chính là sự thể hiện quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong các hoạt động kinh tế khác.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định tại Luật Chứng Khoán 2006- điều 6. Theo đó, “chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản và phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử bao gồm các loại sau đây
a)Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b)Quyền mua cổ phần,chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”
1.2. Đặc điểm của chứng khoán
Thứ nhất, chứng khoán có tính sinh lời. Điều đó có nghĩa là nó đem lại cho người sở hữu một khoản thu nhập trong một thời gian nhất định. Thu nhập này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hàng năm hoặc việc tăng giá của chứng khoán trên thị trường.
Thứ hai, chứng khoán có tính thanh khoản cao. Đặc điểm này thể hiện ở khả năng nhanh chóng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào từng loại chứng khoán, uy tín của chủ thể phát hành và biến động của thị trường.
Thứ ba, tính rủi ro của chứng khoán. Chứng khoán là một loại tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Có nghĩa là nhà đầu tư có thể không được hoàn lại đủ số tiền ban đầu đã bỏ ra đầu tư vào chứng khoán. Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro được hiểu là sự sai biệt giữa lợi ích thực tế so với mức sinh lời kỳ vọng, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không hệ thống.
Thứ tư, chứng khoán có tính tư bản giả, đó là tính không đồng nhất giữa thị giá và mệnh giá của chứng khoán.
1.3. Phân loại chứng khoán
Giống như các loại hàng hoá khác, chứng khoán rất đa dạng, phong phú về chủng loại và hình thức. Để phân loại chứng khoán người ta thường dựa vào một số tiêu chí khác nhau như:
Căn cứ vào chủ thể phát hành, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán của doanh nghiệp và chứng khoán của Chính phủ.
Căn cứ vào bản chất, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng khoán có: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng khoán phái sinh như chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.
- Cổ phiếu: Đây là loại chứng khoán rất quan trọng cho việc tạo lập cũng như đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán. Có nhiều định nghĩa khác nhau về cổ phiếu. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam: “cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn góp cổ phần của tổ chức phát hành” .
- Trái phiếu: Đây là chứng khoán nợ do doanh nghiệp hoặc Chính phủ phát hành xác nhận quyền của chủ sở hữu đối với khoản nợ của chủ thể đó. Khoản nợ được tổ chức phát hành cam kết trả lại cho chủ sở hữu tại một thời điểm trong tương lai với một khoản lãi nhất định. Trái phiếu cũng có nhiều loại như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương.
- Chứng chỉ quỹ đầu tư: Đây là một loại chứng khoán đặc biệt. Theo quy định của pháp luật nước ta, đây là loại “chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đối với phần vốn góp của quỹ đại chúng”.
Ngoài ba loại chứng khoán chủ yếu trên còn có các loại chứng khoán phái sinh. Đây là loại chứng khoán phát sinh từ hoạt động giao dịch chứng khoán và được chuyển đổi sang chứng khoán thông qua hành vi giao dịch trên thị trường. Hiện nay có ba loại chứng khoán phái sinh phổ biến là chứng quyền, bảo chứng phiếu, hợp đồng quyền lựa chọn. Tại Việt Nam, theo Luật Chứng Khoán 2006 có một số loại chứng khoán phái sinh như: chứng quyền, quyền mua cổ phần, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.
2. Chào bán chứng khoán
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán được hiểu là việc đưa chứng khoán vào giao dịch tại thị trường chứng khoán sơ cấp. Tại đây vốn của nhà đầu tư sẽ được chuyển giao cho tổ chức chào bán thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán. Phải nói rằng chỉ có hoạt động chào bán mới làm tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Hơn thế, thông qua hoạt động chào bán, tổ chức chào bán mới có thể thành lập, tăng vốn điều lệ phục vụ nhu cầu kinh doanh hoặc bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán
a. Xét theo cách thức phân phối chứng khoán, có bốn phương thức chào bán chứng khoán:
Thứ nhất, phương thức bán trực tiếp. Theo phương thức này, tổ chức chào bán chứng khoán đến tay nhà đầu tư.
Thứ hai, phương thức bán thông qua đại lý. Theo đó, các tổ chức trung gian- bên nhận đại lý- sẽ ký kết hợp đồng với tổ chức chào bán để bán chứng khoán của họ trên thị trường sơ cấp.
Thứ ba, phương thức bán thông qua đấu thầu. Theo đó, có một hoặc một số nhà thầu được lựa chọn, cam kết sẽ phân phối hết số chứng khoán với điều kiện nhà thầu được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định theo kết quả của đợt chào bán.
Thứ tư, phương thức bảo lãnh phát hành. Theo phương thức này có một hoặc một số tổ chức bảo lãnh sẽ đứng ra giúp tổ chức chào bán thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán. Sau đó tổ chức bảo lãnh nhận mua số chứng khoán để bán lại hoặc nhận mua số chứng khoán còn lại sau đợt phát hành.
b. Xét theo điều kiện được chào bán trên thị trường sơ cấp, có hai phương thức phát hành:
Thứ nhất, chào bán riêng lẻ. Chào bán riêng lẻ là phương thức chào bán chứng khoán trong đó chỉ một số lượng nhà đầu tư nhất định được mua với những điều kiện hạn chế, không tiến hành rộng rãi ra công chúng và tổ chức chào bán không phải công khai thông tin.
Thứ hai, chào bán chứng khoán ra công chúng. Đây là hình thức chào bán chứng khoán rộng rãi đến đại bộ phận công chúng đầu tư.
II. Pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Để tăng quy mô vốn cho các hoạt động tín dụng và các dịch vụ tài chính khác, tổ chức tín dụng có thể chào bán trái phiếu. Trước đây, theo Quyết định 212/1994/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/9/1994 về việc ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, ngân hàng đầu tư và phát triển thì chỉ có các NHTM, ngân hàng đầu tư được phát hành trái phiếu với những điều kiện phát hành, trình tự thủ tục chặt chẽ. Quy định này đã hạn chế việc tăng vốn của các tổ chức tín dụng.
Ngày 22/11/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng huy động vốn trong nước. Trong số các giấy tờ có giá, trái phiếu là loại chứng khoán mà tổ chức tín dụng được phát hành để huy động vốn. Nghị định 52/2006/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 19/5/2006, chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ bổ sung vốn tự có của các tổ chức tín dụng nhà nước. Những tổ chức tín dụng khác khi chào bán trái phiếu riêng lẻ tuân theo quy định của pháp luật ngân hàng và văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
1. Đối tượng phát hành
Đối tượng được phát hành trái phiếu hiện nay bao gồm tất cả các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Thực tế hiện nay, các trái phiếu ngân hàng được chào bán trên thị trường phần lớn là những trái phiếu của các NHTM. Hoạt động chào bán trái phiếu vẫn chưa là một hoạt động thường xuyên trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của các ngân hàng khá lớn. Vì vậy, trong tương lai cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này, góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của ngân hàng, làm phong phú hàng hoá trên TTCK.
2. Phương thức phát hành
Theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN, tổ chức tín dụng được phát hành trái phiếu thông qua các hình thức đại lý phát hành, ủy thác phát hành hoặc phát hành trực tiếp. Thời hạn của một đợt chào bán trái phiếu thường không quá 60 ngày, quá thời hạn trên phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Các tổ chức tín dụng là những chủ thể có trình độ chuyên môn, mạng lưới phân phối rộng, khả năng tài chính mạnh và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, pháp luật cho phép các tổ chức tín dụng tự chào bán trái phiếu hoặc thông qua đại lý.
3. Điều kiện phát hành
Điều 12 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN quy định điều kiện phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng: tuân thủ các điều kiện về hạn chế bảo đảm an toàn trong hoạt động như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ về khả năng chi trả, giới hạn góp vốn, mua cổ phần... và có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân hàng.
Tổ chức tín dụng không phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu là 50 tỷ đồng theo Quyết định 212/1994/QĐ-NHNN trước đây. Quy định trên chỉ yêu cầu các tổ chức tín dụng khi chào bán phải tuân thủ các điều kiện hạn chế bảo đảm an toàn theo Luật các tổ chức tín dụng và có tình hình tài chính lành mạnh. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng huy động vốn.
4. Trình tự, thủ tục chào bán
Tổ chức tín dụng lập hồ sơ đề nghị phát hành gửi Ngân hàng Trung ương hoặc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính. Hồ sơ bao gồm những giấy tờ cần thiết liên quan đến đợt phát hành, phương án phát hành, phương án sử dụng vốn và được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Ngân hàng Nhà nước xem xét, sau 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các tỉnh, thành phố sẽ ra quyết định về việc phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng.
Như vậy, quy định về hoạt động chào bán trái phiếu của tổ chức tín dụng khá đầy đủ và chi tiết. Đối với hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước, phương án phát hành phải có ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính (Khoản 3 Điều 46 Nghị định 52/2006/NĐ-CP).
III. Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng
Thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động chào bán chứng khoán đa dạng và phức tạp. Có nhiều văn bản khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động này nhưng hiệu lực pháp lý không cao, phần lớn là văn bản dưới luật. Nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý nhưng chưa có cơ quan quản lý chung ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
Hơn nữa, trong mỗi văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán của các doanh nghiệp tồn tại nhiều bất cập cần được sửa đổi, bổ sung. Chẳng hạn, có sự mâu thuẫn trong việc quy định điều kiện chào bán trái phiếu của công ty cổ phần giữa Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 52/2006/NĐ-CP, những bất cập về phương thức tổ chức bán cổ phần lần đầu, cơ quan quyết định CPH và xác định giá trị doanh nghiệp, quy định về nhà đầu tư chiến lược... trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP, quy định về đối tượng chưa được xem xét chuyển đổi trong Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC, quy định về phương thức chuyển đổi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần trong Nghị định 38/2003/NĐ-CP...
III. Một số đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng
1. Bổ sung, sửa đổi một số quy định hiện hành về chào bán chứng khoán ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006
Luật chứng khoán không quy định về phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng. Có thể nói, việc quy định phương thức chào bán chứng khoán là rất cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định của thị trường và giảm chi phí cho các nhà phát hành. Sự thành bại của một đợt phát hành rất quan trọng. Chính vì vậy, để đảm bảo sự thành công của đợt chào bán đòi hỏi tổ chức chào bán phải lựa chọn một phương thức phát hành tối ưu nhất. Trong các phương thức phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành được xem là phương thức hiện đại và an toàn hơn cả. Phương thức này có thể sử dụng cho việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trên thế giới, bảo lãnh phát hành đã được sử dụng từ rất lâu. Tại Việt Nam, phương thức này đã được quy định tại Nghị định 48/1998 ngày 11 tháng 7 năm 1998, sau đó là Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật chứng khoán 2006 lại không có quy định này. Vì vậy, trong thời gian tới, cần bổ sung những quy định về phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng. Đồng thời, cũng cần có thêm những quy định cụ thể về điều kiện thành lập tổ chức bảo lãnh phát hành, cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến việc thành lập và giải thể nó. Có như vậy, các tổ chức chào bán chứng khoán có thể yên tâm phát hành chứng khoán với số lượng lớn, các nhà đầu tư cũng có cơ sở để đặt niềm tin vào các dự án đầu tư chứng khoán của mình. Bên cạnh phương thức bảo lãnh phát hành, cần quy định thêm một số phương thức phát hành chứng khoán như đại lý phát hành hay đấu thầu để các tổ chức chào bán có cơ hội chọn lựa phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng phù hợp với điều kiện của mình nhất.
Về hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng. Hiện nay hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng vẫn còn khá cầu kỳ. Đặc biệt là yêu cầu báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận. Hiện nay pháp luật chưa quy định về tiêu chuẩn đối với tổ chức kiểm toán thực hiện kiểm toán, chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để đánh giá nội dung hoạt động kiểm toán của tổ chức đó như khi tổ chức kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp thì những tiêu chí bắt buộc nào phải có để doanh nghiệp được xem là có đủ điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy, Luật chứng khoán cần cân nhắc về vấn đề này. Bên cạnh đó, Luật cũng cần có những quy định để gắn trách nhiệm của tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên đối với kết quả hoạt động kiểm toán trong báo cáo tài chính của chủ thể chào bán. Nếu một tổ chức kiểm toán hoặc kiểm toán đưa ra những thông tin sai lệch trong báo cáo tài chính, thì các nhà đầu tư phải gánh chịu những thiệt hại rất lớn. Mặt khác, những điều kiện của tổ chức kiểm toán hiện nay là quá khắt khe. Điều này sẽ dẫn đến một tất yếu là sự độc quyền của các tổ chức kiểm toán và chi phí kiểm toán vượt quá sức của tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng mới lần đầu bước vào thị trường chứng khoán. Vì vậy pháp luật cần nới lỏng các điều kiện của tổ chức kiểm toán, thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng.
2. Ban hành điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ thống nhất cho các tổ chức tín dụng
So với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của những chủ thể khác, pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các tổ chức tín dụng tương đối hoàn chỉnh. Pháp luật quy định cụ thể, giám sát chặt chẽ từ điều kiện, thủ tục phương thức đến chào bán. Tuy nhiên, trong các quy định của pháp luật có sự phân biệt về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ giữa tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước và tổ chức tín dụng thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghị định 52/2006/NĐ- CP thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng nhà nước tăng vốn tự có. Trong khi đó, những tổ chức tín dụng khác phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ hơn theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Vì vậy, cần xoá bỏ sự phân biệt này, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng khác được chào bán trái phiếu riêng lẻ theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP.
Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức hiện nay theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN là đại lý phát hành và bán trực tiếp. Tuy nhiên, có thể bổ sung một số phương thức khác như bảo lãnh phát hành. Với vai trò của các tổ chức bảo lãnh, rủi ro của đợt chào bán được hạn chế hơn.
Quy định cụ thể hơn về cầm cố trái phiếu, cổ phiếu để cho vay của ngân hàng, điều kiện, tỷ lệ cho vay, hình thức cho vay. Những quy định về công bố thông tin như danh sách các ngân hàng được chấp nhận tăng vốn điều lệ để tránh hiện tượng sai lệch thông tin khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu ngân hàng.
C. KẾT LUẬN
Pháp luật về chào bán chứng khoán là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp, Chính phủ và chính quyền địa phương chào bán chứng khoán để huy động vốn vì vậy việc xây dựng cũng như hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động này thực sự là một đòi hỏi cấp thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay, Nhà nước đẩy mạnh phát triển kinh tế cùng với các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, việc xây dựng một thị trường vốn ổn định và có hiệu quả là một vấn đề đặc biệt quan trọng bởi vì đó chính là biểu hiện sức sống của nền kinh tế đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung 2010
Giáo trình Luật chứng khoán
Luật các tổ chức tín dụng 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ chứng khoán- pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng.doc