Pháp luật về nhượng quyền thương mại

MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU1 1. Lý do chọn đề tài1 2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài1 3. Phương pháp nghiên cứu. 1 4. Cơ cấu của niên luận. 2 NỘI DUNG3 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI3 1. Khái niệm3 1.1. Một số khái niệm trên thế giới3 1.2. Theo pháp luật Việt Nam4 2. Đặc điểm5 3. Bản chất7 4. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại(NQTM)8 4.1. Đối với bên nhượng quyền. 8 4.2. Đối với bên nhận quyền. 9 5. Phân biệt nhượng quyền thương mại và các hình thức kinh doanh khác. 11 5.1. NQTM và lisence đối tượng sở hữu trí tuệ. 11 5.2. NQTM và chuyển giao công nghệ. 12 5.3. NQTM và đại lý thương mại13 CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.15 1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại15 1.1. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn. 16 1.2. Quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại trong các văn bản khác24 2. Thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới và Việt Nam25 2.1. Trên thế giới25 2.2. Tại Việt Nam27 3. Đánh giá chung về các quy định pháp luật30 3.1.Về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại30 3.2 Vấn đề xây dựng, cung cấp bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại31 3.3. Những quy định đối kháng, giữa các văn bản liên quan. 33 4. Một số kiến nghị34 KẾT LUẬN36 TÀI LIỆU THAM KHẢO38

doc41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8494 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về nhượng quyền thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à đáp ứng các điều kiện của bên nhượng quyền là có thể kinh doanh mà không phải tự xây dựng và phát triển thương hiệu. Đây có thể được coi là khoản đầu tư an toàn và khôn ngoan của bên nhận quyền vì khi kinh doanh dưới thương hiệu mạnh thì vấn đề hồi vốn và thu lợi nhuận chỉ trong thời gian ngắn. Một thí nghiệm nhỏ sau sẽ cho thấy sức mạnh của thương hiệu trên thị trường lớn như thế nào: Người ta bỏ bơ, lạc dở và rẻ tiền vào lọ của thương hiệu mạnh và bỏ bơ, lạc ngon, đắt tiền vào lọ chưa có thương hiệu gì cho người tiêu dùng ăn thử, kết quả là đa số mọi người cho rằng bơ lạc dở, rẻ tiền đựng trong lọ có thương hiệu nổi tiếng ngon hơn . Điều này chứng minh sức mạnh của thương hiệu trong quyết định mua hàng của khách hàng, hay nói cách khác, khi mua franchise của một sản phẩm đã có thương hiệu thì khá an tâm vì coi như họ đã chắc chắn có một lượng khách hàng nhất định. Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro trong kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng quyền không chỉ trước trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai trương về các vấn đề như quảng cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các thương hiệu được chuyển nhượng thường đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên nhận quyền không phải mất phí bảo hộ (một khoản phí không nhỏ) như các thương nhân kinh doanh độc lập khác và cũng không lo bị khiếu kiện liên quan đến vấn đề bảo hộ. Không chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hỏi kinh nghiệm quản lý, được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên nhượng quyền. So với các thương nhân kinh doanh độc lập thì đây là những nguồn lợi rất lớn của thương nhân kinh doanh NQTM. 5. Phân biệt nhượng quyền thương mại và các hình thức kinh doanh khác Luật Thương mại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 01/2006 đã giúp thiết lập một khung pháp lý rõ ràng hơn cho việc quản lý các hoạt động nhượng quyền. Sự phát triển nhanh chóng các công trình xây dựng phục vụ ngành bán lẻ tại các thành phố lớn cùng với sự kiện ngành bán lẻ Việt Nam đang được thế giới đánh giá cao về tính hấp dẫn và tiềm năng phát triển đứng hàng thứ 5 trên thế giới. Việt Nam có đầy đủ những điều kiện cần thiết để thu hút phát triển mô hình nhượng quyền thương mại (franchise): nền kinh tế phát triển cao và ổn định hơn 7%/năm, nền chính trị ổn định, cung cấp thị trường tiêu thụ “trẻ” hơn 84 triệu dân với mức thu nhập bình quân đầu người đang gia tăng nhanh, xuất hiện tầng lợp tiêu dùng trẻ có thu nhập khá-cao và cộng đồng người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Trên thực tế, nhiều thương nhân khi muốn chọn lựa một mô hình kinh doanh phù hợp, đã nhầm lẫn nhượng quyền thương mại với các hình thức kinh doanh khác có một số đặc điểm tương đồng.Tuy nhiên nhượng quyền thương mại vẫn có những nét khác biệt như sau : 5.1. NQTM và lisence đối tượng sở hữu trí tuệ (SHTT) Lisence đối tượng sở hữu trí tuệ là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ (hoặc người được chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ chuyển giao độc quyền quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ ) chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ của mình cho cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, qua đó bên chuyển giao lisence sở hữu trí tuệ thu được một khoản tiền. Có thể thấy NQTM và lisence giống nhau ở điểm cả hai đều có hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ, tuy nhiên đây là hai hoạt động kinh doanh hoàn toàn khác nhau, mà dựa vào một số tiêu chí sau ta có thể phân biệt chúng: Thứ nhất, đối tượng hợp đồng NQTM rộng hơn so với hợp đồng lisence, ngoài các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ nó còn gồm các đối tượng khác như phương pháp kinh doanh, chỉ dẫn, quy tắc, tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật. Thứ hai, bên nhận chuyển giao lisence ngoài việc sử dụng đối tượng SHTT của bên chuyển giao thì không còn mối quan hệ nào với chủ thể giao lisence. Ngược lại, trong hợp đồng NQTM mối quan hệ giữa các chủ thể rất chặt chẽ, bên nhận quyền phải tuân theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật do bên nhượng quyền đặt ra đồng thời phải chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Đổi lại, bên nhượng quyền có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Thứ ba, về vấn đề phí: phí trong hợp đồng lisence là phí trả cho từng đối tượng lisence cụ thể, còn phí trong hợp đồng NQTM chính là khoản tiền trả cho việc sử dụng tổng hợp mọi quyền SHTT được giao bởi bên nhượng quyền. Điểm khác biệt nữa là trong hợp đồng NQTM bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo những cách thức của bên nhượng quyền để sản xuất, kinh doanh. Nhưng với hợp đồng lisence bên nhận chuyển giao chỉ được quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ để tiến hành kinh doanh và không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào từ bên chuyển giao lisence sở hữu trí tuệ . 5.2. NQTM và chuyển giao công nghệ Chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghê từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ. Như vậy giữa NQTM và chuyển giao công nghệ có đặc điểm chung chính là ở nội dung chuyển giao quy trình kỹ thuật và bí quyết kinh doanh, vì thế giữa hai phương thức này nhiều khi vẫn có sự nhầm lẫn, Tuy nhiên đây là hai hình thức kinh doanh khác nhau về bản chất, trong chuyển giao công nghệ, bên có quyển chuyển giao có thể chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ, nhưng trong hợp đồng NQTM, đối tượng chuyển giao chỉ có thể là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ. Mặt khác, khi tham gia quan hệ chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao chỉ nhằm mục đích ứng dụng nó vào quá trình sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm; còn mục đích tham gia quan hệ nhượng quyền của bên nhận quyền là việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách khai thác giá trị thương hiệu đã thành công của bên nhượng quyền. Sau khi được chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có thể sử dụng theo bất kỳ tên thương mại, kiểu dáng, thương hiệu nào mà họ muốn. Ngược lại, bên nhận quyền chỉ được sử dụng công nghệ mà mình nhận được để sản xuất hàng hoá và cung ứng các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, dưới nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại của bên nhượng quyền. Ngoài ra, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hai hình thức kinh doanh này cũng khác nhau. Nếu như trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, giữa các bên không có quan hệ gì sau khi công nghệ được chuyển giao thì ngược lại, quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng NQTM rất chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau. 5.3. NQTM và dại lý thương mại Đại lý thương mại là hoạt đông thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá, hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý để hưởng thù lao. Về hình thức, NQTM và đại lý thương mại đều là việc cùng phân phối hàng hoá, dịch vụ trên thương hiệu doanh nghiệp khác, tuy nhiên về bản chất thì NQTM và đại lý thương mại tương đối khác nhau: Thứ nhất, bên nhận quyền trong quan hệ NQTM là một pháp nhân độc lập, tiến hành phân phối hàng hoá, dịch vụ cho chính mìnhvà tự hạch toán tài chính trong hoạt động kinh doanh của mình. Còn bên nhận đại lý trong đại lý thương mại chỉ là đại diện của doanh nghiệp trong việc phân phối, cung ứng dịch vụ theo mức giá quy định của doanh nghiệp đó, bên nhận đại lý sẽ nhận được khoản hoa hồng từ phía doanh nghiệp tính trên doanh số bán được của đại lý đó Thứ hai, trong quan hệ đại lý thương mại bên nhận đại lý không phải trả khoản phí nào cho doanh nghiệp khi trở thành đại lý của doanh nghiệp, không chỉ vậy, trong suốt quá trình kinh doanh, bên nhận đại lý còn được hưởng thù lao do bên giao đại lý trả (gọi là hoa hồng) cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, bên nhận quyền trong NQTM muốn than gia vào mạng lưới nhượng quyền phải trả cho bên nhượng quyền khoản phí ban đầu để mua "quyền thương mại", đồng thời trong suốt qúa trình kinh doanh, bên nhận quyền còn phải đóng các khoản phí hàng tháng để tiếp tục duy trì sử dụng các đối tượng . Một điểm phân biệt khá quan trọng giữa NQTM và đại lý thương mại chính là cách bài trí cửa hàng. Đối với các cửa hàng nhượng quyền bên nhận quyền bắt buộc phải bố trí thiết kế cửa hàng theo đúng quy định của bên nhượng quyền. Nhưng với các cửa hàng đại lý, bên nhận đại lý được toàn quyền quyết định việc bài trí cửa hàng, không chịu bất kỳ sức ép nào từ bên giao đại lý. CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. 1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh quan hệ nhượng quyền thương mại. Quan hệ nhượng quyền thương mại rất phức tạp, phụ thuộc vào đối tượng “ quyền thương mại” được chuyển giao đến mức độ như thế nào mà mỗi hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có những đặc trưng riêng và đặt ra những yêu cầu riêng cho việc áp dụng pháp luật. Vì vậy pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại cũng rất đa dạng và phong phú. Trong những năm 90, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật hóa. Năm 1998, lần đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị định 45/CP/1998 về chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là franchise...”. Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem là chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều chỉnh của nghị định này. Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ. Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận. Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8 Chương VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày 25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam. Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã tiến hành một cuộc điều tra với kết quả khẳng định rằng: đã tồn hơn 65 hệ thống franchise hoạt động tại Việt Nam, đa số là các thương hiệu nước ngoài. Mặc dù còn khá ít so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình thế hiện nay, khi franchise đã được luật hóa, Việt Nam chính thức bước qua cửa WTO, đã có nhiều nhận định rằng hoạt động franchise sẽ phát triển như vũ bão. 1.1. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn - Trong Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thì điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền thương mại và vấn đề nhượng quyền thương mại được ghi nhận từ Điều 284 đến Điều 291 trong Luật thương mại. Luật Thương mại mới chỉ đề cập những vấn đề chung nhất về nhượng quyền thương mại, đó là các quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận quyền; nhượng quyền lại cho bên thứ 3; đăng ký nhượng quyền thương mại. Khi thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại thì tại điều 286 và điều 287 có quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân nhượng quyền như sau: *“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các quyền sau đây: 1. Nhận tiền nhượng quyền; 2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới nhượng quyền thương mại; 3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hoá, dịch vụ.” (Điều 286) *“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các nghĩa vụ sau đây: 1. Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền; 2. Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại 3. Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của thương nhân nhận quyền 4. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền; 5. Đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại.” (Điều 287) *Quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền được quy định như sau: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các quyền sau đây: 1. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại; 2. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại.” (Điều288) *“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các nghĩa vụ sau đây: 1. Trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng nhượng quyền thương mại; 2. Đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao; 3. Chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền; tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của thương nhân nhượng quyền; 4. Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt; 5. Ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại; 6. Điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại; 7. Không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.” (Điều 289) Những quyền và nghĩa vụ trên chỉ là những quyền và nghĩa vụ cơ bản trong hoạt động nhượng quyền thương mại, nó mới chỉ dừng lại bên nhận quyền, bên nhượng quyền và bên thứ ba như quy định tại điều 290 “1. Bên nhận quyền có quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi là bên nhận lại quyền) nếu được sự chấp thuận của bên nhượng quyền. 2. Bên nhận lại quyền có các quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền quy định tại Điều 288 và Điều 289 của Luật này.” Chứ nó chưa đề cập một cách chi tiết các vấn đề như nhượng quyền thương mại trong nước và nhượng quyền thương mại ở nước ngoài, các điều kiện nhượng quyền thương mại đối với các bên… Ngày 31 tháng 3 năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại. Nghị định này là văn bản pháp luật đầu tiên cụ thể hoá các quy định về nhượng quyền thương mại trong Luật Thương mại năm 2005. Nghị định áp dụng với thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Để đảm bảo thực thi tốt các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực phân phối, Nghị định cũng quy định đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá, ngoài việc tuân thủ Nghị định, chỉ được thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp đó được kinh doanh dịch vụ phân phối theo cam kết quốc tế của Việt Nam. Nghị định cũng đưa ra quy định về điều kiện đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền, trong đó điều kiện quan trọng nhất là hệ thống kinh doanh mà bên nhượng quyền dự kiến dùng để nhượng quyền phải hoạt động ở Việt Nam tối thiểu là 01 năm. *“Thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: 1. Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01 năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại. 2. Đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Điều 18 của Nghị định này. 3. Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại không vi phạm quy định tại Điều 7 của Nghị định này” (Điều 5: Điều kiện với bên nhượng quyền) “Thương nhân được phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại” (Điều 6: Điều kiện với bên nhận quyền) Ngoài ra, Nghị định cũng quy định chi tiết về cơ chế cung cấp thông tin, theo đó bên dự kiến nhận quyền sẽ có ít nhất là 15 ngày, nếu các bên không có thoả thuận khác, để xem xét toàn bộ tài liệu về hoạt động nhượng quyền (bao gồm bản sao hợp đồng mẫu, bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại) trước khi ký hợp đồng nhượng quyền thương mại: “Điều 8. Trách nhiệm cung cấp thông tin của Bên nhượng quyền 1. Bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của mình cho bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại nếu các bên không có thỏa thuận khác. Các nội dung bắt buộc của bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại do Bộ Thương mại quy định và công bố. 2. Bên nhượng quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho tất cả các Bên nhận quyền về mọi thay đổi quan trọng trong hệ thống nhượng quyền thương mại làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của Bên nhận quyền. 3. Nếu quyền thương mại là quyền thương mại chung thì ngoài việc cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều này, Bên nhượng quyền thứ cấp còn phải cung cấp cho bên dự kiến nhận quyền bằng văn bản các nội dung sau đây: a) Thông tin về Bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình; b) Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại chung; c) Cách xử lý các hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp trong trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại chung.” “Điều 9. Trách nhiệm cung cấp thông tin của bên dự kiến nhận quyền Bên dự kiến nhận quyền phải cung cấp cho Bên nhượng quyền các thông tin mà Bên nhượng quyền yêu cầu một cách hợp lý để quyết định việc trao quyền thương mại cho Bên dự kiến nhận quyền.” Với mục đích đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước, Nghị định đưa ra cơ chế đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. “Cơ quan có thẩm quyền đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại có trách nhiệm đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó” (khoản 2 Điều 17). Bên dự kiến nhượng quyền, trước khi tiến hành hoạt động nhượng quyền, chỉ cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo một trình tự thủ tục đơn giản, minh bạch. Theo Nghị định, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) là cơ quan đăng ký đối với các hoạt động nhượng quyền từ nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả hoạt động nhượng quyền từ Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam vào lãnh thổ Việt Nam và ngược lại. Sở Thương mại, Sở Thương mại Du lịch là cơ quan đăng ký đối với các hoạt động nhượng quyền còn lại trong lãnh thổ Việt Nam. “1. Bộ Thương mại thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại sau đây: a) Nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả hoạt động nhượng quyền thương mại từ Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam vào lãnh thổ Việt Nam; b) Nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài, bao gồm cả hoạt động nhượng quyền thương mại từ lãnh thổ Việt Nam vào Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam. 2. Sở Thương mại, Sở Thương mại Du lịch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thương nhân dự kiến nhượng quyền đăng ký kinh doanh thực hiện đăng ký đối với hoạt động nhượng quyền thương mại trong nước trừ hoạt động chuyển giao qua ranh giới Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam” (Điều 18) Bên cạnh đó từ Điều 24 đến Điều 26 của Nghị định đã đưa ra vấn đề vi phạm pháp luật trong nhượng quyền thương mại và thẩm quyền xử lý trong đó liệt kê 9 hành vi vi phạm là: “a) Kinh doanh nhượng quyền thương mại khi chưa đủ điều kiện quy định; b) Nhượng quyền thương mại đối với những hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; c) Vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại quy định tại Nghị định này; d) Thông tin trong bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại có nội dung không trung thực; đ) Vi phạm quy định về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; e) Vi phạm quy định về thông báo trong hoạt động nhượng quyền thương mại; g) Không nộp thuế theo quy định của pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; h) Không chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra, thanh tra; i) Vi phạm các quy định khác của Nghị định này” Nghị định cũng quy định về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và được cụ thể hóa trong Thông tư 09/2006/TT_BTM. Theo đó thương nhân dự kiến nhượng quyền thương mại phải lập hố sơ đề nghị nhượng quyền thương mại bao gồm: a) Đơn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại theo mẫu b) Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại theo mẫu c) Bản sao có công chứng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư trong trường hợp nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài; bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương của thương nhân nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền nơi thương nhân nước ngoài thành lập xác nhận trong trường hợp nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt nam; d) Bản sao có công chứng văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài trong trường hợp có chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ; đ) Giấy tờ chứng minh sự chấp thuận về việc cho phép nhượng quyền lại của bên nhượng quyền ban đầu trong trường hợp thương nhân đăng ký hoạt động nhượng quyền là bên nhượng quyền thứ cấp; Nếu các giấy tờ nói trên được thể hiện bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt và được công chứng bởi cơ quan công chứng trong nước hoặc phải được cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài chứng nhận và thực hiện việc hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Sau khi lập xong hồ sơ đề nghị đăng ký nhượng quyền thương mại, thương nhân dự kiến nhượng quyền thương mại phải gửi hồ sơ đố đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm qưuyền nói trên thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mạivà thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó. Trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ, trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có văn bản thông báo để bên dự kiến nhượng quyền thương mại bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ. Sau khi hết thời hạn nói trên mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối việc đăng ký thì phải thông báo bằng văn bản cho bên dự kiến nhượng quyền và nêu rõ lý do. Một điểm quan trọng trong Nghị định là quy định cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương mại. Theo đó hợp đồng phải được lập bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương và nội dung của hợp đồng được quy định tại Điều 11 “Trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây: 1. Nội dung của quyền thương mại. 2. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhượng quyền. 3. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhận quyền. 4. Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán. 5. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng. 6. Gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp.” Thời hạn của hợp đồng do các bên thỏa thuận,hết thời hạn các bên có thể thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Đồng thời các bên cũng có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đông trước thời hạn hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng như quy định tại Điều 16 “1. Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trong trường hợp Bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 287 của Luật Thương mại. 2. Bên nhượng quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trong các trường hợp sau đây: a) Bên nhận quyền không còn Giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương mà theo quy định của pháp luật Bên nhận quyền phải có để tiến hành công việc kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. b) Bên nhận quyền bị giải thể hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. c) Bên nhận quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ thống nhượng quyền thương mại. d) Bên nhận quyền không khắc phục những vi phạm không cơ bản trong hợp đồng nhượng quyền thương mại trong một thời gian hợp lý, mặc dù đã nhận được thông báo bằng văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm đó từ Bên nhượng quyền” 1.2. Quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại trong các văn bản khác - Trong Bộ luật dân sự do tính chất là một bộ luật gốc quy định tất cả các quan hệ về tài sản và nhân thân trong đời sống kinh tế xã hội, trong đó có quan hệ nhượng quyền thương mại. Bởi lẽ, “quyền thương mại” thực chất là một loại tài sản đặc biệt của thương nhân và việc “nhượng quyền thương mại” thực chất chỉ là việc cho thuê tài sản đặc biệt này thôi. - Đối tượng của nhượng quyền thương mại thường chứa đựng cả các đối tượng của sở hữu công nghiệp được chuyển giao kèm theo như tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền… Nếu đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại được chuyển giao bao gồm cả chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thì phần chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công nghiệp tức sẽ có sự điều chỉnh của Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ. - Trong hoạt động nhượng quyền thương mại các bên thường có thỏa thuận về các nội dung nhằm duy trì tính đồng nhất và thống nhất của hệ thống nhượng quyền, về vấn đề phân chia thị trường, ấn định giá bán sản phẩm… những thỏa thuận đố đều có thể dẫn tới việc gây hạn chế cạnh tranh và điều này có thể rơi vào “tầm ngắm” của pháp luật về cạnh tranh. 2. Thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới và Việt Nam 2.1. Trên thế giới Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận là khởi nguồn tại Mỹ nhưng thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với hình thức có 2 – 3 điểm bán lẻ cùng hình thức tại một số địa điểm khác nhau cùng kinh doanh. Năm 1840, các nhà sản xuất bia của Đức cho phép một vài quán bia quyền bán sản phẩm của họ. Năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký cho thực hiện hợp đồng nhượng quyền kinh doanh. Singer đã ký hợp đồng nhượng quyền và trở thành người tiên phong trong việc thoả thuận hình thức nhượng quyền. Năm 1880 bắt đầu nhượng quyền bán sản phẩm cho các đại lý độc quyền trong lĩnh vực xe hơi, dầu lửa, gas. Trong thời gian này, phạm vi hoạt động nhượng quyền chỉ là chuyển quyền phân phối và bán sản phẩm của các nhà sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã thực sự phát triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng vọt nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã trở thành mô hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng trong ngành công nghiệp thức ăn nhanh và khách sạn. Vào thập niên 60-70, nhượng quyền bùng nổ và phát triển mạnh ở Mỹ, Anh và một số nước khác. Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra rất nhanh, mạnh trong tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy vai trò của nó trên toàn thế giới. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có 1 hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm trong khi 82% công ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5% công ty theo hợp đồng thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc lập. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế giới là điều tất yếu. Một số kết quả thực sự ấn tượng của hệ thống này mang lại trên thế giới : Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên toàn thế giới năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Nếu so sánh với GDP của Việt Nam cùng năm thì hệ thống này gấp trên 28 lần và còn có dấu hiệu vượt hơn nữa trong những năm gần đây. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao động tứ là 1/7 tổng lao động ở Mỹ và có hơn 550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng nhượng quyền mới ra đời. Ở Châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với 167.500 cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro. Tạo ra hơn 1.5 triệu việc làm. Ở Anh, nhượng quyền thương mại là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền, doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh. Khu vực nhượng quyền thương mại cũng thu hút một lượng lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ. IFA cho hay, nhượng quyền kinh doanh thương hiệu riêng ở khu vực châu Á đã tạo doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm. Ở Thái Lan số hợp đồng nhượng quyền đang tăng rất nhanh, trong đó có tới 67% thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, với số vốn ban đầu cho mỗi hợp đồng 20.000-65.000 USD. Bộ thương mại công bố chương trình khuyến khích và quảng bá thương hiệu nội địa ra thị trường quốc tế qua nhượng quyền thương mại. Được hỗ trợ đào tạo trung và ngắn hạn về công nghệ nhượng quyền thương mại. Bước đầu: năm 2004 đạt 25 triệu Baht, năm 2005 tăng 10% tương tự các năm tiếp theo. Tại Nhật Bản, nhượng quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996, đến năm 2004 đã có 1.074 hệ thống nhượng quyền thương mại và 220.710 cửa hàng nhận quyền thương mại, doanh thu từ công nghệ nhượng quyền thương mại là khoảng 150 tỉ USD, tăng trưởng hàng năm 7%. Từ năm 1980, nhượng quyền thương mại vào Trung Quốc. Đến năm 2004, nước này đã có 2.100 hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với 120.000 cửa hàng nhượng quyền trong 60 lĩnh vực khác nhau. Biểu đồ tăng trưởng hoạt động nhượng quyền của Trung Quốc dựng đứng kể từ khi nước này gia nhập WTO. Từ năm 2000, tại Trung Quốc, bình quân mỗi năm hệ thống nhượng quyền tăng 38% vượt xa mức tăng trưởng 10%/năm của hàng tiêu dùng, các cửa hàng nhận nhượng quyền tăng 55%. Đặc biệt, hệ thống nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp Trung Quốc cạnh tranh ngang hàng với thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng của nước ngoài. Ở Malaysia, nhìn thấy lợi ích của nhượng quyền thương mại từ 1992, Chính phủ thành lập chương trình quốc gia về chuyển nhượng (Franchise Development Programe - FDP) với 2 mục tiêu: Gia tăng số doanh nghiệp bán / mua nhượng quyền thương mại; Thúc đẩy phát triển những sản phẩm / dịch vụ đặc thù nội địa thông qua nhượng quyền thương mại. Ở Úc, tổng cửa hàng nhượng quyền thương mại khoảng 54.000, đóng góp 12% vào GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động. 2.2. Tại Việt Nam Giữa thập niên 90, ở nước ta đã có một vài doanh nghiệp kinh doanh thiết bị lọc nước do Việt kiều về đầu tư đã đưa ra hình thức nhượng quyền thương mại, nhưng thị trường lúc bấy giờ chưa thực sự sôi động và bản thân thương hiệu của các doanh nghiệp đó cũng chưa mấy nổi tiếng nên đã không thành công. Mãi đến 3 - 4 năm trở lại đây, hình thức nhượng quyền thương mại mới rục rịch trở lại với các thương hiệu tên tuổi như Kinh Đô, Trung Nguyên, Lotteria, Phở 24... Theo ông Patrick Ho Lock Yin - Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Kinh Đô, đến nay Kinh Đô có mạng lưới 150 nhà phân phối và trên 30.000 điểm bán lẻ rộng khắp trên cả nước với nhiều chủng loại sản phẩm bánh, kẹo. Trong đó, có nhiều cửa hàng Kinh Đô đã áp dụng phương thức nhượng quyền thương mại. Còn đối với Công ty cà phê Trung Nguyên, đây là thương hiệu cà phê số 1 và cũng là doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên áp dụng mô hình kinh doanh nhượng quyền thương mại. Hiện Trung Nguyên đã có 1.000 quán cà phê ở Việt Nam, Singapore, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và đang tiếp tục phát triển tại Mỹ, Đức, Australia thông qua phương thức nhượng quyền thương mại này. Theo phân tích của chương trình dự báo bán lẻ tại TP.HCM, cơ hội kinh doanh nhượng quyền thương mại ở Việt Nam rất lớn do có các yếu tố: kinh tế vẫn đang trong giai đoạn tăng trưởng tốt; các trung tâm mua sắm, đô thị, khu thương mại dịch vụ... còn phân bố rải rác, thích hợp để các thương hiệu mạnh phát triển chuỗi - hệ thống bán hàng; với thị trường tiềm năng hơn 84 triệu dân, hạ tầng dịch vụ ngày càng hoàn thiện và tâm lý kinh doanh thích làm chủ của người Việt Nam trong điều kiện vốn và kinh nghiệm đều có giới hạn thì kinh doanh nhượng quyền là phương pháp thích hợp nhất. Cho đến nay, ở Việt Nam có một số hệ thống nhượng quyền rất thành công và một số đang trên đà phát tiển nhưng nhìn chung là còn rất khiêm tốn. Những hệ thống nhượng quyền thương mại nước ngoài đã vào Việt Nam, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng gần 100 thương hiệu: Trà Dilmah, tập đoàn bán lẻ Bourbon Group ( BigC), KFC, Jollibee, Qualitea, khách sạn Sofitel, Hilton, Sharaton, Metro Cash & Carry, Bourbon, Parkson (Malaysia), v.v … Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vì vậy sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là đương nhiên, mang tính sống còn đối với nền kinh tế của quốc gia. Kinh doanh theo phương thức franchise là một mô hình tiến bộ, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro được áp dụng tại nhiều quốc gia phát triển là thành viên của WTO. Do đó, Việt Nam sẽ không là ngoại lệ, sẽ trở thành “bãi đáp” của nhiều thương hiệu quốc tế, bởi thị trường bán lẻ luôn “béo bở”và còn tính “khai phá” đối với các hệ thống bán lẻ nước ngoài. Nay thời khắc đến, các doanh nghiệp Việt Nam dường vẫn chưa có một sự chuẩn bị thấu đáo, khả năng các doanh nghiệp nước ngoài sẽ vượt trội trong việc “bán” franchise ngày trên sân nhà là có thực, bởi việc thâm nhập thị trường thông qua hoạt động franchise sẽ hạn chế khá nhiều rủi ro, tiết giảm tối đa chi phí, thu lợi ngay tức thời từ giá trị thương quyền, thay vì phải đầu tư trực tiếp một lượng vốn lớn để xây dựng các hệ thống bán lẻ tại Việt Nam, nhất là trong tình hình kinh tế bất ổn như hiện nay thì tính khả thi sẽ không cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, việc nhượng quyền thương mại từ nước ngòai vào cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động franchise tại Việt Nam. Thông qua đó, sẽ có sự giao thoa, “thẩm thấu” kinh nghiệm, kiến thức, tinh hoa của phương thức kinh doanh đặc biệt này đối với doanh nghiệp Việt Nam trong việc kiến tạo và phát triển các mô hình franchise phù hợp với tình hình tính chất đặc thù văn hóa-xã hội Việt Nam từ chính việc ban đầu đi “mua” franchise, để trong một thời gian phù hợp, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có các thương hiệu mang tầm khu vực, có thể thực hiện nhượng quyền ra nước ngoài, như hệ thống Phở 24, Trung Nguyên, T&T đã và đang thực hiện. Cơ hội mở ra sẽ luôn song hành với các thách thức, rủi ro tương ứng. Để có thể tồn tại và phát triển các hệ thống franchise thuần Việt bên cạnh các hệ thống franchise quốc tế ngay trên “sân nhà”, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nổ lực hơn nhiều hơn trong việc kiến tạo hình ảnh, thương hiệu, chuẩn hóa hệ thống kinh doanh, tham khảo ý kiến tư vấn, đẩy mạnh việc đào tạo nhân sự chuyên ngành. Đặc biệt, các doanh nghiệp thực hiện hoặc dự kiến “bán” franchise phải cùng nhau họp lại, đề xuất Chính phủ cho phép thành Hiệp hội franchise Việt Nam, thông qua tổ chứ đó để kiến nghị, đề xuất các chính sách, giải pháp phát triển hoạt động franchise của Nhà nước, đồng thời là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác kinh doanh, phát triển hoạt động franchise. 3. Đánh giá chung về các quy định pháp luật Với sự ra đời của Luật Thương mại 2005, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 và Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006, nhìn chung hệ thống văn bản pháp luật quản lý, hướng dẫn hoạt động nhượng quyền thương mại đã được hoàn chỉnh. Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện, một số vướng mắc đã và sẽ phát sinh do một số nội dung trong các văn bản pháp luật này chưa thực sự phù hợp với tình hình phát triển hoạt động NQTM hiện nay tại Việt Nam, cũng như việc kết nối giữa các đạo luật liên quan vẫn chưa thể liên thông do gặp phải các trở ngại mang tính kỹ thuật lập pháp. 3.1.Về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại Ở một số nước trên thế giới, quy định này cũng có thể là bắt buộc hoặc khuyến khích tự nguyện đăng ký với mục đích để Nhà nước có thể thu thập thông tin về hoạt động nhượng quyền để xây dựng các chính sách, cơ chế pháp lý có nội dung khuyến khích, phát triển hoạt động nhượng quyền, đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của người mua franchise. Tại Hoa Kỳ, trên 12 tiểu bang có luật quy định bất kỳ doanh nghiệp nào nếu muốn tham gia vào thị trường chứng khoán đều phải thực hiện đăng ký NQTM, điều này thể hiện chính sách bắt buộc thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện hoạt động NQTM. Ở Malaysia, từ năm 1992, với Chương trình Phát triển nhượng quyền ( Franchise Development Programme), Chính phủ nước này đã có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp trong việc tư vấn pháp lý, xây dựng hệ thống nhượng quyền và quy định khá cởi mở trong việc đăng ký (hoặc khai báo) việc nhượng quyền ra nước ngoài. Theo Điều 291 Luật Thương mại 2005, Điều 17 và 18 Nghị định 35, bất kỳ doanh nghiệp trước khi tiến hành hoạt động NQTM phải thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động NQTM tại Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại. Hồ sơ đăng ký hoạt động nhượng quyền bao gồm: Đơn đề nghị đăng ký, Bản giới thiệu về NQTM do doanh nghiệp soạn thảo theo mẫu và các văn bản khác để xác nhận tư cách pháp lý của bên dự kiến nhượng quyền, quyền sở hữu trí tuệ đối tượng liên quan hoạt động nhượng quyền...do Bộ Thương mại quy định mục II.1 Thông tư 09. Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại là cơ quan có thẩm quyền xem xét, thẩm định hồ sơ đăng ký hoạt động NQTM, các điều kiện để được nhượng quyền (Điều 5 của Nghị định 35) để quyết định việc chấp thuận hay không chấp thuận đăng ký hoạt động NQTM của doanh nghiệp. Do vẫn chưa có chế tài ràng buộc cụ thể đối với trường hợp bị từ chối đăng ký nhượng quyền, nên trong thực tế, những doanh nghiệp bị xét không đủ điều kiện nhượng quyền nhưng vẫn có thể tiếp tục thực hiện nhượng quyền bắt cách lách luật thông qua việc ký kết hợp đồng đại lý với đối tác, trong đó có thỏa thuận cho phép đối tác được sử dụng thương hiệu và tổ chức kinh doanh theo phương thức hoạt động của mình. Ngoài ra, hiện thời Bộ Tài chính vẫn chưa có văn bản cụ thể quy định mức phí đăng ký hoạt động NQTM, do đó có thể dẫn đến lúng túng đối với cơ quan tiếp nhận đăng ký. 3.2 Vấn đề xây dựng, cung cấp bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại Về nguyên tắc, việc yêu cầu doanh nghiệp dự kiến nhượng quyền xây dựng Bản Giới thiệu về NQTM là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của Bên nhượng quyền. Bản Giới thiệu về nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp thực chất đó là tài liệu quan trọng, còn gọi là UFOC (Uniform Franchise Offering Circular), mà bên nhượng quyền phải cung cấp cho Bên dự kiến nhận quyền nghiên cứu trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền. Do đó, Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại phải thể hiện đầy đủ, trung thực, chính xác mọi thông tin về Bên nhượng quyền, hệ thống nhượng quyền và các vấn đề cơ bản liên quan đến việc ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, việc xây dựng và cung cấp tài liệu UFOC là bắt buộc theo luật định, tài liệu này luôn đảm bảo 02 chức năng cơ bản: cung cấp chính xác thông tin liên quan đến nội dung, quảng bá cho bên nhượng quyền. Tại Việt Nam, Bộ Thương mại cũng ban hành mẫu Bản Giới thiệu nhượng quyền thương mại kèm Thông tư 09, có nội dung khá chi tiết gồm 02 phần và 13 mục. Tuy nhiên, Bản Giới thiệu mẫu được soạn thảo hơi cứng nhắc, các thông tin yêu cầu cung cấp có vẻ như chủ yếu để phục vụ cho hoạt động thống kê, quản lý nhà nước, mà không tính đến yếu tố thể hiện sự quảng bá của Bên dự kiến nhuợng quyền. Ngoài ra, một số nội dung thông tin phân chia theo đề mục không hợp lý, khó hiểu hoặc một số yêu cầu có thể không cần thiết, cụ thể như sau: Trùng lắp tiêu đề tại Mục I Phần A và mục I Phần B. Theo nội dung được nêu, Mục I Phần A nhắm giới thiệu tổng quát về vị trí pháp lý, chức năng kinh doanh cùa Bên nhượng quyền, Mục I Phần B cung cấp thông tin cơ bản về bộ máy, tổ chức kinh doanh nhượng quyền của Bên nhượng quyền. Vì vậy, nên chăng sửa đổi tiêu đề Mục I Phần A thành “Giới thiệu tư cách pháp lý của Bên nhượng quyền”, tiêu đề Mục I Phần B thành “Thông tin về tổ chức-hoạt động của Bên nhượng quyền”. Điểm 2 Mục V Phần B nói về khả năng cho phép bên nhận quyền có được chỉnh sửa những quy định của hệ thống kinh doanh nhượng quyền. Thực chất đây chính là quyền của Bên nhận quyền do bên nhượng quyền quy định, thế nhưng lại được sắp xếp vào nhóm nghĩa vụ của Bên nhận quyền. Điểm 3, 4, 5, 6, 7, 8 Mục IX Phần B yêu cầu phải công khai chi tiết số lượng và tình trạng ký kết, thực hiện, gia hạn, chấm dứt hợp đồng nhượng quyền của bên nhượng quyền. Có vẻ như những yêu cầu này can thiệp quá sâu vào bí mật kinh doanh của bên nhượng quyền, và có thể gây ra rủi ro cho bên nhượng quyền nếu bên dự kiến nhận quyền không ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở đây, chỉ cần bên nhượng quyền cung cấp thông tin về số lượng cơ sở kinh doanh trong hệ thống nhượng quyền đang hoạt động hoặc đã chấm dứt trong thời gian 03 năm gần nhất, đối với trường hợp nào đã ký kết hợp đồng mà vẫn chưa triển khai thực hiện thì phải trình bày lý do cụ thể là đủ. Mục X Phần B yêu cầu bên nhượng quyền phải cung cấp nội dung báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong 01 năm gần nhất. Việc cung cấp nội dung báo cáo tài chính là hợp lý, tuy nhiên yêu cầu phải có kiểm toán có thực sự phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam không? Tại Hoa Kỳ, chỉ có một số tiểu bang mới đòi hỏi báo cáo tài chính của bên nhượng quyền phải có kiểm toán xác nhận mà thôi. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phần lớn chưa quen với việc kiểm toán, do đó thiết nghĩ chỉ nên yêu cầu cung cấp bản sao Báo cáo tài chính, quyết toán thuế đã được cơ quan thuế kiểm tra, xác nhận là được. Mục XI Phần B có tiêu đề “Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần phải tham gia” hoàn toàn không phù hợp với nội dung thông tin thể hiện sự cam kết của Bên nhượng quyền về tính chính xác, trung thực của Bản Giới thiệu nhượng quyền thương mại. Do đó, tiêu đề này đề xuất nên sửa lại là “Sự cam kết, chế tài và cơ quan tài phán được lựa chọn để đảm bảo thực hiện”. 3.3. Những quy định đối kháng, giữa các văn bản liên quan Khái niệm nhượng quyền thương mại trong Bộ luật Dân sự 2005 được hiểu là “cấp phép đặc quyền kinh doanh”, và được xếp vào nhóm đối tượng chuyển giao công nghệ quy định tại Điều 755 của Bộ luật. Tuy nhiên, theo Điều 7 Luật Chuyển giao công nghệ 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2007) thì cấp phép đặc quyền kinh doanh không thuộc phạm vi đối tượng chuyển giao công nghệ. Đây chính là điểm mâu thuẩn nghiêm trọng giữa Luật Chuyển giao công nghệ với Bộ Luật Dân sự. Mặt khác, theo quy định tại Điều 10 Nghị định 35, nếu việc nhượng quyền có liên quan việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thì phần chuyển giao đó có thể được lập thành một phần riêng trong hợp đồng nhượng quyền thương mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công nghiệp. Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005, thì việc chuyển giao quyền sử dụng quyền sở hữu công nghiệp phải thực hiện bằng hình thức hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (khoản 2 Điều 141 LSHTT).  Như vậy quy định nêu trên của Nghị định 35 chưa phù hợp với luật, đồng thời Luật Thương mại 2005 cũng không có bất kỳ quy định nào để nối kết một cách hợp lý với Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật Chuyển giao công nghệ 2006, do đó đã dẫn đến tình trạng “dẫm chân” lên nhau giữa các văn bản pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về thuế hiện tại vẫn chưa có quy định chính thức trong việc xác định các khoản chi phí, khoản thu là phí nhượng quyền, doanh thu từ nhượng quyền để hạch toán, tính thuế cho doanh nghiệp. Ngoài ra, về vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động nhượng quyền thương mại, Điều 24 Nghị định 35 đã liệt kê các hành vi phạm cụ thể và quy định việc xử lý được thực hiện bằng biện pháp xử phạt hành chính. Tuy nhiên, hiện nay, Chính phủ vẫn chưa ban hành nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. 4. Một số kiến nghị Nhượng quyền thương mại vẫn còn khá mới mẽ đối với Việt Nam, do đó rất cần sự hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước trong việc phát triển loại hình kinh doanh đặc thù này. Để thực hiện được điều này, Nhà nước cần phải có các chính sách xúc tiến, tư vấn, hỗ trợ đào tạo trong lĩnh vực Nhượng quyền thương mại . Đối với doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, Nhà nước nên khuyến khích họ thành lập, tham gia vào các hiệp hội Nhượng quyền thương mại để có điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tự đào tạo, đồng thời cũng là một trong những đầu mối tham khảo, phản biện xã hội để hoàn thiện về chính sách pháp luật về Nhượng quyền thương mại. Về những quy định pháp luật hiện thời, Nhà nước cần phải xem xét, làm rõ các khái niệm phạm vi điều chỉnh giữa các luật, văn bản pháp quy có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, ban hành các quy định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Nhượng quyền thương mại . Về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động hơn trong việc tìm kiếm, tiếp cận các kinh nghiệm, kiến thức và các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực Nhượng quyền thương mại. Để có được hiệu quả cao khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, doanh nghiệp phải có chiến lược xây dựng thương hiệu thật tốt, hệ thống kinh doanh được tổ chức hợp lý, hiệu quả và mang tính đặc thù. Cuối cùng, điều quan trọng hơn hết, chính doanh nghiệp, thông qua hoạt động thực tế của mình, phải tích cực hơn nữa trong việc đề xuất, đóng góp ý kiến cho Nhà nước để xây dựng các chương trình phát triển Nhượng quyền thương mại , ban hành các chính sách, quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. KẾT LUẬN Niên luận với kết cấu 2 chương đã phần nào làm rõ được pháp luật về nhượng quyền thương mại,đồng thời cũng cho ta cái nhìn rõ hơn giữa hình thức nhượng quyền thương mại với các loại hình thương mại khác.Bên cạnh đó qua tìm hiểu ta cũng nhìn nhận được những điểm còn bất cập trong pháp luật về nhường quyền thương mại về đăng ký,xác lập hợp đồng chuyển nhượng,nội dung hợp đồng…làm cho hoạt động nhượng quyền thương mại bị gặp khó khăn khi áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên thực tiễn hoạt động nhượng quyền thương mại tại các quốc gia phát triển và các quốc gia công nghiệp cho phép dự đoán rằng hoạt động nhượng quyền thương mại cũng sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là phương thức để các doanh nghiệp có thương hiệu phát triển mạng lưới kinh doanh một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Việt Nam đã và đang là thị trường nhiều tiềm năng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư quốc tế. Trong đó, phương thức nhượng quyền thương mại đang là một trong những phương thức phát triển hoạt động kinh doanh được nhiều doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn nhằm nhanh chóng tạo dựng chỗ đứng trên thị trường Việt Nam thay vì phải tiến hành những thủ tục pháp lý phức tạp để thiết lập hiện diện thương mại với phạm vi quyền kinh doanh có nhiều hạn chế bởi các cam kết quốc tế theo lộ trình gia nhập WTO. Đây cũng là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước tận dụng để học hỏi các kinh nghiệm quản lý kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến và hiện đại của thế giới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, không kể bên nhượng quyền hay bên nhận nhượng quyền thương mại cũng cần phải hết sức quan tâm tìm hiểu những mặt lợi và hại của mô hình kinh doanh này trước khi triển khai áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên để cho hoạt động này phát triển nhanh chóng và hiệu quả thì phải có một hành lang pháp lý vững chắc và ổn định cho nó. Các quy định pháp luật của Việt Nam đã bước đầu làm được điều đó nhưng trong thời gian tới các quy định này cần phải được sửa đổi bổ sung sao cho phù hợp hơn với thực tiễn. Để tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh quá trình ấy, nhà nước cần phải xây dựng nền kinh tế thị trường vững mạnh cơ chế pháp lý chặt chẽ nhưng vẫn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Luật Thương Mại 2005 Quốc hội ban hành ngày 14/06/2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006 [2] Luật Sở hữu trí tuệ 2005 Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005 có hiệu lực ngày 01/07/2006 [3] Luật Chuyển giao công nghệ 2006 Quốc hội ban hành ngày 29/11/2006 có hiệu lực ngày 01/07/2007 [4] Nghị định số 35/2006/NĐ-CP Chính phủ ban hành ngày 31/03/2006 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại [5] Thông tư số 09/2006/TT- BTM do Bộ thương mại ban hành ngày 25/05/2006 hướng dẫn đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại. [6] Giáo trình Luật Thương mại Trường Đại học Luật Hà Nội [7] Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư những vấn đề pháp lý cơ bản ( TS. Nguyễn Thị Dung chủ biên) [8] Nhượng quyền thương mại vấn đề doanh nghiệp cần lưu ý (TS. Trần Trung Kiên) [9] Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật canh tranh (NCS.Nguyễn Thanh Tú, Khoa Luật, Đại học Lund, Thụy Điển) [10] Nhượng quyền thương mại và chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu (Hoàng Tố Như - Phòng SHTT - Sở KH&CN TP.HCM) [11] [12] MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật về nhượng quyền thương mại.doc