Pháp luật về phòng chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng: thực trạng và hướng hoàn thiện
“Rửa tiền” hiện nay không chỉ là vấn đề của các thị trường tài chính hàng đầu thế giới mà ngay cả các quốc gia đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng không tránh khỏi. Đặc biệt là khi các cơ quan chức năng tại các thị trường, trung tâm tiền tệ hàng đầu thế giới đang nỗ lực chống lại các hoạt động rửa tiền thì những kẻ rửa tiền lại có động cơ và xu hướng để chuyển sang hoạt động tại các thị trường mới nổi. Trên thực tế, cho đến nay vẫn chưa có con số cụ thể nào thống kê về quy mô và tính nghiêm trọng do hoạt động rửa tiền ở Việt Nam gây ra, mặc dù vậy, từ các số liệu về thiệt hại từ tội phạm tham nhũng, ma tuý, các tội xâm phạm sở hữu phần nào đã cho chúng ta biết một lượng tiền và tài sản tương đối lớn đã và đang được tẩy rửa hàng năm.
“Vấn đề rửa tiền còn mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi càng hội nhập sâu thì nguy cơ dẫn đến rửa tiền càng lớn và tinh vi hơn”- đó là nhận định của ông Ric Power, đại diện của cơ quan Phòng chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc (UNODC) tại Việt Nam, trong hội thảo về phòng chống rửa tiền do Bộ Thông tin- truyền thông, Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Cơ quan Phòng chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc tổ chức ngày 21/07/2008. Rõ ràng nhận định trên của ông Ric Power là hoàn toàn có cơ sở, bởi vì theo ước tính, hiện nay, có khoảng từ 2% đến 5% GDP toàn cầu là tiền bất hợp pháp được "rửa" thông qua các hình thức khác nhau. Nếu chỉ tính mức thấp nhất là 2% thì con số này tại Việt Nam cũng được ước tính là khoảng 2,25 tỷ đô-la Mỹ[1]. Do đó, khi các nước phát triển có các biện pháp phòng chống rửa tiền chặt chẽ, với sự hỗ trợ của nền công nghệ thông tin hiện đại và tính thông dụng của các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thì những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ trở thành điểm ngắm của các cá nhân và tổ chức tội phạm. Với nền kinh tế đang được tập trung để phát triển, hệ thống luật pháp và tài chính ngân hàng còn đang trong quá trình hoàn thiện, cơ chế quản lý nguồn gốc thu nhập còn chưa rõ ràng, hệ thống chế tài xử phạt chưa cụ thể và nghiêm khắc, những quốc gia đang phát triển rất dễ bị các băng nhóm tội phạm lợi dụng để chu chuyển các khoản thu do phạm pháp mà có.
[1] Theo số liệu của cơ quan UNODC trong dự án “Tăng cường năng lực của các cơ quan pháp luật và thực thi pháp luật trong công tác phòng chống rửa tiền ở Việt Nam”
MỤC LỤC
NỘI
DUNG TRANG
LỜI CẢM ƠN
LỜI NÓI ĐẦU .4
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÁP LUẬT PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN .8
1. Khái quát chung về hoạt động rửa tiền . 8
1.1. Khái niệm . 8
1.2. Đặc điểm 9
1.3. Các phương thức rửa tiền 12
1.4. Tác hại của rửa tiền đối với kinh tế - xã hội 13
1.5. Rửa tiền trong hoạt động ngân hàng và tác hại của hoạt động rửa tiền đối với hệ thống ngân hàng 15
2. Khái quát chung về pháp luật phòng chống rửa tiền . 18
2.1. Sự cần thiết phải có pháp luật về phòng chống rửa tiền . 18
2.2. Pháp luật phòng chống rửa tiền trên thế giới 19
2.3. Pháp luật phòng chống rửa tiền ở Việt Nam .21
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM . . 23
1. Quy định về hoạt động rửa tiền . 23
2. Quy định về các biện pháp phòng chống rửa tiền . . 25
2.1. Biện pháp xây dựng quy tắc và bộ phận giám sát trong nội bộ tổ chức tín dụng 25
2.2. Biện pháp nhận biết khách hàng 26
2.3. Biện pháp báo cáo giao dịch vượt ngưỡng giá trị quy định 31
2.4. Biện pháp báo cáo giao dịch đáng ngờ . 34
2.5. Biện pháp tạm thời được áp dụng trong phòng, chống rửa tiền . .35
2.6. Biện pháp lưu trữ hồ sơ . .38
3. Quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước trong lĩnh vực phòng chống hoạt động rửa tiền trong hoạt động ngân hàng .39
3.1. Quy định về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền nói chung 39
3.2. Quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động phòng, chống rửa tiền 40
3.3. Quy định về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hoạt động phòng, chống rửa tiền 41
4. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng 47
5. Quy định về chế tài xử lý vi phạm và các biện pháp tư pháp .51
5.1. Quy định về chế tài xử lý vi phạm 51
5.2. Quy định về biện pháp tư pháp . .56
KẾT LUẬN . 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3333 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về phòng chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng, thực trạng và hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì vậy, không thể đợi tới khi có kết luận cuối cùng của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mới tiến hành các hoạt động phòng, chống rửa tiền mà trong cuộc chiến chống rửa tiền nhiều khi phải áp dụng các biện pháp có tính kịp thời nhằm ngăn chặn việc chuyển giao chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc chuyển dịch tiền và các tài sản khác có nguồn gốc bất hợp pháp. Do đó, việc pháp luật phòng, chống rửa tiền Việt Nam quy định các biện pháp tạm thời là một trong những biện pháp phòng, chống rửa tiền là hoàn toàn đúng đắn.
Điều 11 Nghị định 74/2005/NĐ-CP quy định trong quá trình phòng, chống rửa tiền, có thể áp dụng một trong các biện pháp tạm thời: không thực hiện giao dịch; phong toả tài khoản; niêm phong hoặc tạm giữ tài sản; tạm giữ người vi phạm và các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp tạm thời phải đúng thẩm quyền, đúng pháp luật và không ảnh hưởng tới sự an toàn của hệ thống tài chính - tiền tệ. Điều 11 cũng phân định rõ thẩm quyền áp dụng các biện pháp trên, theo đó thì cá nhân, tổ chức tại điều 6 Nghị định 74/2005/NĐ-CP chỉ có thẩm quyền áp dụng biện pháp không thực hiện giao dịch và áp dụng biện pháp phong toả tài khoản theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền điều tra được áp dụng tất cả các biện pháp còn lại.
Tuy nhiên theo chúng tôi, tại khoản 3 điều 11 quy định: “các cá nhân, tổ chức nêu tại Điều 6 Nghị định này được quyền áp dụng biện pháp không thực hiện giao dịch khi các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách nêu tại điểm b khoản 1 Điều 10 Nghị định này hoặc khi có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan tới hoạt động phạm tội” là chưa thật sự thoả đáng. Bởi vì ngoài lí do giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan tới hoạt động tội phạm, còn những lý do khác mà nếu tổ chức tín dụng thực hiện giao dịch thì sẽ ảnh hưởng xấu tới tổ chức tín dụng, thậm chí ảnh hưởng tới sự an toàn của hệ thống tài chính - tiền tệ. Đối với những giao dịch như vậy, thiết nghĩ pháp luật cũng nên trao cho tổ chức tín dụng quyền không thực hiện giao dịch.
Nghị định 74/2005/NĐ-CP chỉ nêu ra các biện pháp tạm thời áp dụng trong công tác phòng, chống rửa tiền, quy định về thủ tục niêm phong, phong toả lại nằm rải rác ở các Luật, Bộ luật khác. Trong số đó có Bộ luật Tố tụng Hình sự, được ghi nhận tại các điều 75 (thu thập và bảo quản vật chứng), 145 (tạm giữ đồ vật khi khám xét), 147 (trách nhiệm bảo quản đồ vật, tài liệu…bị tạm giữ hoặc niêm phong). Tuy nhiên Bộ luật Tố tụng Hình sự lại ghi nhận các biện pháp này với ý nghĩa để thu thập vật chứng, tài liệu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung chứ không chỉ riêng đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền hay là riêng đấu tranh phòng, chống rửa tiền. Mặt khác, với cách quy định tại điều 75, 145, 147,… thì “niêm phong tài sản” chưa thực sự tách rời như một biện pháp tạm thời được áp dụng mà chỉ như một thao tác kỹ thuật khi tạm giữ đồ vật, mặc dù tài sản khi bị niêm phong thì cũng không thể chuyển đổi, chuyển nhượng,…
Tại khoản 4 điều 11 Nghị định 74/2005/NĐ-CP quy định: “Cơ quan điều tra có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp: phong toả tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, tạm giữ người vi phạm và các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật”. Theo chúng tôi, quy định này cần phải được nghiên cứu và xem xét lại. Phòng, chống rửa tiền là một quá trình liên tục kể từ khi phát hiện đến điều tra, truy tố và xét xử. Trong quá trình đó, ở bất kỳ giai đoạn nào, thì cũng luôn cần có những quyết định kịp thời nhằm ngăn chặn những kẻ rửa tiền chuyển đổi, chuyển nhượng, dịch chuyển tiền hoặc tài sản bất hợp pháp nhằm xoá dấu vết của những hành vi phạm tội mà chúng đã gây ra. Do vậy không thể chỉ quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời như phong toả tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, tạm giữ người vi phạm và các biện pháp ngăn chặn khác cho riêng cơ quan điều tra.
Vì vậy, chúng tôi kiến nghị:
Nên mở rộng hơn các trường hợp tổ chức tín dụng được quyền từ chối thực hiện giao dịch. Theo chúng tôi, nên quy định tổ chức tín dụng được quyền áp dụng các biện pháp không thực hiện giao dịch khi các bên liên quan tới giao dịch có liên quan tới các hoạt động tội phạm thuộc danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an lập ra trong quá trình phòng, chống rửa tiền hoặc khi có bất cứ cơ sở nào cho rằng giao dịch mà khách hàng yêu cầu có liên quan tới hành vi rửa tiền hoặc việc thực hiện giao dịch mà khách hàng yêu cầu sẽ ảnh hưởng tói sự an toàn của tổ chức tín dụng đó nói riêng và tới hệ thống tài chính nói chung.
Nên quy định biện pháp phong toả tài sản thay cho niêm phong tài sản để phân biệt rõ biện pháp tạm thời này với một thao tác kỹ thuật khi tạm giữ tài sản. Ngoài ra còn phải quy định rõ hơn nữa các điều kiện áp dụng, chủ thể quản lý tài sản, nghĩa vụ bảo quản tài sản cũng như trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ bảo quản tài sản gây ra.
Sửa quy định tại khoản 4 điều 11 Nghị định 74/2005/NĐ-CP thành : “Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp phong toả tài khoản, phong toả hoặc tạm giữ tài sản, tạm giữ người vi phạm và các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật” để phù hợp với các văn bản pháp luật khác cũng như với thực tế đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
Biện pháp lưu trữ hồ sơ
Khoản 5 điều 8 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền quy định “Ngoài việc lưu giữ, bảo quản thông tin theo chế độ hiện hành, các cá nhân, tổ chức nêu tại Điều 6 Nghị định này có trách nhiệm lưu giữ thông tin nhận biết khách hàng có liên quan tới các giao dịch quy định tại khoản 1 Điều này ít nhất 5 năm kể từ ngày đóng tài khoản hoặc 5 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch”. Đây là quy định hoàn toàn hợp lý, phù hợp với yêu cầu thực tiễn phòng, chống rửa tiền và phù hợp pháp luật quốc tế. Theo điều 2.2.9 Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc thì các định chế tài chính và phi tài chính phải lưu giữ và sẵn sàng cung cấp cho cơ quan tình báo tài chính và cơ quan khác có thẩm quyền các thông tin có liên quan đến khách hàng, chủ sở hữu thực sự, hồ sơ về tài khoản và các giao dịch ít nhất 5 năm kể từ ngày quan hệ kinh doanh kết thúc. FATF cũng khuyến nghị: “Các định chế tài chính cần duy trì, ít nhất trong 5 năm, tất cả các hồ sơ cần thiết về các giao dịch cả trong nước và quốc tế, để cho phép các định chế này tuân thủ nhanh chóng các yêu cầu cung cấp thông tin của các cơ quan có thẩm quyền. Các hồ sơ này cần phải đầy đủ để cho phép tái lập lại từng giao dịch cá nhân (kể cả số lượng và loại tiền liên quan) nhằm cung cấp bằng chứng cho việc truy tố hoạt động tội phạm khi cần thiết” Theo Khuyến nghị số 10, Bốn mươi khuyến nghị của FATF,
Quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước trong lĩnh vực phòng chống hoạt động rửa tiền trong hoạt động ngân hàng
Quy định về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền nói chung
Rửa tiền có ảnh hưởng sâu, rộng đối với toàn xã hội nên toàn xã hội phải cảnh giác, tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống rửa tiền. Phòng, chống rửa tiền không đơn giản chỉ là việc làm của các cá nhân, tổ chức liên quan hoặc của cơ quan Nhà nước mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1 điều 5 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền thì: “Phòng, chống rửa tiền là trách nhiệm của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức”, đồng thời pháp luật phòng, chống rửa tiền Việt Nam cũng nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoặc tạo điều kiện cho hoạt động rửa tiền. Bên cạnh đó, tại khoản 3 điều 12 Nghị định 74/2005/NĐ-CP có quy định : “Các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, nếu phát hiện những giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ, có thể tố giác, cung cấp thông tin hoặc thông báo bằng văn bản hoặc bằng các phương thức hợp pháp khác cho Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Mặc dù vậy nhưng trên thực tế, trách nhiệm phòng, chống rửa tiền tập trung vào các cá nhân, tổ chức trực tiếp liên quan tới những hoạt động tài chính nhạy cảm và phức tạp: các định chế tài chính được nêu khoản 1 điều 6 Nghị định 74/2005/NĐ-CP; một số cá nhân, tổ chức khác theo quy định tại khoản 2 điều 6 Nghị định 74/2005/NĐ-CP và các cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý lĩnh vực ngân hàng như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền; các cơ quan quản lý và kiểm soát hoạt động tội phạm như Bộ Công an; các bộ, ban, ngành khác; Uỷ ban nhân dân các cấp…
Quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động phòng, chống rửa tiền
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng nhưng dựa vào quy định tại khoản 1, điều 7 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm phải xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ bảo đảm cho việc phòng, chống rửa tiền có hiệu quả và đúng pháp luật; phân công cán bộ triển khai thực hiện các chính sách, kế hoạch, quy trình, biện pháp phòng, chống rửa tiền; xây dựng quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng; lưu giữ, cập nhật số liệu và báo cáo các giao dịch đáng ngờ; kịp thời thực hiện các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong việc phòng, chống rửa tiền; đào tạo nhân viên để thực hiện tốt việc phòng, chống rửa tiền; áp dụng theo thẩm quyền các biện pháp tạm thời quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng còn có nghĩa vụ không được thông báo cho các bên liên quan đến giao dịch về việc báo cáo và nội dung báo cáo hoặc thông tin đã cung cấp Theo khoản 2 điều 12 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
. Tuy nhiên tổ chức tín dụng thực hiện trách nhiệm báo cáo hoặc cung cấp thông tin có liên quan đến giao dịch không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng hay các quy định khác về đảm bảo bí mật thông tin cho khách hàng.
Quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động phòng, chống rửa tiền.
Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hoạt động phòng, chống rửa tiền được quy định từ điều 15 đến điều 19 Nghị định 74/2005/NĐ-CP. Theo đó hai cơ quan Nhà nước có vai trò chủ đạo trong công tác phòng, chống rửa tiền là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ công an, ngoài ra Nghị định 74/2005/NĐ-CP cũng quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc Chính Phủ, trách nhiệm của tổ chức thanh tra Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm: Chủ trì và phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan hữu quan xây dựng và thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch công tác phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, nghiên cứu và đề ra các giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trên lãnh thổ Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn phải trao đổi kết quả công tác phòng, chống rửa tiền với các cơ quan hữu quan và làm đầu mối tổng hợp báo cáo trình Chính phủ theo định kỳ hoặc khi chính phủ yêu cầu. Bên cạnh đó còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ theo quy định của pháp luật; chuyển tài liệu, hồ sơ vụ việc có thể liên quan tới rửa tiền cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra còn có trách nhiệm nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ xử lý thông tin về phòng, chống rửa tiền; đào tạo cán bộ chuyên trách cho các đơn vị có liên quan của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các định chế tài chính về phân tích, xử lý thông tin và phát hiện rửa tiền. Theo điều 15 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
Bộ Công an có trách nhiệm: chủ trì và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có liên quan đến rửa tiền; đồng thời tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm có liên quan tới rửa tiền. Một trách nhiệm khác của Bộ công an là tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó Bộ Công an phải tổ chức lực lượng điều tra tội phạm có liên quan đến rửa tiền và hướng dẫn các cơ quan khác tiến hành điều tra ban đầu các tội phạm có liên quan đến rửa tiền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và Nghị định 74/2005/NĐ-CP. Khi có kết quả điều tra điều tra các vụ việc có liên quan tới rửa tiền, Bộ Công an phải thông báo kết quả cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam biết. Đồng thời, trao đổi thông tin, tài liệu cần thiết về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của bọn tội phạm trong lĩnh vực rửa tiền ở trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra, Bộ Công an còn có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm có liên quan đến rửa tiền. Theo diều 16 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm: kịp thời phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong phòng, chống rửa tiền và phòng, chống tội phạm rửa tiền trong phạm vi quyền hạn của mình; tổng hợp công tác phòng, chống rửa tiền thuộc lĩnh vực quản lý theo định kỳ; gửi báo cáo kết quả về Ngân hàng nhà nước Việt Nam; hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền. Theo diều 17 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
Các tổ chức Thanh tra Bộ có trách nhiệm: chia sẻ thông tin kịp thời đầy đủ theo quy định pháp luật với Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác; tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền hành vi vi phạm hành chính đối với các đơn vị thuộc đối tượng quản lý của Bộ, ngành mình khi có những giao dịch liên quan tới rửa tiền theo đề nghị của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo điêu 18 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm: hướng dẫn các đơn vị, bộ phận trực thuộc nghiên cứu, thực hiện các quy định phòng, chống rửa tiền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các chính sách, đường lối, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền. Theo điều 19 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
Một cơ quan Nhà nước quan trọng nữa phải được đề cập đến là Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (Anti-money laundering information center - AMLIC). Trung tâm này được thành lập tháng 03/2007 theo quy định tại điều 14 Nghị định 74/2005/NĐ-CP. Nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm đã được cụ thể hoá một bước tại Quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền ban hành kèm theo Quyết định số 1727/QĐ-NHNN ngày 23/07/2007, theo đó, Trung tâm thông tin có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật;
Làm đầu mối tiếp nhận và xử lý thông tin phòng, chống rửa tiền;
Yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp tài liệu, hồ sơ các thông tin về các giao dịch phải báo cáo và giao dịch đáng ngờ;
Chuyển cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tài liệu, hồ sơ vụ việc có thể liên quan tới rửa tiền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật;
Giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
Phối hợp với các đơn vị chức năng trong việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyên môn.
Từ những quy định trên có thể thấy, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam được tổ chức và hoạt động tương tự như Cơ quan Tình báo tài chính (Financial Intelligence Unit - FIU) theo khuyến nghị của FATF hay theo Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc. Theo đó, FIU là một Cơ quan Nhà nước Trung ương chịu trách nhiệm nhận (và được phép yêu cầu), phân tích và phổ biến tới các cơ quan có thẩm quyền những thông báo về thông tin tài chính liên quan đến các khoản tiền bị nghi ngờ là của tội phạm hay do luật hoặc quy định của quốc gia yêu cầu nhằm chống hoạt động rửa tiền
.
Trên thế giới, mỗi nước thành lập và trao cho FIU một số chức năng khác nhau nhưng hầu hết, FIU đều có ba chức năng chính: một là, chức năng thu nhận, lưu giữ và tập trung thông tin được báo cáo; hai là, chức năng phân tích thông tin bao gồm cả phân tích chiến thuật, phân tích nghiệp vụ và phân tích chiến lược; ba là, chức năng phổ biến thông tin để đấu tranh chống hoạt động rửa tiền, bao gồm cả phổ biến thông tin trong nước và quốc tế.
Như vậy, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền về cơ bản đã phù hợp với các văn bản hướng dẫn phòng, chống rửa tiền của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên vai trò của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền chưa thực sự rõ ràng trong việc chia sẻ thông tin quốc tế. Theo điều 20 Nghị định 74/2005/NĐ-CP thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới là đầu mối đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước và thoả thuận quốc tế trong việc trao đổi thông tin về các giao dịch đáng ngờ có liên quan tới rửa tiền.
Mặt khác, quy định về chức năng của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền đặc biệt là chức năng phân tích và xử lý thông tin, pháp luật Việt Nam chỉ mới đề cao chức năng phân tích chiến thuật và phân tích nghiệp vụ mà chưa quy định về chức năng phân tích chiến lược của Trung tâm này. Tuy những phân tích này không liên quan đến từng trường hợp rửa tiền cụ thể nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu và đề ra những xu hướng của hoạt động rửa tiền, từ đó để tìm ra những phương pháp và bước đi đúng đắn để chống lại hoạt động nguy hiểm này.
Cũng theo quy định tại điều 14 Nghị định 74/2005/NĐ-CP thì Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trụ sở chính đặt trụ sở chính tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; có Giám đốc và một số Phó giám đốc do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bổ nhiệm; chức năng, nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định... Từ những quy định trên có thể thấy, Việt Nam đang xây dựng Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền theo mô hình hành chính Trên thế giới có 4 kiểu mô hình FIU:
Mô hình hành chính: FIU trực thuộc một cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính, thường là Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ tài chính…
Mô hình thi hành pháp luật, FIU gắn liền với một cơ quan có thẩm quyền điều tra, như Bộ Công an.
Mô hình Toà án hoặc công tố, FIU trực thuộc một cơ quan xét xử hoặc là cơ quan giữ quyền công tố.
Mô hình hỗn hợp, là sự kết hợp của ba mô hình trên
. Trên thế giới, cũng có nhiều nước lựa chọn mô hình này như Canada, Ba Lan, Nga… Paul Allan Schott, hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2007
. So với những mô hình FIU còn lại thì mô hình hành chính của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền đang bộc lộ những ưu điểm và hạn chế sau:
Về ưu điểm: một là, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền được đặt ngay trong Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, điều này dễ tạo niềm tin cho các tổ chức tín dụng khi báo cáo và tiết lộ thông tin các giao dịch của khách hàng hơn là một mô hình FIU theo kiểu Thi hành pháp luật hoặc Toà án hoặc công tố, do tâm lý e ngại thông tin cung cấp ngoài sử dụng điều tra tội phạm rửa tiền còn được sử dụng để điều tra bất kỳ tội phạm nào. Đồng thời việc Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền tiếp cận dữ liệu của tổ chức tín dụng chỉ cần dựa trên yêu cầu cung cấp mà không cần mở bất kỳ cuộc điều tra chính thức nào. Hai là, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền sẽ dễ dàng chia sẻ và phổ biến thông tin đối với các cơ quan trong nước và các FIU quốc tế so với các FIU kiểu Thi hành pháp luật hoặc Toà án hoặc công tố, do các mô hình này phải đảm bảo nhiều yếu tố bí mật hơn.
Tuy nhiên, xây dựng một Cơ quan Tình báo tài chính theo mô hình hành chính cũng có nhược điểm của nó. Vì Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền không phải là một bộ phận của cơ quan thi hành pháp luật nên không có thẩm quyền trong việc ra các quyết định về áp dụng biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn sớm nhất các nguy cơ rửa tiền. Từ đó có thể dẫn đến sự chậm trễ trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Từ các phân tích trên, chúng tôi xin kiến nghị:
Một là, cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các tổ chức tín dụng vì đây là điểm then chốt trong công tác phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời cần có văn bản pháp luật chính thức hướng dẫn tổ chức tín dụng xây dựng quy tắc phòng, chống rửa tiền và bộ phận giám sát trong nội bộ ngân hàng.
Hai là, cần quy định rõ hơn tính độc lập của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền cũng như trách nhiệm của trung tâm này trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Ba là, do hoạt động rửa tiền đang được thực hiện trên quy mô toàn cầu nên việc chia sẻ thông tin quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền là tất yếu. Vì vậy cần quy định rõ hơn chức năng chia sẻ thông tin quốc tế của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền và không ngừng hoàn thiện những quy định đó để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động này. Đồng thời cũng phải hướng tới gia nhập nhóm Egmont Egmont là nhóm các đơn vị FIU được đặt tên theo địa điểm họp đầu tiên của Nhóm, là cung điện Egmont – Arenberg tại Brussels; mục tiêu của nhóm là tạo lập một diễn đàn cho các FIU, nhằm tăng cường hỗ trợ cho từng chương trình trong các chương trình phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố của quốc gia; phối hợp các sáng kiến phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Sự hỗ trợ bao gồm : Mở rộng và hệ thống hoá việc trao đổi thông tin tình báo tài chính theo mục đích và nguyên tắc đã được Nhóm tuyên bố; tăng cường kỹ năng chuyên môn và năng lực cho đội ngũ cán bộ và thúc đẩy các mối liên lạc tốt hơn giữa các FIU.
. Điều này cũng là phù hợp với xu hướng quốc tế để tham gia vào cuộc chiến quốc tế hoá chống rửa tiền này. Trên thế giới đã có 108 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia vào Nhóm, trong đó có nhiều nước thuộc ASEAN như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Philipin ,Cập nhật tới tháng 05/2008
.
Bốn là, quy định thêm chức năng phân tích chiến lược cho Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền, nhằm tìm hiểu nghiên cứu các thủ đoạn, xu hướng rửa tiền mới, nghiên cứu để tìm ra những điểm chưa phù hợp của pháp luật phòng, chống rửa tiền với tình hình thực tiễn của công tác này, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền cũng như các chiến lược phòng, chống rửa tiền khác.
Năm là, để phát huy những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền, theo chúng tôi có hai hướng giải quyết: thứ nhất, quy định việc thành lập và hoạt động của Trung tâm theo kiểu mô hình hỗn hợp, tức là vừa là một cơ quan hành chính, vừa là một cơ quan có chức năng điều tra. Từ đó, Trung tâm sẽ có cả thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác phòng, chống rửa tiền. Thứ hai, vẫn giữ nguyên mô hình Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền theo kiểu hành chính và quy định cụ thể hơn về cơ chế hợp tác, phối hợp giữa Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền và các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Theo chúng tôi, nên giải quyết theo hướng thứ hai, nhằm tránh tình trạng mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật vì hiện nay, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) mới có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp như phong toả tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản; tạm giữ người vi phạm,…vì đây là những biện pháp ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền tự do công dân.
Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng
Dựa vào tính chất phức tạp của các giao dịch tài chính, những kẻ rửa tiền - với các thủ đoạn ngày càng tinh vi – đang sử dụng hệ thống tài chính quốc tế cởi mở để thu lợi từ dòng vốn dịch chuyển tự do và che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của các khoản tiền bất chính và tiếp tục những hoạt động phi pháp của chúng. Trong bối cảnh quốc tế hoá cuộc chiến chống rửa tiền, việc các cơ quan Nhà nước ở các quốc gia khác nhau, nhanh chóng trao đổi thông tin và tiến hành hợp tác đã và đang trở thành một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi thế giới.
Tuy nhiên hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp vì dễ xâm phạm đến quyền lợi, thậm chí đến chủ quyền của quốc gia. Vì vậy để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phòng, chống rửa tiền nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho công tác phòng, chống rửa tiền, hầu hết các quốc gia đều quy định nội dung hợp tác quốc tế trong pháp luật phòng, chống rửa tiền của mình.
Tại điều 4 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền quy định nguyên tắc: “Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phi pháp trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, các bên cùng có lợi và được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp các Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác”. Như vậy Việt Nam luôn coi trọng sự hợp tác quốc tế trên cơ sở đặt độc lập, chủ quyền quốc gia lên hàng đầu, đồng thời hướng tới sự bình đẳng, các bên cùng có lợi. Bên cạnh đó, Việt Nam ưu tiên áp dụng các Điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia trong lĩnh vực này. Phù hợp với nguyên tắc trên, các nhà làm luật Việt Nam đã dành chương IV, từ điều 20 đến điều 22, Nghị định 74/2005/NĐ-CP quy định vấn đề hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
Theo đó, hai cơ quan Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong công tác hợp tác quốc tế phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Công an. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là “đầu mối đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước và thoả thuận quốc tế trong việc trao đổi thông tin về các giao dịch đáng ngờ có liên quan tới rửa tiền” còn Bộ Công an “có trách nhiệm chủ trì đàm phán, ký kết các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, dẫn độ và hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến rửa tiền; tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và Điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm có liên quan đến rửa tiền” Theo quy định tại điều 20 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền.
Như đã trình bày ở trên, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền rất phức tạp vì vậy trong lĩnh vực này, không chỉ dựa vào quy định tại Nghị định 74/2005/NĐ-CP mà còn dựa vào các quy định về hợp tác quốc tế ở các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật tương trợ tư pháp,… đặc biệt là khi giải quyết các vấn đề Hình sự liên quan tới yêu cầu tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm rửa tiền…
Bên cạnh đó, tham gia ký kết hoặc gia nhập các Điều ước quốc tế đa phương và song phương cũng là một giải pháp được nhiều quốc gia lựa chọn. Việt Nam đã ký kết Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia tháng 12/2000 tại Palermo, Italia. Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước Buôn bán bất hợp pháp ma tuý và các chất hướng thần 1988 (Công ước Viên 1988). Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị môi trường pháp lý để thực thi các Công ước này. Tính tại thời điểm hiện tại, Việt Nam cũng đã ký kết 15 Hiệp định song phương về tương trợ tư pháp và 01 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa 8 nước ASEAN. Trừ Hiệp định với Cộng hoà Pháp, các Hiệp định còn lại đều quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự với bốn nội dung cơ bản là: phạm vi tương trợ tư pháp, từ chối tương trợ tư pháp, các cách thức thực hiện tương trợ tư pháp, chuyển giao tiền và tài sản do phạm tội mà có, dẫn độ tội phạm (Hiệp định với Trung Quốc không quy định vấn đề này).
Bên cạnh hợp tác quốc tế trong các hoạt động tương trợ tư pháp và dẫn độ tội phạm rửa tiền thì hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thông tin phòng, chống rửa tiền cũng là vấn đề quan trọng. Pháp luật Việt Nam quy định: khi có yêu cầu hợp tác quốc tế liên quan đến phòng, chống rửa tiền, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm kịp thời thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc Bộ Công an, tuỳ thuộc vào nội dung của yêu cầu hợp tác. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về phạm vi nội dung thông tin được phép trao đổi, trong khi đó việc tiết lộ các thông tin tài chính của các tổ chức tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của khách hàng, tổ chức tín dụng thậm chí là cả lợi ích quốc gia. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu trao đổi thông tin dựa trên cơ sở các Điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập (bao gồm cả các Hiệp định tương trợ tư pháp), và dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia và các lợi ích quan trọng khác của quốc gia.
Như vậy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hợp tác với cộng đồng quốc tế để đấu tranh với tệ nạn rửa tiền. Việt Nam đã xây dựng cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ để thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền nói chung và phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng nói riêng. Mặc dù vậy, để thúc đẩy hơn nữa, sự hợp tác quốc tế một cách có hiệu quả trong lĩnh vực này cũng cần xem xét để cân nhắc:
Tiếp tục đàm phán và ký kết các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, dẫn độ với các quốc gia khác để tạo điều kiện thuận lợi phòng, chống tội phạm rửa tiền đồng thời để có cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện các biện pháp phong toả, tạm giữ, tịch thu tiền và tài sản bị đem rửa.
Để đẩy mạnh việc hợp tác trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền cần áp dụng linh hoạt các Điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế đa phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập làm cơ sở để thực hiện việc hợp tác. Tăng cường ký kết Điều ước quốc tế song phương trong đó quy định rõ: cơ quan yêu cầu hợp tác quốc tế phải nêu rõ trong yêu cầu mục đích và phạm vi sử dụng thông tin yêu cầu cung cấp, phải tuân thủ các quy định về bảo mật thông tin như những điều kiện được áp dụng với cơ quan được yêu cầu. Đồng thời ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện yêu cầu trao đổi thông tin cho các cơ quan tham gia hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền có chức năng này.
Quy định về chế tài xử lý vi phạm và các biện pháp tư pháp
Một khuôn khổ pháp lý phòng, chống rửa tiền toàn diện và hiệu quả, ngoài quy định và thực hiện kịp thời các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hành vi rửa tiền còn phải có hệ thống chế tài và các biện pháp tư pháp khác.
Hệ thống chế tài và các biện pháp tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Thứ nhất, nó bắt buộc các tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là các tổ chức tín dụng và nhân viên trong các tổ chức đó, phải luôn có ý thức cảnh giác và nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Thứ hai, quy định như vậy nhằm trừng phạt, răn đe những kẻ vi phạm và chuẩn bị vi phạm pháp luật phòng, chống rửa tiền, đồng thời khắc phục phần nào hậu quả chúng đã gây ra. Thứ ba,việc quy định các chế tài hình sự nhằm xử lý tội phạm rửa tiền tạo cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm nguồn, đồng thời tạo điều kiện cho việc hợp tác quốc tế phòng, chống rửa tiền nói chung và phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng. Theo pháp luật hiện hành thì khi vi phạm pháp luật phòng, chống rửa tiền sẽ phải chịu các trách nhiệm pháp lý sau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật chất và trách nhiệm kỷ luật. Biện pháp tư pháp được áp dụng là tịch thu tiền và tài sản.
Quy định về chế tài xử lý vi phạm
Theo khoản 1 điều 24 Nghị định 74/2005/NĐ-CP thì “người phạm tội có liên quan đến rửa tiền thì bị xử lý theo Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Pháp luật Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự riêng đối với trường hợp rửa tiền trong hoạt động ngân hàng mà quy định chung đối với các tội phạm rửa tiền trong lĩnh vực khác nhau. Pháp luật Hình sự cũng chưa chính thức sử dụng thuật ngữ “rửa tiền” tuy nhiên để trừng trị những người thực hiện các hành vi rửa tiền, Bộ Luật Hình sự có quy định 2 tội: tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại điều 250 và tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có tại điều 251.
Điều 251 Bộ Luật Hình sự quy định về tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có với mức hình phạt hết sức nghiêm khắc - phạt tù từ 1năm đến 15năm. Về mặt khách quan, điều 251 không mô tả cụ thể các hành vi rửa tiền mà quy định một cách khái quát, theo đó, bất cứ hành vi nào thông qua các nghiệp vụ tài chính ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp hoá tiền và tài sản do phạm tội mà có hoặc dùng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc kinh doanh hoặc tiến hành các hoạt động kinh tế khác thì bị coi là hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Về mặt chủ quan, tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Người phạm tội biết rõ tiền, tài sản là do phạm tội mà có và đã hợp pháp hoá hoặc sử dụng tiền tài sản đó vào việc kinh doanh hoặc tiến hành các hoạt động kinh tế khác để tạo vỏ bọc hợp pháp cho tiền, tài sản đó.
Bên cạnh, tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, Bộ Luật Hình sự cũng quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (điêu 250) với mức hình phạt nghiêm khắc - phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù đến 15 năm.
Mặt khách quan của tội này được thể hiện ở hành vi chứa chấp (như cất giữ, giấu giếm,…) hoặc tiêu thụ (như mua bán đổi chác) tài sản do người khác phạm tội mà có, những hành vi này phải được tiến hành mà không có sự hứa hẹn từ trước với người thực hiện tội phạm nguồn. Nếu có sự hứa hẹn trước thì người chứa chấp, tiêu thụ tài sản sẽ bị coi là đồng phạm với người đã thực hiện tội phạm nguồn với vai trò giúp sức.
Về mặt chủ quan, tội phạm này cũng được thực hiện với lỗi cố ý. Điều luật quy định rõ khi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản người thực hiện hành vi phải biết rõ tài sản đó là do người khác phạm tội mà có.
Ngoài việc quy định các tội phạm cụ thể, phần chung của Bộ Luật Hình sự Việt Nam còn có các quy định về trách nhiệm hình sự và về việc quyết định hình phạt trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm (các điều 17, 18, 20, 52 và 53 Bộ Luật Hình sự). Do vậy, những người có hành vi chuẩn bị phạm tội tại điều 250, 251 Bộ Luật Hình sự cũng như người thực hiện các tội phạm này nhưng chưa đạt và những người tham gia vào quá trình hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có với vai trò tổ chức, xúi giục hay hỗ trợ thực hiện các tội phạm này cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm này. Đặc biệt, việc phạm tội có tổ chức tức là một hình thức đồng phạm ở mức độ cao thể hiện ở sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm bị coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với những người tham gia thực hiện tội phạm trong trường hợp này được luật quy định cao hơn hẳn so với những trường hợp phạm tội thông thường.
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức (pháp nhân), khi tổ chức vi phạm pháp luật phòng, chống rửa tiền thì tuỳ vào mức độ vi phạm mà có thể bị xử phạt hành chính hoặc phải bồi thường thiệt hại…
Khoản 2 điều 24 Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền quy định cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền mà có hành vi vi phạm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 30 triệu đồng. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không có thời hạn đối với giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề được sử dụng để vi phạm; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định tại Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền trong khi thi hành nhiệm về phòng, chống hoạt động rửa tiền thì còn có thể bị xử lý kỷ luật.
Theo quy định tại các điều 622, 623, 624 của Bộ luật Dân sự thì tổ chức (công ty, cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức khác) phải bồi thường thiệt hại do nhân viên của mình gây ra trong khi thi hành nhiệm vụ được giao.
Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều quy định rửa tiền là một tội phạm hình sự. Công ước Palermo 2000 và Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc (tại điều 5.2.1) đều định nghĩa tội phạm rửa tiền là hành vi:
Chuyển đổi, chuyển nhượng tài sản mà người đó biết, phải biết hoặc nghi ngờ là tài sản do phạm tội mà có nhằm mục đích giấu giếm hoặc che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản để giúp bất kỳ người nào tham gia thực hiện tội phạm nguồn tránh khỏi những hậu quả pháp lý do hành vi của người đó gây ra.
Giấu giếm hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, đặc điểm, sự định đoạt, sự dịch chuyển hoặc quyền sở hữu và các quyền liên quan đến tài sản mà người đó biết, buộc phải biết hoặc nghi ngờ là tài sản do phạm tội mà có.
Việc có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đó mà người đó biết, phải biết hoặc nghi ngờ là tài sản do phạm tội mà có.
Tham gia, liên kết hoặc âm mưu thực hiện, cố gắng để thực hiện, xúi giục, tạo điều kiện và chỉ dẫn thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định theo điều này.
Khái niệm trên được đông đảo quốc gia trên thế giới chấp nhận và sử dụng. Nếu so sánh với những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền thì có thể thấy, điểm bất cập lớn nhất là hai tội phạm quy định tại điều 250 và 251 đều quy định những hành vi rửa tiền khác nhau nhưng lại chưa bao quát hết các trường hợp, hành vi rửa tiền như: sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc đánh bạc hợp pháp (casino), làm quà tặng, làm từ thiện, tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch và các hoạt động phi lợi nhuận khác; dịch chuyển tài sản biết rõ là do phạm tội mà có từ nơi này sang nơi khác nhằm mục đích che giấu hoặc nguỵ trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản... Bên cạnh đó, điều 251 Bộ luật Hình sự cũng chưa thực sự quy định rõ về hành vi rửa tiền qua ngân hàng, trong khi đó, ngân hàng có vai trò là người gác cổng của hệ thống tài chính quốc gia, việc ngăn chặn và trừng trị những kẻ dùng ngân hàng để rửa tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999 Theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999 của Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội phiên họp thứ 19 tháng 4/2009. Đường link:
, cũng đã có ý kiến giữ nguyên điều 250 và sửa đổi điều 251 Bộ luật Hình sự thành tội rửa tiền. Trong đó, tội rửa tiền bao gồm 4 nhóm hành vi sau:
- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền hoặc tài sản khác biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó;
- Sử dụng tiền hoặc tài sản khác biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;
- Che giấu các thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền hoặc tài sản khác biết rõ là do phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;
- Thực hiện một trong các hành vi nêu trên đối với tiền hoặc tài sản khác biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Như vậy, 4 nhóm hành vi trên đã khái quát được tương đối đầy đủ các trường hợp rửa tiền, đồng thời cũng đã phù hợp với định nghĩa của Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc.
Vì vậy, nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống rửa tiền nói chung, phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng nói riêng và để phù hợp với yêu cầu quốc tế về phòng, chống rửa tiền, chúng tôi ủng hộ quan điểm sửa đổi điều 251 Bộ luật Hình sự 1999 thành tội rửa tiền. Tuy nhiên chúng tôi kiến nghị hợp nhất tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (điều 250) vào tội rửa tiền. Vì thực chất theo định nghĩa trên của Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc thì chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng là một hình thức rửa tiền.
Quy định về biện pháp tư pháp
Muốn đấu tranh hiệu quả với tội phạm rửa tiền cần phải có những biện pháp triệt để, không cho phép chúng hưởng lợi từ hoạt động rửa tiền. Một trong những biện pháp đó là xây dựng cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể xác định, truy nguyên và tịch thu tiền và tài sản do tội phạm đem lại, tách chúng ra khỏi tội phạm rửa tiền và đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước hoặc trao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Mặc dù biện pháp “tịch thu” không được đề cập trong Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền nhưng lại được quy định trong Bộ Luật Hình sự. Theo điều 41 Bộ Luật Hình sự 1999 về Tịch thu vật, tiền, trực tiếp liên quan đến tội phạm thì việc tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với các trường hợp: Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; Vật, tiền do phạm tội hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có; vật, tiền thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có,công cụ, phương tiện phạm tội cũng như tiền, tài sản đã bị tẩy rửa đều được coi là vật chứng Theo điều 74 Bộ luật tố tụng Hình sự thì : Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
của vụ án.Với tư cách là vật chứng của vụ án thì những loại tài sản này được xử lý theo quy định tại điều 76 Bộ luật Tố Tụng Hình sự, theo đó thì: Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu huỷ; vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hợp pháp hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản thỉ có thể bán theo quy định của pháp luật; vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.
FATF và Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc cũng đề cập tới biện pháp tịch thu tiền và tài sản phạm tội. Cụ thể, theo khuyến nghị 3 của FATF về các biện pháp tạm thời, tịch thu tài sản thì: các quốc gia cần áp dụng các biện pháp tương tự như những biện pháp quy định trong Công ước Viên 1988 và Công ước Palermo 2000, bao gồm cả các biện pháp lập pháp, để cho phép các cơ quan có thẩm quyền tịch thu tài sản bị tẩy rửa, các khoản thu nhập từ rửa tiền hoặc từ tội phạm nguồn, các công cụ được sử dụng hoặc dự định sử dụng cho việc thực hiện tội phạm đó, hoặc tài sản có giá trị tương đương, mà không gây ảnh hưởng gì tới quyền của những bên thứ ba ngay tình. Theo Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc tại điều 5.3.1 thì trong trường hợp một người bị kết án về tội rửa tiền, tội phạm nguồn và tài trợ cho khủng bố hoặc chuẩn bị phạm các tội trên, sẽ bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tịch thu: tiền và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm, bao gồm cả những tài sản đã được tẩy rửa hoặc đã được gộp với tài sản có nguồn gốc hợp pháp hoặc tài sản có giá trị tương ứng; tiền và tài sản là công cụ của tội phạm; tiền và tài sản là thu nhập và các lợi nhuận khác từ tiền và tài sản do phạm tội mà có; các phương tiện thực hiện tội phạm; tiền và các tài sản nói trên đã được chuyển nhượng cho người khác, trừ trường hợp người đó chứng minh được hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận là bên thứ ba ngay tình.
Như vậy, so với khuyến nghị 3 của FATF và Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc thì cơ chế tịch thu của Việt Nam còn một số hạn chế sau:
Điều 41 Bộ Luật Hình sự mới chỉ đề cập đến tiền, tài sản do “mua bán, đổi chác” tài sản do phạm tội mà có. Trong khi đó, thuật ngữ mua bán, đổi chác chưa bao quát được tất cả các hành vi tẩy rửa tài sản, chẳng hạn tài sản có được là lãi suất tiền gửi của ngân hàng.
Pháp luật chưa hướng dẫn cụ thể về việc tịch thu tài sản có giá trị tương đương hoặc tài sản do phạm tội mà có đã được gộp vào với những tài sản có nguồn gốc hợp pháp.
Do đó, chúng tôi kiến nghị:
Sửa đổi điều 41 Bộ Luật Hình sự để cho phép tịch thu, không chỉ tài sản do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có, mà còn tịch thu tiền và tài sản đã bị rửa theo những cách khác.
Ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng biện pháp tịch thu tài sản có giá trị tương đương trong trường hợp tài sản do phạm tội mà có đã bị tiêu huỷ, hoặc vì một lý do nào đó không thể thu hồi được. Đồng thời cũng ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng biện pháp tịch thu tài sản trong trường hợp tài sản do phạm tội mà có và tài sản được tẩy rửa đã được nhập chung vào khối tài sản có nguồn gốc hợp pháp.
KẾT LUẬN
Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới đang đứng trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, lợi dụng chính sách “mở cửa kinh tế” của các quốc gia cùng với những luồng vốn khổng lồ lưu chuyển trên toàn thế giới, lợi dụng sự khác biệt trong hệ thống pháp luật của những quốc gia khác nhau mà hoạt động rửa tiền nói chung và hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng vì thế ngày càng phát triển hơn, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
Đấu tranh phòng, chống các hoạt động rửa tiền đã được coi là một cuộc chiến quốc tế hoá mà mỗi quốc gia là một nhân tố quan trọng, Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc chiến này. Những nỗ lực phòng, chống rửa tiền của Việt Nam đã được cụ thể hoá bằng việc tham gia các tổ chức quốc tế, tham gia ký kết và gia nhập các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực này, đồng thời ban hành và thực thi các văn bản pháp luật nhằm phòng chống các hoạt động rửa tiền nói chung cũng như phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng nói riêng.
Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng: Thực trạng và hướng hoàn thiện”, chúng tôi nhận thấy, về tổng quát, pháp luật phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng của Việt Nam đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phòng, chống rửa tiền ở nước ta hiện nay, đồng thời cũng tương đối phù hợp với yêu cầu quốc tế trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đi vào chi tiết, cho thấy, pháp luật phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng ở nước ta vẫn còn tản mát, có những quy định chưa thoả đáng, chưa thực sự đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Với mong muốn góp phần tham gia đấu tranh chống lại hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, khoá luận đã mạnh dạn phân tích và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự thông cảm, nhận xét và hướng dẫn của các Thầy, Cô để khoá luận được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH THAM KHẢO VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Giáo trình Triết học Mác – Lênin, 2005, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội;
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, Giáo trình Luật Ngân Hàng Việt Nam, NXB Công An nhân dân Hà Nội;
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Công An nhân dân Hà Nội;
Bộ Tư Pháp, 2008, Báo cáo so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam với 40 Khuyến nghị và 9 Khuyến nghị đặc biệt của Lực lượng Đặc nhiệm Tài chính;
Paul Allan Schott, 2007, Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố, NXB Văn hoá thông tin Hà Nội;
Th.S Nguyễn Hải Bình, Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số lưu ý khi áp dụng tại Việt Nam, tạp chí Ngân hàng số 11/2005, trang 33;
Robert Procope. Ludmila Grechanik, Cuộc chiến chống rửa tiền, tạp chí Ngân hàng số 12/2005, trang 67, Biên dịch: Sông Hương;
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997 và luật sửa đổi bổ sung;
Luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004;
Bộ luật hình sự 1999;
Bộ luật tố tụng hình sự 2004;
Nghị định 74/2005/NĐ- CP về phòng chống rửa tiền ngày 06/07/2005;
40 khuyến nghị của FATF, đường link: ;
Luật mẫu về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố 2005 của Liên hợp quốc, đường link:
II. TẠP CHÍ
Tạp chí luật học số tháng 1 đến 12 các năm 2006, 2007, 2008
Tạp chí Ngân hàng số tháng 1 đến tháng 12 các năm 2005, 2006
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số tháng 1 đến tháng 12 các năm 2007, 2008
III. TRANG WEB VÀ ĐƯỜNG DẪN
Trang chủ của Lực lượng đặc nhiệm tài chính – FATF)
(Những câu hỏi thường gặp trong phòng, chống rửa tiền)
( Trang chủ của Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont)
(Bản tuyên bố mục đích của Nhóm Egmont)
(Danh sách các nước có các đơn vị tình báo tài chính thuộc Nhóm)
(Thủ tục để được công nhận là nước thành viên)
(Trang chủ của Mạng lưới Thi hành Luật pháp về Tội phạm Tài chính (FinCEN) của Mỹ)
(Danh mục một số vụ phòng, chống rửa tiền)
(Trang chủ của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền)
www.launderyman.u-net.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật về phòng chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng- thực trạng và hướng hoàn thiện.doc