1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Bố cục đề tài 8
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ 9
1.1 Khái niệm chứng khoán, khái niệm chào bán chứng khoán và chào bán chứng khoán riêng lẻ 9
ã Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán 9
1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán 9
1.1.1.2. Đặc điểm chứng khoán 11
1.1.1.3. Phân loại chứng khoán 13
1.1.2. Khái niệm chào bán chứng khoán và phương thức chào bán chứng khoán 14
1.1.2.1. Khái niệm chào bán chứng khoán 14
1.1.2.2. Phương thức chào bán chứng khoán 15
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay 20
1.2. Các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 21
1.2.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 21
1.2.2. Những quy định của pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ 23
1.2.3. Những quy định của pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ 31
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 33
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 37
2.1. Thực trạng về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay 37
2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ 37
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ 52
2.1.2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp 52
2.1.2.2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng 59
2.1.2.3. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nhà nước 61
2.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ 63
2.2.1. Giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ 63
2.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật 63
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 66
2.2.2. Một số biện pháp khác 67
2.2.2.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về TTCK 68
2.2.2.2. Xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán chào bán riêng lẻ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, bất kì quốc gia có nền kinh tế phát triển nào cũng có 2 kênh huy động vốn quan trọng: kênh huy động vốn gián tiếp thông qua hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc tín dụng và kênh huy động vốn trực tiếp thông qua TTCK theo nguyên tắc đầu tư. Hiện nay chúng ta không thể phủ nhận vai trò của TTCK đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. TTCK phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị trường. Người ta ví TTCK như chiếc nhiệt kế đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của TTCK. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu[37, tr.1]. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính, tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính trong đó có TTCK là hết sức cần thiết.
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000, TTCK Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc, nhằm khẳng định vai trò là công cụ hiệu quả để huy động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Việc huy động vốn qua TTCK được thực hiện thông qua hoạt động chào bán chứng khoán dưới 2 hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Chào bán chứng khoán là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động diễn ra trên TTCK. Bởi nó không chỉ góp phần huy động vốn, tăng vốn cho DN mà còn tạo ra hàng hóa cho TTCK, quyết định sự tồn tại của TTCK. Riêng đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ với các quy định về điều kiện thủ tục chào bán dễ dàng, đối tượng chào bán rộng đang là phương thức huy động vốn hữu hiệu của các DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Ở nước ta, với nền kinh tế có hơn 2/3 DN vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được điều kiện để niêm yết trên sàn giao dịch, thì đây là cách huy động vốn hiệu quả nhất. Đồng thời, việc tiến hành chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ góp phần giúp các DN đổi mới hình thức quản lý, quản trị DN, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, nếu hoạt động chào bán này không được quản lý tốt bằng pháp luật sẻ có tác động xấu, gây khủng hoảng cho TTCK, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật chứng khoán đang trong quá trình hoàn thiện. Hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn chưa thực sự được quan tâm và giám sát đúng mức. Điều này đã gây ra nhiều bất ổn cho TTCK trong thời gian qua cả về mặt lý luận và thực tiễn như: các vụ việc xâm phạm quyền lợi của các cổ đông hiện hữu khi chào bán chứng khoán riêng lẻ hay các văn bản pháp luật ban hành không rõ ràng khiến cho các DN cũng như cơ quan áp dụng pháp luật lúng túng trong quá trình thực hiện. Điều này đã làm chậm tiến độ huy động vốn của các DN, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hay sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của DN diễn ra đúng pháp luật, TTCK vận hành an toàn. Vấn đề nghiên cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần thiết. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam”.
81 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5676 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng/CP. Tại thời điểm Hội đồng quản trị HUT có nghị quyết về vấn đề này ngày 16/4/2010, cổ phiếu HUT đang giao dịch ở mức giá 56.300 đồng/CP, tương đương 34.300 đồng/CP sau khi cổ đông hiện hữu hưởng quyền mua theo tỷ lệ 1:1, với giá 10.000 đồng/CP. Đầu tháng 8, HUT đấu giá thành công 4,1 triệu cổ phần, với giá 22.307 đồng/CP. [5, tr.3]
Ở nhiều công ty, kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ hiện nay được chia làm nhiều phần. Riêng phần phát hành cổ phiếu cho đối tác chiến lược thường lấy giá đấu bình quân ra công chúng hoặc giá giao dịch bình quân tại ngày chốt danh sách có chiết khấu để xác định giá bán. Việc ấn định giá bán chỉ bằng một nửa so với giá thị trường, với lượng lớn cổ phiếu cho cổ đông chiến lược như PVA hay HUT, mà trong các văn bản công bố công khai không đưa ra những lý do thuyết phục, không khỏi khiến các cổ đông bên ngoài nghi ngờ về tính khách quan của việc lựa chọn cổ đông chiến lược. Trong khi đó, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán và các văn bản có liên quan như Nghị định 01 lại không quy định cơ sở cho mức giá phát hành. Vì vậy, việc Hội đồng quản trị đưa ra giá chào bán thấp cho đối tác chiến lược là rất dễ xảy ra. Ngoài ra, luật cũng không đưa ra tiêu chí xác định đối tác chiến lược, mà việc xác định này giao cho Hội đồng quản trị. Hai yếu tố này kết hợp với nhau dễ dẫn đến sự khuất tất. Đặc biệt khi nhà nước đang trong quá trình hình thành cơ chế giám sát hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Phương pháp hữu hiệu hiện nay là các cổ đông cần tự bảo vệ lấy mình, trong khi chờ cơ chế giám sát mới của nhà nước.Theo đó, cổ đông cần giám sát việc thông qua Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Nếu Hội đồng quản trị ra các quyết định gây thiệt hại cho cổ đông một cách trái luật thì cổ đông có thể khởi kiện ra tòa theo các quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn.
- Hồ sơ, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ
“Thủ tục và trình tự chào bán cổ phần thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán” (khoản 4 Điều 61 Luật doanh nghiệp 1999). Với quy định này công ty không thể chào bán cổ phần riêng lẻ. Bởi vì, pháp luật về chứng khoán chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Khoản 6 Điều 87 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã phân biệt thủ tục chào bán cho mỗi phương thức chào bán: điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Chính phủ sẽ quy định hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ. Quy định này hợp lý và rõ ràng. Nếu công ty chào bán cổ phần ra công chúng thì điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán tuân theo những quy định của pháp luật về chứng khoán. Nếu công ty chào bán cổ phần riêng lẻ trước hết sẽ tuân theo quy định của Luật doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn của Chính phủ. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 102/2010/NĐ – CP hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2005 quy định: trình tự, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ thực hiện theo quy định có liên quan của pháp luật về chứng khoán. Trong khi đó, theo Nghị định 01 lại quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ phải được niêm yết tại cơ quan có thẩm quyền, nhưng lại không có hướng dẫn nào về trình tự thủ tục này. Chính vì vậy, thực tế là khi các DN đến nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ các cơ quan này từ chối tiếp nhận hồ sơ với lý do chờ hướng dẫn cụ thể của Chính phủ. Như trường hợp của sở kế hoạch và đầu tư là cơ quan quản lý chào bán chứng khoán riêng lẻ đối với các công ty cổ phần không phải là tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty cổ phần chứng khoán, công ty cổ phần quản lý quỹ, công ty đại chúng. Tuy nhiên do chưa có hướng dẫn nào về chức năng mới do Nghị định 01 mang lại, vì vậy các sở kế hoạch chỉ tiếp nhận hồ sơ đăng ký tăng vốn điều lệ thông thường, từ chối nhận hồ sơ chào bán chứng khoán riêng lẻ. Điều này đã khiến cho các DN hết sức bức xúc và làm mất đi nhiều cơ hội làm ăn do thiếu vốn. Sau khi Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung được thông qua và chính thức có hiệu lực vào tháng 7/2011 tới đây. Thì hồ sơ, thủ tục chào bán chứng khoán của các công ty cổ phần là công ty đại chúng do Luật chứng khoán điều chỉnh, còn công ty cổ phần chưa phải là công ty đại chúng do Luật doanh nghiệp điều chỉnh. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 10a Luật chứng khoán sửa đổi và khoản 6 Điều 87 Luật doanh nghiệp thì hồ sơ, thủ tục sẽ do Chính phủ ban hành hướng dẫn sau. Như vậy, vấn đề hồ sơ thủ tục vẫn chưa được giải quyết trong các văn bản này và vẫn phải chờ hướng dẫn từ Chính phủ. Trong khi đó, đến thời điểm này, khi Luật chứng khoán sửa đổi sắp có hiệu lực thì vẫn chưa có bất kì một động tĩnh nào từ phía Chính phủ cho sự ra đời của văn bản hướng dẫn. Như tiền lệ trước đây, các văn bản hướng dẫn thường ra đời rất muộn so với luật. Thường luật được ban hành và hiệu lực hàng rồi nhưng phải đến một năm sau nghị định hướng dẫn mới được ban hành. Các DN vẫn đang hy vọng tiền lệ xấu này sẽ không lặp lại, nhất là đối với trường hợp này. Vì chừng nào chưa có hướng dẫn thì chế định chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn không thể thực hiện được mặc cho điều kiện chào bán có dễ dàng tới đâu.
Qua đây, ta thấy một thực trạng chung là vấn đề hồ sơ, thủ tục chào bán đến nay vẫn chưa được giải quyết. Trong khi hàng ngàn DN đang “tắc” trong quá trình phát hành chứng khoán riêng lẻ, đặc biệt là các công ty chưa phải là công ty đại chúng. Các cơ quan áp dụng thì vẫn phải từ chối hồ sơ của DN và nghe những lời phàn nàn từ phía DN. Nhiều cơ quan gửi đơn lên cơ quan cấp trên để xin hướng dẫn, như trường hợp sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi công văn lên Bộ kế hoạch đầu tư. Tuy nhiên, câu trả lời vẫn là chờ hướng dẫn của Chính phủ, một số cơ quan đang cố vận dụng các quy định pháp luật tương tự nhằm giải quyết. Nhưng tất cả chỉ là giải pháp tạm thời, vấn đề hiện nay vẫn là Chính phủ cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn. Có như vậy, mới nhanh chóng khai thông thế bế tắc.
Tóm lại, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của loại hình công ty cổ phần cho đến hiện nay vẫn đang còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Từ điều kiện chào bán chứng khoán cho đến hồ sơ thủ tục chào bán tất cả đều chưa được hoàn thiện. Riêng trường hợp công ty cổ phần chưa phải là công ty đại chúng thì cho đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn hay một quy định nào về điều kiện, hồ sơ, thủ tục chào bán. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ khiến cho hàng ngàn DN đang bị gặp khó khăn trong huy động vốn và đánh mất cơ hội làm ăn chỉ vì thiếu vốn. Hy vọng thời gian tới, khi Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung có hiệu lực sẽ khai thông mọi bế tắc.
* Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần
Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp 2005 đều quy định công ty TNHH có thể chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Theo Điều 154 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thẩm quyền quyết định việc chuyển đổi công ty là Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ, trụ sở của công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi, tên, địa chỉ của công ty được chuyển đổi, thời hạn và điều kiện chuyển đổi, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, cổ phần, cổ phiếu của công ty chuyển đổi. Như vậy, khi chuyển đổi từ công ty TNHH sang công ty cổ phần có hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ.
Mặc dù, Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo cơ sở, tiền đề cho việc chuyển đổi của các công ty TNHH. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp lại không quy định về điều kiện, phương thức cũng như thủ tục chào bán để chuyển đổi các DN trên. Hiện nay, Nghị định 01 là văn bản duy nhất hiện nay điều chỉnh về điều kiện và hồ sơ chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên, sự ra đời của Nghị định 01 đã khiến cho hàng loạt công ty TNHH không thể chuyển đổi thông qua chào bán chứng khoán riêng lẻ được. Mặc dù hiện nay Luật chứng khoán mới đã quy định lại, theo đó hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty TNHH khi chuyển đổi thành công ty cổ phần được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp. Trong khi đó Luật doanh nghiệp và Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp lại chưa có hướng dẫn về điều kiện và thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ mà chỉ nói là chờ hướng dẫn của Chính phủ. Trong khi Chính phủ còn “im hơi lặng tiếng” thì hàng ngàn DN vẫn còn phải “sống giở, chết giở” với Nghị định 01.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ
Trái phiếu công ty là hình thức thông dụng nhất của chứng khoán nợ công ty. Về thực chất, trái phiếu công ty được xem như là một chứng chỉ ghi nhận sự cam kết của công ty về việc sẽ thanh toán số tiền mà nhà đầu tư đã cho công ty vay vào một ngày xác định. Để sử dụng được số tiền mà nhà đầu tư đã cho vay, công ty phải trả cho người cầm giữ trái phiếu một số “lãi” nhất định hàng năm. “Lãi” này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với số tiền mà người đầu tư cho công ty vay. Vì người cầm giữ trái phiếu không phải là chủ sở hữu công ty nên họ không được chia cổ tức hay không có quyền bầu cử cũng như tham gia vào các vấn đề khác của công ty. Lưu ý rằng, các công ty muốn bán trái phiếu ra công chúng phải được sự đồng ý của Uỷ ban Chứng khoán, trong đó có một bản cáo bạch bao gồm các thông tin về công ty và những vấn đề liên quan đến việc phát hành trái phiếu.
2.1.2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp
Nếu như hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ là kênh huy động chỉ được áp dụng cho các công ty cổ phần thì hoạt động chào bán trái phiếu lại là kênh huy động vốn cho tất cả các DN như: công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoặc trong trường hợp phát hành trái phiếu bổ sung vốn tự có của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu của DN được Chính phủ bảo lãnh. Với phạm vi chủ thể phát hành mở rộng như vậy thì đây là kênh huy động vốn hữu hiệu và thực tế trong thời gian qua thị trường này khá sôi động.
Vào năm 1994, một số DNNN thuộc ngành điện, xi măng đã được Bộ Tài chính cho phép phát hành trái phiếu DNNN. Và cũng kể từ đây các DN bắt đầu làm quen với phương thức huy động vốn mới nhưng chủ yếu trong phạm vi hẹp và chưa phổ biến. Nhiều DN không đáp ứng yêu cầu vay vốn qua ngân hàng đã tìm được phương thức huy động vốn linh hoạt và chủ động hơn. Hoạt động này khi đó chịu sự điều chỉnh của Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 18/9/1994 của Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DNNN. Nhưng Nghị định này tồn tại nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế. Ví dụ như quy định về phương thức phát hành trực tiếp tại DN, chủ thể phát hành này chỉ giới hạn cho những DNNN...
Trong khi đó, có nhiều DN có nhu cầu phát hành trái phiếu để huy động vốn vay nhằm mở rộng hoạt động sản xuất, nhưng kết quả của các đợt phát hành chưa cao và chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn tiên tiến cho DN. Ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý chung cho các DN phát hành trái phiếu riêng lẻ để tăng vốn.
* Đối tượng chào bán trái phiếu riêng lẻ
Theo Điều 1 Nghị định 52/2006/NĐ- CP ngày 19/05/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Các công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hoạt động phát hành trái phiếu bổ sung vốn tự có của tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước là những chủ thể được phát hành trái phiếu riêng lẻ để huy động vốn. Đối tượng phát hành trái phiếu theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP mở rộng hơn, không có sự phân biệt giữa DNNN và những doanh nghiệp khác như Nghị định 120/1994/NĐ-CP trước đây.
* Đối tượng mua trái phiếu doanh nghiệp
Các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua trái phiếu doanh nghiệp với số lượng không hạn chế. Quy định này thể hiện sự thống nhất với Quyết định 238/2005/QĐ-TTg và hiện nay là Quyết định 55/2009/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ là không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu đang lưu hành của tổ chức chào bán. Trái phiếu là loại chứng khoán nợ, người sở hữu trái phiếu không được quyền tham gia bộ máy quản lý DN. Việc sở hữu trái phiếu không ảnh hưởng cơ cấu tổ chức, quyền quản trị DN. Do đó, pháp luật không hạn chế việc sở hữu trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài.
* Điều kiện chào bán trái phiếu
Điều kiện để DN chào bán trái phiếu riêng lẻ hiện nay thuận lợi hơn so với quy định của Nghị định 120/1994/NĐ-CP và điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau: thuộc loại hình công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoặc trong trường hợp phát hành trái phiếu bổ sung của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu của DN được Chính phủ bảo lãnh. Ngoài ra, DN cần có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày DN chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi và có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua.
Nghị định 52/2006/NĐ-CP không yêu cầu DN phải đạt một tỷ lệ vốn tối thiểu để tham gia chào bán trái phiếu riêng lẻ. Trong khi đó, khoản 2 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 quy định DN phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán được chào bán trái phiếu ra công chúng.
Nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh nhận định điều kiện chào bán trái phiếu theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP thuận lợi cho họ tận dụng giải pháp này để tăng vốn vay. Năm 2006, tổng khối lượng trái phiếu phát hành là 66.377 tỷ đồng, trong đó trái phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 8.060 tỷ đồng, trái phiếu Chính phủ vẫn chiếm tỷ lệ cao 55.817 tỷ đồng, còn lại là trái phiếu chính quyền địa phương. Đến năm 2008 lác đác 2 - 3 DN phát hành trái phiếu thì năm 2009 đã có 15 đợt các DN phát hành trái phiếu với tổng giá trị xấp xỉ 20.000 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần. Năm 2009 được coi là năm bùng nổ và thành công của trái phiếu doanh nghiệp về khối lượng. Đáng kể nhất trong năm 2009 về phát hành trái phiếu thành công là EVN, Vinacomin và Vinasteel... Bên cạnh đó các DN như KCB cũng được đánh giá là đã thắng lớn với 4 lần phát hành đạt tổng giá trị 1.600 tỷ đồng. Vincom đã phát hành thành công trái phiếu chuyển đổi quốc tế mệnh giá 1 tỷ đồng/ trái phiếu với tổng trị giá lên đến 100 triệu USD trên thị trường Singapore [31, tr.2,5]. Sự kiện Vincom phát hành trái phiếu còn khiến dư luận và giới chuyên môn kết luận là các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Qua đây cho thấy, các quy định về điều kiện phát hành trái phiếu trong khung pháp lý đã 'mở' hết sức thoáng. Song dù đã linh động với sản phẩm mới này nhưng thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế và không phải bất cứ DN nào cũng làm được. Điều này thể hiện hơn 1 năm qua, chỉ có chưa đến 10 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp thành công. Rất nhiều DN dù muốn vẫn chưa thể tiếp cận được với hình thức này. Những DN phát hành thành công từ trước đến nay đều là các công ty quy mô tương đối lớn và lớn như: EVN, Vinacomin, Vinaconex, Tổng công ty Sông Đà... Những DN đã từng phát hành trái phiếu chuyển đổi cũng có quy mô lớn như: ACB, VCB... Nói cách khác, thị trường trái phiếu DN hầu như vắng bóng các DN nhỏ trong khi đây là các đối tượng rất khát vốn và chiếm số lượng lớn (500.000 DN vào năm 2010). Đây là thực tế đã tồn tại từ vài năm nay và hiện vẫn chưa có nhiều cải thiện [31, tr.2,5].
Thêm vào đó, điều kiện chào bán trái phiếu của công ty cổ phần có một số điểm cần lưu ý. Khoản 2 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 quy định công ty phần không được quyền phát hành trái phiếu trong hai trường hợp sau:
1. Không thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đã phát hành hoặc không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp;
2. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
Công ty cổ phần là loại hình DN thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005. Nghị định 52/2006/NĐ-CP là văn bản điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần. Do đó, công ty cổ phần phải tuân thủ những điều kiện phát hành theo Điều 17 Nghị định 52/2006/NĐ-CP và Luật doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, hai văn bản này lại có sự quy định không thống nhất với nhau về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần.
Đây là một khó khăn trong việc xác định điều kiện phát hành trái phiếu của công ty cổ phần. Điều kiện theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP có tính khả thi và thuận lợi hơn cho công ty cổ phần chào bán trái phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, cũng không thể bỏ qua quy định của Luật doanh nghiệp. Bởi đây là văn bản điều chỉnh tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần, có hiệu lực pháp lý cao.
* Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ
Tại chương IV Nghị định 52/2006/NĐ-CP quy định ba phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ, đó là bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành và đấu thầu trái phiếu. Đây là những phương thức phát hành qua trung gian. Hình thức bán trực tiếp tại DN theo Nghị định 120/1994/NĐ-CP đã bị xoá bỏ. Nghị định 52/2006/NĐ-CP không quy định mức phí hoa hồng đại lý, bảo lãnh phát hành tối đa là 0,25% tổng giá trị trái phiếu phát hành như trước đây. Giá trị mỗi đơn vị vốn huy động được cao hay thấp do DN quyết định từ việc đưa ra mức lãi suất và chi phí trung gian. Mức phí này được hạch toán vào chi phí phát hành, chi phí kinh doanh hoặc giá trị của dự án, công trình.
Tổ chức nhận bảo lãnh, đại lý hay tổ chức nhận uỷ quyền tổ chức đấu thầu trái phiếu phải là những công ty chứng khoán hay những định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật. Đây là quy định thể hiện sự chặt chẽ của pháp luật nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính và bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Các tổ chức này là những chủ thể có tiềm lực tài chính, trình độ chuyên môn sẽ bảo đảm thành công cho đợt chào bán.
* Các quy định về trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu được phát hành dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bằng đồng Việt Nam với mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng. Lãi suất trái phiếu có thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi trên thị trường. Trái phiếu được tự do chuyển nhượng, tặng cho, để lại thừa kế, hoặc sử dụng để chiết khấu, thế chấp, cầm cố trong quan hệ tín dụng nhưng không được thay thế tiền trong lưu thông.
Nghị định 52/2006/NĐ-CP quy định rõ ràng về các loại trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu không chuyển đổi. Chỉ công ty cổ phần mới có quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi trong đó ghi rõ thời hạn, tỷ lệ chuyển đổi tại thời điểm phát hành. Quy định này phù hợp với Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Thực tế phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy vẫn còn sự bao cấp, việc huy động vốn nợ của DN chủ yếu vẫn thực hiện thông qua kênh chính là TPCP. Quy trình này vừa phức tạp lại tốn kém cả về thời gian, chi phí, trong khi nhiều DN lớn, có uy tín có thể tự mình huy động vốn từ nguồn này. Ngoài ra, lãi suất của trái phiếu Chính phủ còn tương đối cao cũng làm chi phí vốn của DN phát hành cao và gây khó khăn cho DN để phát hành thành công bởi lãi suất trái phiếu DN thường dựa trên lãi suất trái phiếu Chính phủ cộng với một tỷ lệ lãi suất lề để thu hút nhà đầu tư (vì độ rủi ro của trái phiếu DN lớn hơn còn độ rủi ro của trái phiếu Chính phủ rất thấp, thậm chí bằng 0).
Đó là chưa kể đến quy định về lãi suất trái phiếu vẫn còn có sự chưa phù hợp, chưa hoàn toàn được xác định bởi thị trường, làm ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn, nhất là khi thị trường có biến động. Cụ thể, theo quy định tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP, lãi suất phát hành đối với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính tại thời điểm phát hành; trường hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu. Đây là một phần lý do dẫn tới nhiều đợt phát hành trái phiếu Chính phủ thời gian qua không thành công (từ tháng 3 đến tháng 10/2008 có liên tục gần 30 đợt phát hành trái phiếu chính phủ không thành công) [31, tr.2,5], nói cách khác trái phiếu Chính phủ chưa trở thành nguồn cung ổn định, dẫn đến việc thị trường thiếu mức chuẩn lãi suất để làm cơ sở định giá các công cụ tài chính khác. Bên cạnh đó, theo Luật Thuế thu nhập cá nhân, thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm, thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ không bị đánh thuế, nhưng đối với thu nhập từ chuyển nhượng trái phiếu khác thì phải chịu 20% trên chênh lệch giữa giá bán và giá mua hoặc 0,1% trên giá trị bán. Như vậy, vô hình chung, chính sách thuế thu nhập chứng khoán đã đánh đồng trái phiếu như cổ phiếu, trong khi thu nhập từ trái phiếu luôn mang tính ổn định và thấp hơn so với thu nhập từ cổ phiếu, do đó không khuyến khích các nhà đầu tư chọn mua trái phiếu doanh nghiệp.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, sở dĩ hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp chưa thực sự như mong đợi là do những nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, xuất phát từ thuộc tính của trái phiếu như tính thanh khoản kém, yếu tố rủi ro thanh toán cao hơn so với trái phiếu Chính phủ.
- Thứ hai, xuất phát từ bản thân doanh nghiệp. Cụ thể là uy tín của doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá là chưa cải thiện nhiều, chưa tạo được độ tin cậy cho các nhà đầu tư. Trong khi đó, các tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp lại chưa có nhiều. Trung tâm Thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng nhà nước cũng đã thực hiện nghiệp vụ xếp hạng tín dụng DN và xếp hạng tín dụng DN trên TTCK. Tuy nhiên, những xếp hạng này cũng chỉ có tính chất tạm thời. Đây là lý do vì sao mà chỉ các DN lớn mới phát hành thành công. Ngoài ra, một số DN dù muốn phát hành nhưng còn e ngại chuyện minh bạch.
- Thứ ba, về phía nhà đầu tư, hiện nay các nhà đầu tư mới chỉ quan tâm tới các kênh đầu tư phổ biến như gửi tiết kiệm, kênh cổ phiếu, kênh vàng, ngoại tệ mà chưa quan tâm tới trái phiếu doanh nghiệp, bởi lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp chưa đủ hấp dẫn.
- Thứ tư, về phía Nhà nước còn nhiều chính sách và quy định bất cập.
2.1.2.2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là DN được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Để tăng quy mô vốn cho các hoạt động tín dụng và các dịch vụ tài chính khác, tổ chức tín dụng có thể chào bán trái phiếu. Trước đây, theo Quyết định 212/1994/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/9/1994 về việc ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, ngân hàng đầu tư và phát triển thì chỉ có các NHTM, ngân hàng đầu tư được phát hành trái phiếu với những điều kiện phát hành, trình tự thủ tục chặt chẽ. Quy định này đã hạn chế việc tăng vốn của các tổ chức tín dụng.
Ngày 22/11/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng huy động vốn trong nước. Trong số các giấy tờ có giá, trái phiếu là loại chứng khoán mà tổ chức tín dụng được phát hành để huy động vốn. Nghị định 52/2006/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 19/5/2006, chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ bổ sung vốn tự có của các tổ chức tín dụng nhà nước. Những tổ chức tín dụng khác khi chào bán trái phiếu riêng lẻ tuân theo quy định của pháp luật ngân hàng và văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
* Đối tượng phát hành trái phiếu
Đối tượng được phát hành trái phiếu hiện nay bao gồm tất cả các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Thực tế hiện nay, các trái phiếu ngân hàng được chào bán trên thị trường phần lớn là những trái phiếu của các NHTM. Hoạt động chào bán trái phiếu vẫn chưa là một hoạt động thường xuyên trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của các ngân hàng khá lớn. Vì vậy, trong tương lai cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này, góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của ngân hàng, làm phong phú hàng hoá trên TTCK.
* Phương thức phát hành
Theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN, tổ chức tín dụng được phát hành trái phiếu thông qua các hình thức đại lý phát hành, ủy thác phát hành hoặc phát hành trực tiếp. Thời hạn của một đợt chào bán trái phiếu thường không quá 60 ngày, quá thời hạn trên phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Các tổ chức tín dụng là những chủ thể có trình độ chuyên môn, mạng lưới phân phối rộng, khả năng tài chính mạnh và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, pháp luật cho phép các tổ chức tín dụng tự chào bán trái phiếu hoặc thông qua đại lý.
* Điều kiện phát hành trái phiếu
Điều 12 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN quy định điều kiện phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng: tuân thủ các điều kiện về hạn chế bảo đảm an toàn trong hoạt động như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ về khả năng chi trả, giới hạn góp vốn, mua cổ phần... và có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân hàng.
Tổ chức tín dụng không phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu là 50 tỷ đồng theo Quyết định 212/1994/QĐ-NHNN trước đây. Quy định trên chỉ yêu cầu các tổ chức tín dụng khi chào bán phải tuân thủ các điều kiện hạn chế bảo đảm an toàn theo Luật các tổ chức tín dụng và có tình hình tài chính lành mạnh. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng huy động vốn.
* Trình tự, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ
Tổ chức tín dụng lập hồ sơ đề nghị phát hành gửi Ngân hàng Trung ương hoặc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính. Hồ sơ bao gồm những giấy tờ cần thiết liên quan đến đợt phát hành, phương án phát hành, phương án sử dụng vốn và được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Ngân hàng Nhà nước xem xét, sau 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các tỉnh, thành phố sẽ ra quyết định về việc phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng.
Như vậy, quy định về hoạt động chào bán trái phiếu của tổ chức tín dụng khá đầy đủ và chi tiết. Đối với hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước, phương án phát hành phải có ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính (Khoản 3 Điều 46 Nghị định 52/2006/NĐ-CP).
2.1.2.3. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nhà nước
Công ty nhà nước là một chủ thể tham gia chào bán trái phiếu riêng lẻ để tăng vốn vay. Hiện nay, hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của chủ thể này chưa có quy định rõ ràng. Trước đây, các công ty nhà nước chào bán trái phiếu theo Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 18/9/1994 của Chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DNNN. Điều kiện chào bán trái phiếu của DNNN theo Nghị định này là DN có tổng giá trị tài sản cố định và tài sản lưu động tối thiểu là 20 tỷ đồng, tổng giá trị tài sản phát hành trái phiếu không được vượt quá 50% tổng giá trị tài sản của DN, được Bộ Tài chính hoặc tổ chức trung gian tài chính bảo lãnh. Những điều kiện trên khiến các DN huy động vốn theo Nghị định này không nhiều.
Ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP thay thế Nghị định 120/1994/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định 52/2006/NĐ-CP chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi, không điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nước nói chung. Trong trường hợp có nhiều công ty nhà nước chưa hoàn thành lộ trình chuyển đổi, những DNNN vẫn giữ 100% vốn điều lệ hoặc nắm cổ phần, vốn góp chi phối cần phải có văn bản điều chỉnh riêng.
Nếu hiểu mô hình công ty nhà nước hiện nay là công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thì văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của chủ thể này là Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên, cách hiểu này có thể dẫn đến đồng nhất các loại hình công ty nhà nước. Bởi các DNNN hoạt động trong những lĩnh vực thiết yếu như quốc phòng, an ninh, DNNN hoạt động công ích... và một số DN khác Nhà nước vẫn giữ 100% vốn hoặc nắm cổ phần, vốn góp chi phối và chưa thực hiện chuyển đổi.
Luật doanh nghiệp 2005 là văn bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động tất cả loại hình DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Do đó, hoạt động của DNNN phải tuân thủ quy định của luật này. Theo Điều 166 Luật doanh nghiệp 2005, lộ trình chuyển đổi của công ty nhà nước thành lập trước khi luật này ra đời là 04 năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực. Trong thời hạn chuyển đổi, những quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 được tiếp tục áp dụng nếu Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định. Như vậy, các công ty nhà nước chưa thực hiện chuyển đổi chào bán trái phiếu sẽ tuân thủ quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Sau thời hạn 04 năm, tức là ngày 01/7/2010 các công ty nhà nước hoàn thành lộ trình chuyển đổi sẽ áp dụng quy định của Luật doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, đến nay hoạt động chuyển đổi đã kết thúc. Do đó, hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của DN nhà nước vẫn đang bị bỏ ngõ chưa được một văn bản nào điều chỉnh. Vấn đề này thiết nghĩ cần nhanh chóng có sự điều chỉnh của một văn bản riêng.
2.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
2.2.1. Giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
2.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
- Hiện nay theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2010 và Nghị định 102/2010/NĐ-CP thì hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẽ của công ty cổ phần chưa phải là công ty đại chúng thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và do Chính phủ hướng dẫn về điều kiện chào bán. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một văn bản nào của Chính phủ được ban hành đề hướng dẫn cho vấn này. Điều này đang gây ra khó khăn cho hàng ngàn DN trong việc phát hành chứng khoán riêng lẽ. Vì vậy, đòi hỏi Chính phủ cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để sớm ban hành văn bản hướng dẫn giải quyết vấn đề này.
- Việc ban hành văn bản hướng dẫn hồ sơ, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ chào bán chứng khoán riêng lẻ của các DN đang là vấn đề rất nóng. Mặc dù hiện nay Luật chứng khoán sửa đổi đã có nhiều thay đổi nhưng vấn đề hồ sơ thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn đang được bỏ ngỏ cho Chính phủ. Chừng nào chưa ban hành được nghị định hướng dẫn hồ sơ thủ tục thì chừng đó hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn chưa thể thực hiện được. Kiến nghị hiện nay là Chính phủ cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn kịp với thời gian Luật chứng khoán sửa đổi có hiệu lực. Tránh gây ra sự lúng túng và “ách tắc” trong quy trình huy động vốn qua chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Nhằm tránh tình trạng một số doanh nghiệp lợi dụng việc phát hành chứng khoán riêng lẻ với điều kiện đơn giản để chào bán ra công chúng, thoát ly việc kiểm soát, giám sát của cơ quan nhà nước, gây ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông hiện hữu và ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lành mạnh của thị trường. Thiết nghĩ cần bổ sung hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vào đối tượng thanh tra và bổ sung hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vào phạm vi thanh tra tại Điều 109 Luật Chứng khoán, góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra và xử lý vi phạm đối với những trường hợp vi phạm các quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Hiện tượng các DN lợi dụng phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các đối tác chiến lược để chào bán với giá cổ phiếu rất thấp so với giá trị thực tế, và vấn đề đưa ra tiêu chí xác định đối tác chiến lược của nhiều DN cũng hết sức mập mờ. Điều này dễ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cổ đông hiện hữu cũng như tác động xấu đến sự phát triển ổn định và lành mạnh của TTCK. Do đó, cần sớm ban hành cơ sở xác định giá chào bán cho cổ phiếu riêng lẻ cũng như tiêu chí xác định đối tác chiến lược. Nhằm góp phần bảo về cổ đông hiện hữu, tạo hành lang pháp lý lành mạnh cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- So với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của những chủ thể khác, pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các tổ chức tín dụng tương đối hoàn chỉnh. Pháp luật quy định cụ thể, giám sát chặt chẽ từ điều kiện, thủ tục phương thức đến chào bán. Tuy nhiên, trong các quy định của pháp luật có sự phân biệt về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ giữa tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước và tổ chức tín dụng thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghị định 52/2006/NĐ- CP thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng nhà nước tăng vốn tự có. Trong khi đó, những tổ chức tín dụng khác phải tuân thủ những điều kiện chặt chẽ hơn theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Vì vậy, cần xoá bỏ sự phân biệt này, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng khác được chào bán trái phiếu riêng lẻ theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO vấn đề mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam là không tránh khỏi. Việc hoàn thiện một sân chơi chung cho tất cả các loại hình là vấn đề cần phải sớm được giải quyết.
- Nghị định 52/2006/NĐ-CP là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ của DN. Nghị định này thay thế và khắc phục nhiều hạn chế của Nghị định 120/1994/NĐ-CP. Thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay còn khá nhỏ bé nhưng cũng đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Bên cạnh thị trường trái phiếu Chính phủ, chúng ta cần quan tâm phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp vì đây thực sự là kênh dẫn vốn hiệu quả cho các DN.
- Một vấn đề cần lưu ý, đó là điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 52/2006/NĐ-CP không thống nhất với nhau. Nghị định 52/2006/NĐ-CP là văn bản điều chỉnh chung cho lĩnh vực phát hành trái phiếu riêng lẻ của các loại hình DN hiện nay. Đây là cơ sở cho một sân chơi chung của các loại hình doanh nghiệp trong chào bán trái phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên cũng không thể đánh giá thấp quy định về điều kiện phát hành theo Luật doanh nghiệp được, vì đảm bảo vấn đề trả nợ sẽ giúp thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển vững chắc. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải bổ sung 2 điều kiện cấm phát hành của công ty cổ phần quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 vào trong điều kiện chào bán trái phiếu chung quy định tại Điều 17 Nghị định 52/2006/NĐ-CP.
- Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán rất tinh vi, khó phát hiện. Có thể là xung đột lợi ích giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, có thể là tranh chấp giữa tổ chức phát hành và tổ chức trung gian, tranh chấp giữa các cổ đông hiện hữu với nhau hoặc giữa cổ đông và chủ thể phát hành... Những tranh chấp này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng tới hoạt động chào bán chứng khoán. Đợt chào bán có thể thất bại, uy tín của chủ thể phát hành có thể bị giảm sút. Do đó, cần có cơ chế phù hợp xác định tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán, bảo đảm hoạt động này diễn ra an toàn, hiệu quả. Quy định cụ thể về hình thức, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, chế tài áp dụng, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Yêu cầu các DN thực hiện công bố thông tin, có thể đưa công bố thông tin vào điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ. Khi thông tin được công khai hoạt động chào bán diễn ra lành mạnh, hạn chế những tranh chấp phát sinh.
Bổ sung các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công ty chứng khoán. Đây là nguyên nhân của nhiều tiêu cực và tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán như sử dụng thông tin nội bộ, giao dịch nội gián, bán khống, khớp lệnh không theo thứ tự ưu tiên...
Tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận với thông tin thông qua các buổi đối thoại, diễn đàn trực tiếp giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Nhà đầu tư nắm được những thông tin cần thiết đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, tự bảo vệ mình bằng những đánh giá và kỹ năng riêng.
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Các chứng khoán được chào bán riêng lẻ là những chứng khoán chưa niêm yết và giao dịch ngoài thị trường tập trung. Mức độ rủi ro của các chứng khoán này khá cao. Vì vậy, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và đưa các giao dịch chứng khoán chưa niêm yết vào khuôn khổ pháp lý là việc làm cần thiết. Trong các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của DN, đã có nhiều văn bản đề cập đến vấn đề này. Nghị định 52/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/5/2006 đã đề cập đến nội dung và thực hiện công bố thông tin nhưng cần cụ thể hơn nội dung những thông tin phải công bố công khai, chất lượng thông tin, trách nhiệm của tổ chức phát hành về tính chính xác, trung thực của thông tin. Bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức trung gian, tổ chức kinh doanh chứng khoán trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh khá chặt chẽ bởi Luật chứng khoán 2006 và chịu sự quản lý, giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Đối với hoạt động chào bán riêng lẻ, thẩm quyền quản lý thuộc về nhiều cơ quan khác nhau. Do vậy, cần quy định rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, người chịu trách nhiệm chính, phối hợp quản lý rủi ro trong chào bán chứng khoán riêng lẻ giữa các cơ quan.
Đặc biệt cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát trong việc xác định các tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục chào bán, quy định về hồ sơ, công bố thông tin trước và sau khi chào bán… bảo đảm cho hoạt động này diễn ra công bằng, đúng pháp luật. Trước hết cần tập trung giám sát việc thực hiện công bố thông tin, hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường, giám sát hoạt động giao dịch của nhà đầu tư đặc biệt nhà đầu tư nước ngoài bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững và phòng tránh rủi ro trong chào bán chứng khoán riêng lẻ. Nếu thực hiện tốt chế độ công bố thông tin nhiều tiêu cực trên thị trường sẽ được hạn chế. Và chúng ta có thể từng bước áp dụng phương thức quản lý theo chế độ thông tin đầy đủ như những TTCK phát triển trên thế giới.
2.2.2. Một số biện pháp khác
2.2.2.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về TTCK
Hiện nay, chứng khoán và TTCK không còn quá xa lạ đối với công chúng đầu tư. Tuy nhiên, những người thực sự am hiểu kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa nhiều. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức chuyên môn, chính sách pháp luật về chứng khoán và TTCK. Nhà đầu tư tham gia thị trường sẽ với kiến thức, sự nhạy cảm và kinh nghiệm.
Các hình thức đào tạo như mở lớp, thành lập các trung tâm đào tạo chứng khoán, các ấn phẩm, sách báo, tạp chí chứng khoán… ngày càng được mở rộng. Trung tâm nghiên cứu khoa học và đầu tư chứng khoán hiện là nơi đào tạo cấp chứng chỉ lớn của nước ta hiện nay. Công tác này có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện TTCK Việt Nam đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có nhiều biến động. Việc phổ cập hệ thống văn bản pháp luật đến giới đầu tư và DN cũng như hệ thống cơ quan áp dụng pháp luật sẽ góp phần sớm đưa Luật vào cuộc sống.
2.2.2.2. Xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán chào bán riêng lẻ
Hiện nay, các chứng khoán được giao dịch bên ngoài thị trường tập trung khá nhiều. Các chứng khoán này thường chưa đủ điều kiện niêm yết trên các TTGDCK. Hầu hết các chứng khoán được giao dịch tự do, nhà đầu tư và tổ chức chào bán hoặc người trung gian trao đổi, mua bán với nhau không ở một địa điểm cụ thể nào. Vì vậy, có thể tổ chức một thị trường cho các chứng khoán được giao dịch ngoài thị trường tập trung. Đó là thị trường phi tập trung hay thị trường OTC (over the counter market). Tham gia thị trường này có thể là các công ty chứng khoán, các tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp… giao dịch chủ yếu thông qua mạng lưới điện thoại, máy tính điện tử.
Thị trường phi tập trung có vai trò rất quan trọng nếu được mở rộng sẽ góp phần làm phong phú nguồn hàng cho thị trường thứ cấp, hỗ trợ thị trường tập trung phát triển. Điều hành thị trường phi tập trung có thể do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện.
Cổ phiếu và trái phiếu là hai loại chứng khoán quan trọng với những đặc thù khác nhau, người nắm giữ hai chứng khoán này cũng có những quyền và lợi ích không giống nhau. Trong tương lai, chúng ta có thể xây dựng thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán này như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu chuyên biệt, nâng cao tính chuyên môn hoá cho thị trường.
KẾT LUẬN
Cùng với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đang ngày càng khẳng định được vị trí của mình là một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Với những quy định về điều kiện, thủ tục chào bán đơn giản đã tạo nên những lợi thế nhất định của chào bán chứng khoán riêng lẻ so với chào bán chứng khoán ra công chúng. Hiện nay, chào bán chứng khoán riêng lẻ được các DN sử dụng một cách thường xuyên và hiệu quả, là nguồn huy động vốn quan trọng, đặc biệt là đối với các DN vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, đây cũng là một hoạt động khá phức tạp, tác động đến nhiều chủ thể và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới, trong đó có pháp luật Việt Nam đã có sự quan tâm lớn, điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Hoạt động chào bán chứng khoán được điều chỉnh một cách khá toàn diện. Sự ra đời của Luật chứng khoán 2006, 2010; Luật doanh nghiệp 2005; Luật tín dụng 1997, 2004, 2010; Luật ngân hàng 1997, 2004, 2010; Luật doanh nghiệp nhà nước 2003; Nghị định 01; Chỉ thị 20/2008/CT-TTg… khung pháp lý cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đã hình thành và bước đầu đã phát huy hiệu quả. Các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đã làm rõ các điều kiện, hồ sơ, thủ tục chào bán. Góp phần làm hạn chế tình trạng gian lận, rủi ro trong quá trình chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nêu trên, các quy định về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ còn một số hạn chế. Rõ nhận biết nhất là các quy định thiếu rõ rang, không đầy đủ và không phù hợp trong điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, để đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ ổn định trong tương lai thì việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ là hết sức cần thiết. Cần phải hoàn thiện hệ thống luật và văn bản dưới luật điều chỉnh về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Khắc phục tình trạng mâu thuẫn về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ ở Luật doanh nghiệp và Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Ban hành văn bản hướng dẫn hồ sơ, thủ tục tiếp nhận và xử lý hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Ban hành tiêu chí xác định đối tác chiến lược và cơ chế xác định giá chào bán… Bên cạnh đó, cần thực hiện các giải pháp về mặt thực tế như đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về TTCK, xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán riêng lẻ. Những thay đổi trên sẽ đảm bảo cho chào bán chứng khoán riêng lẻ có điều kiện phát triển và góp phần hoàn thiện pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ, đáp ứng điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài chính (2010), Báo cáo của Bộ tài chính về tình hình thi hành Luật chứng khoán và hoạt động thị trường chứng khoán – Nguồn thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
2. Bộ tài chính (2004), “Thông tư 126/2004/TT-BTC” ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP.
3. Bộ tài chính (2006), “Thông tư 95/2006/TT-BTC” ngày 12/10/2006 của Bộ Tài chính sữa đổi, bổ sung Thông tư 126/2004/TT-BTC.
4. Bộ kế hoạch – Bộ tài chính(2003), “Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC” ngày 29/12/2003 hướng dẫn thực hiện một số quy định Nghị định 38/20003/NĐ-CP.
5. Chào bán chứng khoán riêng lẻ ai được quyền mua – Thành Nam, ngày 6/8/2010, Nguồn
6. Chính phủ (2004), “ Nghị định 187/2004/ NĐ-CP” ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
7. Chính phủ (2006), “Nghị định 52/2006/NĐ-CP” ngày 19/5/2006 của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
8. Chính phủ (2003), “Nghị định 38/2003/NĐ-CP” ngày 15/4/2003 của Chính phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần.
9. Chính phủ (2010), “Nghị định 01/2010/NĐ – CP” ngày 4/1/2010 của Chính phủ điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
10. Chính phủ (2010), “Nghị định 102/2010/NĐ – CP” ngày 1/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp.
11. Chính phủ (2003), “Nghị định 144/2003/NĐ – CP” ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
12. Chính phủ (2009), “Nghị định 59/2009/NĐ – CP” ngày 16/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại.
13. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời gian ngắn, công việc nhiều, Mai Thu, ngày 30/6/2010, Nguồn www.vnbusiness.vn (Trang 1,2).
14. Đại học kinh tế quốc dân (2006), Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI – chiến lược phát triển kinh tế xã hội (trang 4).
16. Đoàn Hiền (2011), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: thăng trầm và đột phá, Tạp chí Cộng Sản – Nghiên cứu trao đổi, số 6.
17. Đỗ Đức Minh (2010), Một số ý kiến về phát triển bền vững thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 385.
18. GSTS Lê Văn Tư (2005), Thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB Thống kê (Trang 222).
19. Một số vấn đề về cổ phiếu ngân hàng và thị trường chứng khoán (2006), Trần Anh Đào, tạp chí phát triển kinh tế số 160.
20. Ngân hàng nhà nước (2010), “Thông tư 06/2010/TT-NHNN” ngày 26/2/2010 hướng dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sữa đổi giấy phép, điều lệ của NHTMCP.
21. Nguyễn Sơn (2010), Mười năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam và định hướng chiến lược giai đoạn 2010 – 2020, ngày 06/10/2010 thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
22. Nguyễn Ngọc Bích & Ngô Duy Minh (2010), Một nghị định vô hiệu hóa một định chế ngày 16/4/2010,
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997, 2004, 2010), Luật các tổ chức tín dụng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006, 2010), Luật chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1999, 2005), Luật doanh nghiệp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật doanh nghiệp Nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đầu tư, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997, 2004, 2010), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương số 50(141) ngày 12/12/2006. (trang 15).
30. Thủ tướng Chính phủ (2008), “Chỉ thị 20/2008/CT – TTg” ngày 23/8/2008 của thủ tướng chính phủ về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán.
31. Th/s Trần Thị Thanh Minh, Phát hành trái phiếu doanh nghiệp, số 3/2009, truongchinhtritohieuhp.gov.vn (Trang 2 –> 5).
32. Th/s Lê Thị Thảo(2011), Chuyên đề pháp luật về thị trường chứng khoán – Khoa luật Đại học Huế (trang 17).
33. Th/s Nguyễn Minh Hằng (2006), Tính thống nhất của các quy định về chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật chứng khoán năm 2006, Tạp chí Luật học, số 8 (Trang 31 – 36).
34. Th/s Nguyễn Thanh Tú, Pháp luật về phát hành chứng khoán của Mỹ – Trường Đại học Luật Hà Nội, ngày 10/2/2006, (Trang 4).
35. Trần Kiên (2006), Thị trường tài chính sức hấp dẫn từ lợi nhuận, Thông tin tài chính, số 23 (Trang 6-7).
36. TS Lê Thị Thu Thủy (2007), Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 111 (Trang 2,3).
37. Nguyễn Hiền (2010), Hạn chế chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi trong 1 năm, ngày 4/11/2010, nguồn: www.tinmoi.vn.
38. TS Châu Đình Phương (2008), Để thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ổn định và bền vững , Tạp chí kinh tế và dự báo, số 3.
39. TS Hoàng Thái Sơn (2007), Triển vọng phát triển của thị trường tài chính 2007 – lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam sẽ tăng cao, Thông tin tài chính, số 1+2. (Trang 15).
40. TS Vũ Bằng (2007), Năm thành công rực rỡ của thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Tài chính, số 1 (Trang 37).
41. TS Phạm Thị Giang Thu (2004), Một số vấn đề về pháp luật chứng khoán và TTCK ở Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia (Trang 210).
42. UBCKNN-TTNCKH &ĐTCK (2004), Thị trường chứng khoán và quản trị công ty - NXB Thống kê (Trang 28 ).
43. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2008), “Công văn 14285/BTC – UBCK” ngày 26/11/2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của chỉ thị số 20/2008/CT – TTg.
44. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2010), “Công văn 350/UBCK-QLPH” hướng dẫn thực hiện Nghị định 01/2010/NĐ – CP.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam.doc