Chuyên mục: Luật dân sựTrường: ĐH Luật Hồ Chí MinhLoại: Đề tài tốt nghiệpFile: docTrình độ: Đại họcSố trang: 56
Pháp luật công nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân và khẳng định cá nhân có quyền định đoạt tài sản theo ý của mình,. Điều này đã được ghi nhận và khẳng định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tính tự định đoạt, thỏa thuận là một nét tiêu biểu trong quan hệ pháp luật dân sự. Trong quan hệ thừa kế, người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Xã hội phát triển, trình độ dân trí nâng cao, người ta muốn định đoạt tài sản của mình ngay cả khi chết đi bởi những gì họ đã làm, đã gắng và đang có trong tay. Luật Việt Nam quy định tài sản vợ chồng là thuộc sở hữu chung hợp nhất và vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc định đoạt tài sản. Thực tế cho thấy không phải là hiếm những trường hợp vợ chồng lập di chúc chung. Và vì pháp luật quy định không rõ ràng về vấn đề này, nên dẫn đến những cách hiểu không giống nhau của những người lập di chúc và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp khác của những người thừa kế.
Cơ cấu của luận văn
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ chồng
- Chương II: Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về di chúc chung của vợ chồng
- Chương III: Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng
MỤC LỤC
NỘI DUNG Trang
LỜI NÓI ĐẦU 2
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích - Phạm vi nghiên cứu. 3
4. Phương pháp nghiên cứu. 5
5. Đóng góp mới của luận văn. 5
6. Cơ cấu của luận văn. 6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 7
1.1. Khái niệm, sự khác biệt giữa di chúc chung vợ chồng và di chúc thông thường 7
1.1.1. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng. 7
1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ chồng. 8
1.1.3. Sự tất yếu hình thành di chúc chung của vợ chồng. 10
1.1.4. Đặc thù của di chúc chung của vợ chồng. 12
1.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc chung của vợ chồng. 14
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc chung của vợ chồng trên thế giới 14
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định di chúc chung của vợ chồng tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. 18
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 22
2.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng. 22
2.1.1. Điều kiện về chủ thể lập di chúc. 22
2.1.2. Điều kiện về nội dung và mục đích. 25
2.1.3. Điều kiện về ý chí tự nguyện thống nhất 29
2.1.4. Điều kiện về hình thức. 30
2.1.5. Điều kiện về quản lý di sản khi một người chết trước. 33
2.2. Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng. 33
2.2.1. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung 33
2.2.2. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung 35
2.3. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng. 37
2.4. Mối quan hệ di chúc chung di chúc riêng. 39
2.4.1. Trường hợp di chúc chung định đoạt tài sản riêng. 40
2.4.2. Trường hợp vừa có di chúc chung vừa có di chúc riêng. 42
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HIỆU LỰC DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 46
3.1. Nhận xét về những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng. 46
3.1.1. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. 46
3.1.2. Về tài sản được quản lý bởi người còn sống. 47
3.1.3. Về tài sản chung và tài sản riêng. 47
3.1.4. Di chúc định đoạt vợ chồng là người thừa kế của nhau. 48
3.2. Các giải pháp, kiến nghị 49
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
56 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3644 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúc ấy có được pháp luật chấp nhận hay không. Và nếu như vậy quyền lợi của những người thừa kế rất bị ảnh hưởng và thật không công bằng với người chết trước.
Vì là di chúc chung, nên ý chí của cả vợ và chồng cũng đều phải “chung”. Cái “chung” nhắc đến ở đây là việc quyết định có lập di chúc hay không, và trong di chúc chung ấy, vợ chồng định đoạt tài sản cho ai, bao nhiêu, như thế nào cho những người thừa kế. Đó phải là ý chí tự nguyện của cả vợ và chồng. Nếu chỉ là của vợ hay của chồng thôi thì sẽ không được chấp nhận. Kết quả của sự thỏa thuận ấy được thể hiện ở một văn bản thống nhất là di chúc chung của vợ chồng, trong đó có chữ ký xác thực của cả hai vợ chồng.
Khi vợ hoặc chồng muốn lập di chúc chung, thuyết phục sự đồng ý của người kia và sau đó người vợ hoặc chồng này tự ý định đoạt tài sản chung mà không có sự tham gia thống nhất của người còn lại. Dù hình thức vợ chồng thống nhất lập di chúc chung nhưng bản chất di chúc chung ấy không phải là sự thỏa thuận thống nhất của cả hai người. Như đã phân tích ở phần “Điều kiện về nội dung và mục đích di chúc chung”. Tính chất thỏa thuận thống nhất trong di chúc chung phải xuyên suốt từ quá trình hình thành, tồn tại đến khi chấm dứt di chúc ấy. Vợ chồng thống nhất lập di chúc chung mới chỉ là cái vỏ ngoài của bản di chúc ấy. Quan trọng hơn, trong di chúc chung của mình định đoạt cái gì, cho ai, bao nhiêu thì vợ chồng phải cùng nhau bàn bạc, quyết định nội dung cụ thể từng vấn đề mà bản di chúc ấy đề cập đến. Nếu có vấn đề gì mâu thuẫn giữa hai bên thì vợ chồng phải cùng cân nhắc xem xét lại để định đoạt cho đúng và ghi vào bản di chúc đó. Nếu chỉ một trong hai bên vợ chồng có ý kiến về định đoạt một phần tài sản nào đó mà người kia im lặng, không bày tỏ ý kiến thì có coi đó là sự thỏa thuận, ý chí thống nhất của vợ chồng không? Thiết nghĩ, đây là vấn đề liên quan đến tài sản chung, là phán ánh trực tiếp lợi ích của cả hai bên vợ chồng. Khi định đoạt một vấn đề nào liên quan đến tài sản chung mà người kia không bày tỏ ý kiến mà vẫn ký vào bản di chúc chung, thì có thể coi sự im lặng đó là mặc nhiên đồng ý. Nhưng nếu người này không đồng ý ký vào bản di chúc chung thì di chúc chung đó không được công nhận là di chúc hợp pháp.
2.1.4. Điều kiện về hình thức
Di chúc chung là sự thể hiện ý chí chung của hai vợ chồng, cùng tự nguyện thống nhất trong vấn đề lập, cũng như các vấn đề về nội dung di chúc chung ấy. Kết quả của sự thỏa thuận ấy thông thường được thể hiện ở một văn bản thống nhất là di chúc chung của vợ chồng, trong đó có chữ ký xác thực của cả hai vợ chồng
Việc lập di chúc chung bằng văn bản là một trong những điều kiện cần và tiên quyết, là biểu hiện của sự thống nhất chung, cũng là để tránh những tranh cãi, mâu thuẫn sau này. BLDS 2005 Điều 655 quy định: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Việc viết vào bản di chúc những nội dung mà vợ chồng đã thỏa thuận là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng, việc ghi vào bản di chúc chung ấy sẽ thực hiện bởi một người hay là cả hai vợ chồng? Nếu cả hai vợ chồng cùng viết vào bản di chúc chung thì sẽ phải có người viết trước người viết sau. Trong quá trình người vợ viết thì người chồng giám sát và ngược lại. Về nguyên tắc, một người sẽ viết nội dung di chúc chung trên cơ sở nội dung đã thoả thuận với người kia, sau đó cả hai người sẽ phải ký vào cuối tờ di chúc chung đó. Điều quan trọng cuối cùng của việc đảm bảo về hình thức bản di chúc chung đó là, sau khi thống nhất được mọi vấn đề vợ chồng phải cùng nhau ký vào bản di chúc chung đã lập. Trước khi ký vợ chồng đều phải đọc lại bản di chúc ấy một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng, tránh trường hợp có sự nhẫm lẫn, lừa dối… Có một trường hợp thực tế xảy ra và Tòa án đã tuyên không công nhận giá trị pháp lý của di chúc chung. Đó là trường hợp vợ chồng thỏa thuận thống nhất lập di chúc chung. Sau khi lập người chồng ký trước vào cuối bản di chúc có người làm chứng, người vợ ký sau lại không có người làm chứng. Sự khác nhau về thời điểm ký và người làm chứng đã dẫn đến tình trạng không có hiệu lực của bản di chúc chung này. Do vậy vợ chồng cần đặc biệt chú ý việc ký này phải được thực hiện đồng thời, tránh người ký trước ký sau trong một khoảng thời gian nhất định, và người ký trước ký trong điều kiện như thế nào (ví dụ trước mặt người làm chứng, bao nhiêu người…) thì người sau cũng phải tuân theo những điều kiện như thế ấy để tránh tình trạng sửa đổi, làm giả chữ ký, đánh tráo di chúc chung đã lập nhằm trục lợi cho bản thân mình.
Mặt khác, nhằm đảm bảo nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực tiếp bằng chữ viết tay. Vậy nên, không thể thay mặt người kia lập di chúc chung, vợ chồng cũng không thể ký thay nhau vào tờ di chúc chung đó, không thể uỷ quyền cho nhau có bất cứ thay đổi nào với di chúc chung đã lập.
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể di chúc chung của vợ chồng phải lập bằng hình thức như thế nào. Tức là, khi không lập được di chúc bằng văn bản và trong những điều kiện cụ thể phù hợp với các quy định của pháp luật, vợ chồng hoàn toàn có thể lập di chúc bằng miệng. Những điều kiện mà pháp luật quy định đó là “bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản” (khoản 1 Điều 651 BLDS 2005) và “thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực” (khoản 5 Điều 652 BLDS 2005). Di chúc chung của vợ chồng được xác lập bởi hai chủ thể cùng thỏa thuận thống nhất, đó là vợ và chồng. Để có thể lập được di chúc chung bằng miệng cả hai vợ chồng cùng phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật, đó là cùng phải rơi vào trường hợp “bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác”. Điều đó dường như là không thực tế. Bởi rất hiếm trường hợp cả hai vợ chồng cùng bệnh tật đến mức như vậy. Nếu chỉ có một trong hai người, hoặc vợ hoặc chồng đáp ứng các điều kiện của việc lập di chúc bằng miệng và nếu cả hai người đều thỏa thuận thống nhất lập di chúc chung thì trường hợp này vợ chồng có được lập di chúc bằng miệng không? Pháp luật không quy định, nhưng có thể thấy, việc lập di chúc chung là việc của cả hai bên vợ và chồng, cùng phải lập và định đoạt di chúc chung trong những điều kiện tương đối giống nhau, Ở đây, một người đã không đáp ứng được các điều kiện của việc lập di chúc bằng miệng thì thiết nghĩ, việc lập di chúc chung bằng miệng của cả hai vợ chồng trong trường hợp này không được chấp nhận.
Như vậy, việc lập di chúc chung bằng miệng là hình thức bất đắc dĩ và trên thực tế rất hiếm trường hợp này, bởi muốn lập được di chúc bằng miệng, vợ chồng phải tuân theo những điều kiện nhất định của pháp luật. Và thông thường để đáp ứng các yêu cầu đó trong điều kiện mà pháp luật đặt ra đó là rất khó. Biện pháp tốt nhất cho hình thức di chúc chung của vợ chồng văn bản có người làm chứng hoặc có chứng thực.
2.1.5. Điều kiện về quản lý di sản khi một người chết trước
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực vào thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết”. Luật không quy định trong trường hợp một người chết trước thì vấn đề di chúc chung giải quyết như nào. Đây lại là trường hợp thường xảy ra trên thực tế. Có thể thấy khi một người chết trước, người còn sống sẽ là người quản lý di sản của người chết và tài sản của mình trong khối tài sản chung. Nếu người còn sống sửa đổi, bổ sung phần tài sản của mình trong di chúc chung, thì những người thừa kế của người chết trước có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với phần di chúc của người đã chết ấy để đảm bảo quyền lợi của mình. Nhưng nếu người còn sống không có bất kỳ thay đổi nào về di chúc chung đã lập, tức là khi đó di chúc chung đã lập sẽ có hiệu lực vào thời điểm người sau cùng chết như luật định. Trong khoảng thời gian đó, người còn sống sẽ quản lý di sản của người chết và tài sản của mình trong khối tài sản chung. Câu chuyện sẽ không có gì nếu người còn sống không làm hao hụt toàn bộ chỗ tài sản mà mình quản lý do quá trình bảo quản, lưu thông dân sự bởi tài sản là . Khi đó, đối tượng của di chúc chung không còn, di chúc chung sẽ không có hiệu lực. Quyền lợi những người thừa kế bị ảnh hưởng rất lớn. 2.2. Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
2.2.1. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết”.
Ở đây, pháp luật dự liệu hai trường hợp mà theo đó, di chúc chung của vợ chồng đương nhiên có hiệu lực là “từ thời điểm người sau cùng chết” hoặc “tại thời điểm vợ chồng cùng chết”. Khi đó việc thực thi di chúc chung đã được đơn giản hoá vì chỉ chia di chúc một lần. Tuy nhiên, cũng có một vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến quyền lợi của người thừa kế. Đó là có những người chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc chồng chết trước, nhưng lại chết trước thời điểm di chúc chung có hiệu lực. Như vậy, quyền thừa kế của họ đã bị ảnh hưởng.
Về việc xác định “thời điểm người sau cùng chết” trong quy định về tính hiệu lực di chúc chung của vợ chồng lại phát sinh nhiều vấn đề phức tạp khác.
Khi một người chết trước theo quy định của pháp luật di chúc chung của vợ chồng chưa có hiệu lực. Nhưng nếu người còn sống sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Khi đó, di chúc chung của vợ chồng không có hiệu lực. Di chúc của người chết trước được coi là có hiệu lực pháp luật. Lúc này, những người thừa kế của người chết trước có thể yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo di chúc đó. Tuy nhiên, phải xác định rõ ràng di chúc của người chết trước ấy có hiệu lực từ thời điểm nào? Từ thời điểm người đó chết hay tại thời điểm người còn sống sửa đổi. Có quan điểm cho rằng, nên lấy thời điểm có hiệu lực của di chúc đó là thời điểm người đó chết. Vì di chúc mà người đó lập chung giờ đã trở thành di chúc riêng của người chết trước và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về di chúc thông thường. Pháp luật quy định “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế” (khoản 1 Điều 667 BLDS 2005) và “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (khoản 1 Điều 633 BLDS 2005). Nhưng nếu người còn sống phải mất một thời gian lâu sau mới sửa đổi, bổ sung phần tài sản trong khối tài sản chung của mình. Và trong khoảng thời gian đó, người còn sống phát triển khối gia sản và làm ra tài sản mới thì trong trường hợp này, tài sản đó là tài sản riêng của người còn sống hay là tài sản chung đã được định đoạt trong di chúc chung. Tác giả luận văn cho rằng, không thể coi thời điểm có hiệu lực của di chúc người chết trước là thời điểm người đó chết. Mà phải coi hiệu lực của di chúc người chết trước bắt đầu từ thời điểm người còn sống sửa đổi phần tài sản trong khối tài sản chung. Bởi khi lập di chúc chung, việc sửa đổi bổ sung di chúc chung của người còn sống nằm ngoài sự tính toán của người chết trước. Nói cách khác, người đó không chủ đích sửa đổi di chúc chung đó nếu người chồng hoặc người vợ của mình không chết trước. Thời điểm một trong hai bên vợ chồng chết cũng là thời điểm mà đời sống hôn nhân của vợ chồng chấm dứt. Đời sống chung không còn, những tài sản làm ra sau thời kỳ ấy không được tính là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Do vậy, nếu người còn sống làm phát triển khối gia sản và làm ra tài sản mới trong thời kỳ này thuộc sở hữu riêng của người còn sống, không được tính vào khối tài sản chung. Nếu không xác định được ngày sửa đổi, bổ sung di chúc của người còn sống thì xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc người chết trước như thế nào? Có nên chăng lấy ngày mà những người thừa kế yêu cầu chia thừa kế theo di chúc. Bởi khi yêu cầu Tòa án chia thừa kế là khi những người thừa kế phải biết rõ di chúc chung ấy có được người còn sống sửa đổi, bổ sung không. Mặt khác, nếu không có sự yêu cầu đó thì mặc nhiên di chúc chung vẫn được coi là có hiệu lực pháp luật đối với cả hai vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì vấn đề sẽ phức tạp ở chỗ, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là mười năm. Vậy nếu sau mười năm người còn sống mới sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế của những người thừa kế có còn được chấp nhận không?. Chính bởi vậy, việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm sửa đổi di chúc sẽ khắc phục được hạn chế này.
2.2.2. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Điều này đã không được BLDS 2005 đề cập đến trong khi Điều 671 Bộ luật Dân sự 1995 lại quy định: “…nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm”. Ta thấy, mặc dù cho phép vợ chồng được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung. Nhưng điều luật cho thấy, nếu vợ chồng thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không phải là thời điểm người sau cùng chết thì sự thỏa thuận ấy có được chấp nhận không. Để tránh điều này, BLDS 2005 đã không quy định vợ chồng được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung. Không quy định nhưng không có nghĩa là pháp luật cấm. Điều đó có nghĩa, vợ chồng có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng nếu di chúc chung không có sự thoả thuận là từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết thì việc thoả thuận ấy sẽ không có hiệu lực pháp luật nên thời điểm có hiệu lực của di chúc đó sẽ được xác định theo quy định của pháp luật. Như vậy một mặt pháp luật không cấm nhưng mặt khác lại ràng buộc vợ chồng nếu có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ có thể là thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết. Nếu vợ chồng thỏa thuận như vậy cũng là một hành động thừa, bởi nếu có không thỏa thuận như vậy thì cũng phải xác định hiệu lực di chúc chung theo pháp luật, cũng là tại thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết.
Có ý kiến cho rằng, việc quy định như vậy là hoàn toàn không hợp lý. Vì đây là di chúc chung, là sự thống nhất định đoạt tài sản của vợ chồng, là xuất phát từ ý chí tự nguyện, tự định đoạt của vợ chồng. Pháp luật cần tuyệt đối tôn trọng quyền này ngay cả trong vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng. Các nhà làm luật tuy không quy định nhưng cũng không có nghĩa là cấm và công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Vậy nên nếu sự thoả thuận về thời điểm có hiệu lực ấy của vợ chồng được ghi nhận trong di chúc chung thì pháp luật cũng nên công nhận sự thoả thuận này.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng mọi sự tự do, tự nguyện, cam kết thoả thuận của cá nhân chỉ được đảm bảo khi nó nằm trong khuôn khổ nhất định, không trái với quy định của pháp luật. Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng cũng là một giao dịch dân sự mà giao dịch này đã được luật quy định. Nó trở thành một nguyên tắc bất dịch và vợ chồng không được thỏa thuận khác với những quy định của pháp luật. Đó cũng là cách mà pháp luật thực hiện để bảo vệ các quan hệ xã hội.
Do vậy việc BLDS 2005 không quy định vợ chồng được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng, và nếu vợ chồng có thỏa thuận thì cũng không thể khác quy đinh của pháp luật về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng là hoàn toàn hợp lý.
2.3. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng
Sự thống nhất ý chí tự nguyện trong di chúc chung cũng được thể hiện ở việc sửa đổi, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung. Điều 664 BLDS 2005 quy định: “1. Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều luật quy định “bất cứ lúc nào” ở đây có thể hiểu là pháp luật không hạn chế về mặt thời gian và không gian. Điều đương nhiên là để được “bất cứ lúc nào” ấy, người vợ hoặc chồng phải có năng lực hành vi dân sự. Nếu giả như một trong hai người có vấn đề về thể trạng hoặc tâm lý, không minh mẫn, sáng suốt dẫn đến hạn chế hoặc mất năng lực pháp luật thì “bất cứ lúc nào” không được đặt ra, cho dù lúc đó người kia là đại diện theo pháp luật của người bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khi một người có bất kỳ sự thay đổi nào với di chúc chung đã lập, đều phải có “sự đồng ý” của người kia. “Sự đồng ý” này là đồng ý thay đổi theo hướng này, hướng kia một cách rõ ràng cụ thể với sự tự nguyện, không lừa dối, cưỡng bức. Nếu một người đồng ý cho người kia thay đổi tuỳ theo ý chí chủ quan của người đó thì sự đồng ý đó không còn mang ý nghĩa thống nhất nữa, mà đã phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thay đổi, sự đồng ý đó sẽ không được pháp luật chấp nhận.
Sự tuyệt đối hoá trong sự thống nhất ý chí chung còn thể hiện ở chỗ nếu một người chết trước thì người kia chỉ được sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định như vậy là không thể hiện được hết tính chất tự định đoạt của người lập di chúc. Vì khi cả hai người còn sống, người này chỉ được phép thay đổi nếu có sự đồng ý của người kia, nhưng khi một người chết trước thì người này chỉ được sửa đổi, bổ sung phần tài sản của mình trong khối tài sản chung. Theo họ, cũng cần phải công nhận quyền của một bên được thay đổi phần di chúc chung liên quan đến tài sản của mình ngay cả khi hai người còn sống và bên kia không đồng ý. Tuy nhiên, cũng phải chú ý rằng, luật pháp cho phép vợ chồng thay đổi di chúc chung nếu có sự đồng thuận của người còn lại, bởi sự định đoạt của họ là sự định đoạt đối với khối tài sản chung, bởi vợ chồng là đồng sở hữu chung hợp nhất. Nếu quy định cho phép vợ chồng được quyền thay đổi di chúc chung liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung khi mà không cần sự đồng ý của người còn lại, thì sẽ mất đi tính chất của “di chúc chung”. Và như vậy, cách tốt nhất là họ tự mình lập di chúc riêng sẽ đơn giản hơn. Mặt khác, điều luật chỉ cho phép người còn sống quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, chứ không cho phép họ quyền thay thế, huỷ bỏ di chúc chung khi đã không còn tồn tại sự đồng thuận và thống nhất chung ý chí của vợ chồng ấy nữa. Nếu người còn sống sửa đổi nội dung di chúc chung vượt quá phần tài sản của mình trong khối di sản chung thì sự định đoạt ấy cũng không được chấp nhận. Pháp luật chỉ cho phép họ có quyền định đoạt trong phần tài sản của mình mà thôi. Như vậy, sự tự nguyện, thống nhất ý chí chung đã được quy định một cách tuyệt đối.
Thêm một vấn đề nữa, khi cả hai vợ chồng còn sống, một trong hai người hoặc vợ, hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung mà không được sự đồng ý của người kia thì phải làm như thế nào trong trường hợp này, trong khi khoản 2 Điều 664 lại quy định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia”. Vấn đề này cũng không đáng ngại và hoàn toàn có hướng giải quyết; khi đó, người vợ hoặc chồng muốn thay đổi di chúc chung đã lập sẽ căn cứ vào khoản 5 Điều 667 quy định: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, người vợ hoặc chồng muốn thay đổi di chúc có thể bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của mình bằng cách lập thêm một bản di chúc nữa để định đoạt tài sản của mình trong khối tài sản chung. Bản di chúc sau lập sau này mới có giá trị pháp lý. Di chúc chung của vợ chồng lúc đó sẽ trở thành di chúc riêng của người mà không thay đổi di chúc, trừ trường hợp di chúc lập sau của người vợ hoặc người chồng muốn thay đổi đó chỉ định đoạt một phần tài sản của mình trong khối tài sản chung; khi đó, những phần tài sản không được định đoạt trong khối tài sản chung vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, có thể hiểu di chúc chung ấy đã không có hiệu lực toàn bộ đối với vợ chồng, mà chỉ có hiệu lực một phần với người đã lập di chúc sau để định đoạt tài sản của mình trong khối tài sản chung đó.
2.4. Mối quan hệ di chúc chung di chúc riêng
Điều 663 BLDS 2005, quy định: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Tài sản chung của vợ chồng theo quy định của khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình gồm“…tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung…”. Theo đó, sẽ đơn giản nếu trong di chúc chung ấy, vợ chồng định đoạt tài sản chung. Nhưng nếu, vợ chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng và họ định đoạt tài sản riêng của mình trong di chúc chung, thì vấn đề này được hiểu như nào? Tài sản ấy có được tính vào tài sản trong di chúc lập chung không? Nếu không thì tài sản được định đoạt ấy có phải di chúc riêng không? Và khi người đó chết đi thì phần di chúc liên quan đến tài sản ấy có hiệu lực như thế nào? Thậm chí, có trường hợp vợ chồng thoả thuận thống nhất lập di chúc chung, nhưng trong di chúc chung ấy, lại phân chia rõ tài sản nào của chồng, tài sản nào của vợ trong khối tài sản chung và tự do định đoạt theo ý chí chủ quan của mình trong khối tài sản ấy. Dù hình thức có là di chúc chung, nhưng bản chất nó đã là di chúc riêng, vậy nó có phải tuân theo quy định tại Điều 668 hay không? Những vấn đề nêu trên sẽ lần lượt được giải quyết trong từng phần cụ thể sau:
2.4.1. Trường hợp di chúc chung định đoạt tài sản riêng
Theo Điều 663 BLDS 2005 thì vợ chồng không thể định đoạt tài sản riêng của mình trong di chúc chung. Do vậy, nếu muốn định đoạt tài sản riêng vợ hoặc chồng, hoặc cả hai phải lập một tờ di chúc khác. Nhưng thực tế có thể xảy ra những trường hợp sau:
* Trường hợp di chúc chung định đoạt phần tài sản riêng của vợ hoặc chồng
Nếu trong di chúc chung, vợ chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản riêng và sự định đoạt với cả hai loại tài sản đó đều được chấp nhận. Tài sản riêng mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng định đoạt trong di chúc chung có thể là một phần hoặc toàn bộ tài sản riêng. Khi đó di chúc chung sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau trong khi chỉ dựa vào một tờ di chúc. Theo đó, hiệu lực pháp luật của di chúc định đoạt tài sản chung của vợ chồng sẽ chịu sự điều chỉnh của Điều 669 BLDS 2005. Đó là khi người sau cùng chết hoặc tại thời điểm cả hai vợ chồng cùng chết. Còn hiệu lực pháp luật của di chúc định đoạt tài sản riêng hoặc của vợ, hoặc của chồng, hoặc của hai vợ chồng sẽ tuân theo quy định tại Điều 667 BLDS 2005. Đó là “thời điểm người có tài sản chết” (Điều 633 BLDS 2005). Như vậy sẽ phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng sản nghiệp của một người. Và sẽ càng khó khăn hơn khi người đó có nhiều sản nghiệp khác nhau. Ví dụ, họ đã chia một phần tài sản trong hôn nhân, hay đã chia toàn bộ tài sản chung thành tài sản riêng rồi sau đó lại sáp nhập vào tài sản chung, hay nguồn tài sản đã có với chồng hoặc vợ hợp pháp khác…
* Trường hợp di chúc chung định đoạt toàn bộ tài sản riêng bao gồm cả phần tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng
Như đã biết một trong những điều kiện có hiệu lực của di chúc chung là di chúc ấy phải định đoạt tài sản chung. Vậy nên nếu cả vợ và chồng cùng định đoạt tài sản riêng trong di chúc thì sẽ không có sự tồn tại di chúc chung ở đây nữa. Chúng ta chỉ đi xem xét trường hợp một bên hoặc vợ hoặc chồng định đoạt toàn bộ tài sản riêng mình trong di chúc chung.
Nếu việc định đoạt của người có tài sản riêng (bao gồm tài sản riêng của mình và phần tài sản trong khối tài sản chung) chỉ định đoạt trong số tài sản riêng của mình, không liên quan đến phần tài sản của người kia trong khối tài sản chung và không có sự tham gia của người kia hoặc nếu người kia có tham gia nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn là ở người có tài sản thì bề ngoài là di chúc lập chung nhưng bản chất đó là di chúc riêng của người có tài sản. Vì tài sản đã được định đoạt là tài sản riêng, lại không có sự thống nhất ý chí giữa vợ chồng.
Nếu người này định đoạt quá số tài sản riêng của mình, tức là định đoạt cả phần tài sản của người kia trong khối tài sản chung mà không có sự thống nhất với người đó thì sự định đoạt đó sẽ không được công nhận. Nhưng nếu người kia đồng ý với sự định đoạt ấy của người có tài sản thì cần phải xem xét lại những tài sản chung của vợ chồng ấy đã được định đoạt như thế nào. Vì một khi có sự định đoạt tài sản chung, có sự thống nhất như vậy thì phần di chúc chung đó có giá trị hiệu lực.
Nếu người có tài sản riêng cùng thỏa thuận thống nhất định đoạt tài sản với người kia thì liệu sự tham gia của người không có tài sản về số tài sản riêng của người kia có được công nhận không vì bản chất vẫn là di chúc riêng định đoạt tài sản riêng của người có tài sản. Nhưng thiết nghĩ nếu đã có sự phân biệt rạch ròi tài sản riêng và phần tài sản trong khối tài sản chung mà vợ chồng đã có đó thì không còn gọi là di chúc chung nữa.
* Trường hợp di chúc chung định đoạt một phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng
Lúc này nếu người có tài sản riêng đồng ý thì sự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung và một phần tài sản riêng đó có thể coi là có hiệu lực như một bản di chúc lập chung. Tuy nhiên, sau này, khi người có tài sản riêng muốn lấy lại tài sản của mình và định đoạt theo ý mình thì cũng hoàn toàn hợp lý vì vốn dĩ tài sản đó thuộc sở hữu riêng của họ. Người kia không có quyền gì đối với số tài sản riêng đó. Nếu như vậy thì thật khó đảm bảo giá trị hiệu lực của một bản di chúc chung mà có tài sản riêng ở trong đó, trừ khi người có tài sản riêng quyết định nhập vào khối tài sản chung.
Có thể thấy, tất cả những trường hợp có sự định đoạt tài sản riêng trong di chúc chung được nêu ở trên thì không thể coi người có tài sản đã nhập số tài sản riêng của mình vào tài sản chung và cùng người kia định đoạt trong di chúc chung. Vì bản chất đó là tài sản riêng thuộc quyền sở hữu riêng của người có tài sản. Sự định đoạt ấy chỉ có thể coi như là một di chúc riêng. Mặt khác, bản chất của di chúc chung là định đoạt tài sản chung. Nếu người có tài sản riêng định nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung thì phải lập thành văn bản, có căn cứ rõ ràng để tránh những mâu thuẫn sau này khiến bản di chúc chung mà vợ chồng đã lập không có hiệu lực pháp luật.
2.4.2. Trường hợp vừa có di chúc chung vừa có di chúc riêng
* Trường hợp di chúc chung định đoạt tài sản chung và di chúc riêng định đoạt toàn bộ tài sản riêng bao gồm cả phần tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc di chúc riêng định đoạt một phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng
Về nguyên tắc, di chúc lập sau sẽ có hiệu lực nếu nó cùng một nội dung với di chúc đã lập trước mà không phân biệt là di chúc riêng hay di chúc chung của vợ chồng.
Dù pháp luật tôn trọng quyền tự nguyện thống nhất của vợ chồng trong di chúc chung nhưng di chúc riêng lập sau định đoạt phần tài sản chính đáng của chồng hoặc vợ trong khối tài sản chung thì ở góc độ pháp lý, di chúc ấy sẽ có giá trị pháp lý. Khi đó, di chúc chung lập trước sẽ chỉ có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của người không lập di chúc riêng. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp nếu di chúc lập sau ấy vì một lý do nào đó (ví dụ như nhầm lẫn...) dẫn tới không có hiệu lực pháp luật thì bản di chúc chung của vợ chồng đã lập có còn được công nhận không.
* Trường hợp di chúc chung chỉ định đoạt một phần tài sản chung và di chúc riêng định đoạt một phần tài sản riêng
Khi vợ chồng đã thống nhất thỏa thuận lập di chúc chung, thì trong di chúc chung ấy việc quyết định định đoạt số tài sản bao nhiều, có bao gồm toàn bộ tài sản chung không đều tùy thuộc vào ý chí chủ quan của vợ chồng. Cũng có thể có trường hợp, vợ chồng chỉ định đoạt một phần tài sản chung. Nếu tuân thủ đúng các quy định thì sự định đoạt ấy hoàn toàn hợp pháp và được chấp nhận. Nếu nguồn gốc của hai phần tài sản trên khác nhau. Tức là tài sản chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Và tài sản riêng là tài sản thuộc sở hữu của riêng hoặc vợ hoặc chồng, không bao gồm một phần tài sản trong khối tài sản chung. Khi đó, tồn tại hai bản di chúc độc lập. Vì sự định đoạt chuyển dịch tài sản của di chúc này không làm ảnh hưởng tới sự định đoạt của di chúc kia. Hai bản di chúc sẽ tuân thủ theo những điều luật khác nhau về hiệu lực pháp luật của di chúc.
* Trường hợp di chúc riêng thay đổi di chúc chung của vợ chồng.
Khoản 5, Điều 667, quy định: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật”. Nếu vậy, trong trường hợp vợ hoặc chồng lập di chúc riêng để lại tài sản của mình thì không nói, nhưng nếu người đó sau khi lập di chúc chung lại lập di chúc riêng để lại tài sản, trong đó có cả tài sản riêng và tài sản trong khối tài sản chung đã được định đoạt trước đó trong di chúc chung (đặt trường hợp là chỉ liên quan đến phần tài sản của mình, vì nếu liên quan đến phần tài sản của người kia thì đã là không hợp pháp và không được chấp nhận). Có thể hiểu ở đây, người vợ hoặc chồng đã sửa đổi, bổ sung di chúc chung đã lập. Đặt giả thuyết người kia (người chồng hoặc người vợ không lập di chúc riêng) không biết việc lập di chúc riêng của người vợ hoặc chồng mình, nếu sau này người này lại là người chết trước; khi đó, người còn sống sẽ đương nhiên có quyền sửa đổi di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung đã định đoạt trong di chúc chung đã lập. Xét về lý luận, theo khoản 5, Điều 667 thì từ di chúc chung đó, người vợ hoặc chồng đã chuyển hoá thành di chúc riêng của mỗi người, trong khi ý chí của người chết trước lại là di chúc chung chứ không phải di chúc riêng. Như vậy, sự bảo vệ tôn trọng của pháp luật đối với quyền lập di chúc chung của người chết trước không được đảm bảo.
Mặt khác, nếu sau khi lập di chúc chung, một bên vợ hoặc chồng lập di chúc riêng, trong đó tuyên bố hủy di chúc chung thì sự tuyên bố này có được pháp luật công nhận?. Căn cứ vào khoản 5, Điều 667 quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình của người lập di chúc sau hoàn toàn được pháp luật đảm bảo. Nếu cứ sau khi lập di chúc chung, người kia thay đổi ý kiến thì lại lập một di chúc riêng thay đổi phần tài sản của mình đã định đoạt trong di chúc chung, thậm chí là tuyên hủy di chúc chung. Như vậy, chức năng ổn định các quan hệ xã hội của pháp luật bị xâm hại. Họ đã lợi dụng lỗ hổng của luật pháp làm điều có lợi cho mình. Thiết nghĩ, trong trường hợp di chúc riêng lập sau mà tuyên bố hủy di chúc chung, thì di chúc lập sau ấy không có giá trị pháp lý. Bởi, di chúc chung là do vợ chồng cùng tự nguyện thống nhất lập ra, một người không thể tuyên hủy di chúc mà không tính đến quyền lợi của người kia. Trường hợp đó sẽ không được chấp nhận.
Tóm lại, vấn đề chia thừa kế vào hai thời điểm khác nhau nếu vợ hoặc chồng định đoạt tài sản riêng của mình trong di chúc chung, có thể thấy rằng: Lần thứ nhất dựa vào thời điểm mở thừa kế “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (Điều 633 BLDS 2005). Khi đó, sẽ chia thừa kế đối với phần di sản là tài sản riêng được định đoạt trong di chúc chung và cả những tài sản chung không được định đoạt trong di chúc chung và chia theo pháp luật. Trong trường hợp này, dù tài sản riêng được định đoạt trong di chúc chung nhưng có thể hiểu như đây là trường hợp người đó lập di chúc riêng. Lần thứ hai, dựa vào thời điểm có hiệu lực của di chúc chung đã được luật quy định là khi “người sau cùng chết”, khi đó sẽ chia thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ chồng. Và với cách hiểu như vậy, Toà án sẽ phải thụ lý và giải quyết tranh chấp hai vụ khác nhau, khi người thừa kế của người chết trước hai lần yêu cầu phân chia di sản thừa kế trên khối di sản của cùng một người.
Mối quan hệ giữa hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng và di chúc riêng là mối quan hệ đặc biệt, liên quan chủ yếu đến tài sản của vợ và chồng là tài sản riêng hay tài sản chung. Câu chuyện sẽ trở nên đơn giản nếu vợ chồng phân biệt rạch ròi được những tài sản ấy. Nhưng thực tế để làm được điều đó không hề dễ dàng, nhất là trong đời sống hôn nhân. Có thể thấy pháp luật vẫn chưa lường hết các khả năng có thể xảy ra khi quy định về hiệu lực di chúc chung vợ chồng đặt trong mối quan hệ với di chúc riêng như vậy. Và không có công thức chung cho việc lựa chọn hình thức di chúc chung hay di chúc riêng ở mỗi cặp vợ chồng, họ phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của mình để tự quyết định cho phù hợp
CHƯƠNG III
KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HIỆU LỰC DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
3.1. Nhận xét về những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
3.1.1. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Ở trên chúng ta nói về trường hợp di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật toàn bộ. Nhưng nếu, khi một người chết trước, người còn sống sửa đổi, bổ sung di chúc thì lúc đó những người thừa kế có quyền yêu cầu chia thừa kế. Vấn đề phức tạp ở chỗ, nếu thời gian để người còn sống sửa đổi, bổ sung di chúc là hơn mười năm. Luật quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”; Trong khi đó, để di chúc chung có hiệu lực thì phải đợi đến khi vợ chồng cùng chết hoặc người sau cùng chết. Khi một người chết trước, người còn sống đã có sửa đổi, bổ sung di chúc chung nhưng chỉ liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và không làm mất đi tính hiệu lực của di chúc chung đã lập thì nếu người đó sống lâu hơn mười năm, quyền lợi của những người thừa kế sẽ bị ảnh hưởng. Bởi quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết trước đã được định đoạt trong di chúc chung. Mặt khác, quyền hưởng di sản của những người thừa kế hợp pháp khác của người chết trước như bố, mẹ...có thể không còn nếu người vợ hoặc chồng còn sống sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp này. Ngoài ra, hết mười năm, người còn sống vẫn sống thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế, xác nhận quyền thừa kế, bác bỏ quyền thừa kế của người khác đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Như vậy, quyền lợi của những người thừa kế của người chết trước, cũng như quyền lợi của những người thừa kế hợp pháp khác của người chết trước không được đảm bảo. Pháp luật rõ ràng đã thiếu đi quy định về vấn đề này, làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của công dân được pháp luật bảo hộ.
3.1.2. Về tài sản được quản lý bởi người còn sống
Khi một người chết trước, người còn sống sẽ là người quản lý di sản và số tài sản của mình trong khối tài sản chung hợp nhất. Dĩ nhiên, những tài sản đó không phải là tài sản niêm phong mà những tài sản ấy cũng được mang ra lưu thông trong quá trình giao dịch dân sự, thương mại… Và ngay cả, khi di sản của người chết trước không đem vào lưu thông thì người còn lại cũng phải mất một số vật chất nhất định để bảo quản nó không bị hao hụt, hư hại. Ở đây, không tính đến trường hợp nhờ sự quản lý của người còn sống mà số di sản đó tăng thêm. Nếu người còn sống vô tình hoặc hữu ý, làm cho phần tài sản của mình trong khối di sản chung và chỗ di sản của người chết trước không còn nữa thì di chúc chung lúc này rơi vào trường hợp không có hiệu lực quy định tại khoản 3 Điều 667 “Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế”. Pháp luật sẽ giải quyết như nào trong trường hợp này? Không công nhận hiệu lực pháp luật của di chúc chung? Như thế sẽ làm ảnh hưởng rõ ràng đến quyền lợi những người thừa kế. Mặt khác, đã không tôn trọng ý chí của người chết trước, bởi khi lập di chúc, họ đã tuân theo đầy đủ các điều kiện của pháp luật để di chúc được coi là hợp pháp, chỉ vì lỗi của người còn sống mà di chúc đó đã không được công nhận.
3.1.3. Về tài sản chung và tài sản riêng
Pháp luật quy định vợ chồng được lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, do vậy mục đích và nội dung của di chúc chung ấy phải liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, nhiều cặp vợ chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng và họ định đoạt cả hai loại tài sản đó trong di chúc chung của mình. Khi đó, có nhiều vấn đề về pháp lý liên quan đến hiệu lực pháp luật của di chúc chung. Biết rằng, di chúc chung chỉ có hiệu lực từ thời điểm người người sau cùng chết hoặc tại thời điểm cả hai vợ chồng cùng chết. Tuy nhiên, phần tài sản riêng được quy định trong di chúc chung ấy có được coi là di chúc riêng không? Cho dù pháp luật không quy định vấn đề này và cho dù đó có là di chúc riêng hay không thì một điều dễ nhận thấy là di chúc phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau, trong khi chỉ dựa vào một bản di chúc. Chính vì thế mà luôn có sự nhập nhằng giữa tài sản riêng và tài sản chung của vợ chồng. Vấn đề sẽ càng trở nên phức tạp nếu chỉ một trong hai loại di chúc ấy có hiệu lực. Thứ nhất, nếu không coi phần định đoạt tài sản riêng trong di chúc chung ấy là di chúc riêng thì phần định đoạt tài sản riêng ấy được coi là gì? Và khi di chúc chung không có hiệu lực pháp luật, phần định đoạt tài sản riêng ấy có bị coi là không có giá trị pháp lý không? Nếu không, có coi là di chúc chung ấy có giá trị một phần không? Bởi khoản 4, Điều 667 quy định: “Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật”. Thứ hai, nếu coi đó là di chúc riêng định đoạt trong di chúc chung thì quy định ở đâu, và khi đó người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên số tài sản của người vợ hoặc chồng chết trước. Hơn nữa, như vậy sẽ rất ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế, họ sẽ không được hưởng thừa kế một cách trọn vẹn khi họ thuộc trường hợp được hưởng thừa kế đối với cả hai loại tài sản riêng và tài sản chung của vợ chồng dù chúng được định đoạt trong một di chúc chung.
3.1.4. Di chúc định đoạt vợ chồng là người thừa kế của nhau
Di chúc là sự đoạt của người có tài sản để lại tài sản của mình sau khi chết; đó là một hành vi pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Nhưng nếu trong di chúc chung ấy, vợ chồng chỉ định người thừa kế của người này là người kia, điều này có thể tạo điều kiện cho hoặc vợ hoặc chồng có những hành vi sai trái, lừa dối…lẫn nhau. Mặt khác, vợ chồng lại là người thừa kế của nhau theo pháp luật, và là người được thừa kế theo Điều 669 về người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. Điều này có nghĩa là, dù trong di chúc chung ấy vợ chồng không quy định người kia là người thừa kế thì họ vẫn được hưởng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Từ đó, lại phát sinh vấn đề phải xác định như giá trị một suất thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị, những người trong hàng thừa kế…
Qua những phân tích ở trên có thể thấy vấn đề di chúc chung của vợ chồng là một vấn đề nan giải, gây rất nhiều cách hiểu khác nhau, trong khi những gì quy định trong BLDS 2005 lại không cụ thể, rõ ràng.
3.2. Các giải pháp, kiến nghị
Trong Dự thảo xây dựng BLDS 2005, có không ít người phản đối việc vợ chồng được lập di chúc chung. Sở dĩ như vậy vì họ cho rằng xuất phát từ nguyên tắc “tự do ý chí” của mỗi người; bởi vì khi đã lập di chúc chung, một người muốn huỷ bỏ di chúc phải có sự đồng ý của người kia và đó chính là một hạn chế. Mặt khác, họ lý luận rằng nếu có tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng xảy ra thì áp dụng pháp luật giải quyết như thế nào?. Thực tế sau một thời gian áp dụng BLDS 2005. Họ đưa ra những lý do mà việc quy định hiệu lực di chúc chung vợ chồng có những điểm không hợp lý sau:
- Không phù hợp với xã hội hiện nay và ảnh hưởng trực tiếp quyền hưởng di sản của người nhận thừa kế theo di chúc; Bởi, nếu chỉ quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như vậy, thì trường hợp một người chết trước, người còn sống sống rất lâu sau đó, thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của những người nhận thừa kế theo di chúc.
- Mặt khác, tài sản định đoạt trong di chúc chung đó có thể bị hao mòn theo thời gian, dẫn đến không tồn tại, di chúc chung sẽ không có hiệu lực, thì quyền lợi của người thừa kế theo di chúc đó tính sao?
- Còn nữa, sẽ phải chia thừa kế nhiểu lần đối với di sản của người chồng hoặc vợ chết trước. Vì thứ nhất, sẽ phải chia tài sản riêng và những tài sản chung không được định đoạt trong di chúc dựa vào thời điểm mở thừa kế; thứ hai, khi di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực thì phải chia phần di sản được định đoạt theo di chúc ấy.
- Gây ra mâu thuẫn giữa người thừa kế và người quản lý di sản; Bởi người còn sống sẽ là người quản lý di sản chưa chia và số tài sản của mình trong di chúc chung ấy. Nếu số tài sản và di sản ấy đem ra lưu thông dẫn đến không tồn tại, hoặc bị hao hụt rất lớn; thì thật khó giải quyết giữa những người liên quan.
- Về thời hiệu khởi kiện thừa kế là mười năm, nhưng giả sử trong trường hợp một người chết trước, người còn sống sồng hơn mười năm, như vậy những người thừa kế mất quyền khởi kiện đối với phần di sản của người chết trước; còn nữa, nếu di chúc chung có sự lừa dối, giả tạo…thì cũng thật khó phát hiện vì di chúc chưa được mở, và lại là một điểm bất lợi đối với những người thừa kế.
- Ngoài ra, còn một điểm hạn chế lớn, đó là ảnh hưởng đến quyền hưởng di sản của những người thừa kế, xâm phạm quyền thừa kế hợp pháp của công dân được pháp luật bảo hộ. Bởi, cho đến khi di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật, người còn sống, sống lâu hơn những người thừa kế của vợ hoặc chồng chết trước, dù những người này chết sau thời điểm mở thừa kế đối với vợ hoặc chồng chết trước; như vậy, họ có được hưởng thừa kế hay đã mất quyền này? Có chia thừa kế thế vị cho con, cháu của họ không là những vấn đề vướng mắc.
Nhưng thiết nghĩ, xã hội ngày càng văn mình, con người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; trong khi luật pháp luôn có những “độ vênh” so với thực tiễn, pháp luật luôn đi sau thực tiễn một bước để điều chỉnh những vấn đề của thực tiễn. Vậy nên pháp luật Việt Nam cũng vẫn nên quy định về di chúc chung của vợ chồng. Pháp luật nên quy định về vấn đề này một cách cụ thể, rõ ràng để tránh những hiểu lầm không đáng có và để vận dụng cho đúng. Mặc dù có quy định nhưng cũng không có nghĩa là mọi người bắt buộc phải tuân theo, cũng không có nghĩa là mọi cặp vợ chồng đều phải lập di chúc chung. Để góp phần hoàn thiện pháp luật về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng, tác giả bài viết đưa ra một số giải pháp, kiến nghị sau.
Điều 668 quy định về hiệu lực di chúc chung theo đó, di chúc chung sẽ có hiệu lực thi hành tại thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết. Như vậy pháp luật đã bỏ ngỏ trường hợp một trong hai bên hoặc vợ, hoặc chồng chết trước thì sẽ giải quyết như nào? Di chúc chung lúc đó hiệu lực ra sao? Và đây lại là trường hợp phổ biến trên thực tế. Trong khoản 2, Điều 664 lại quy định: “…nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Như vậy, cùng một vấn đề của hai điều luật đã có sự khác nhau nhất định. Thiết nghĩ các nhà làm luật nên quy định cụ thể ra một điều luật riêng, mở rộng quyền của người còn sống tại Điều 664, rằng họ có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của họ trong khối tài sản chung; hoặc bổ sung thêm khoản 2 của Điều 668, rằng: Trong trường hợp một bên hoặc vợ hoặc chồng chết trước thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trước trong khối tài sản chung có hiệu lực pháp luật. Quy định như vậy sẽ tương tự như Điều 671 BLDS 1995 trước đây, mà các nhà làm luật đã bỏ qua khi xây dựng BLDS 2005.
Một vấn đề nữa cũng nên quy định trong luật, dù có thể hiểu gián tiếp thông qua các quy định khác; đó là quy định hình thức di chúc chung của vợ chồng phải được lập bằng văn bản để đảm bảo hơn nữa tính hợp pháp của di chúc chung của vợ chồng. Bởi vì, Điều 651 quy định: “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. 2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”. Việc vợ chồng lập di chúc miệng làm di chúc chung của vợ chồng là điều khó có thể xảy ra trên thực tế vì, di chúc chung là sự thống nhất ý chí của vợ và chồng, để cả hai cùng trong tình trạng hiểm nghèo như trên thì thật hiếm. Mặt khác, sự bày tỏ ý kiến mỗi người về bản di chúc chung đó, liệu có đảm bảo khách quan, trung thực không? Sẽ dẫn tới việc áp đặt ý chí, hoặc đơn phương ý chí, mất đi tính chất căn bản của di chúc chung vợ chồng. Thứ nữa, theo khoản 2 Điều 651, sau 3 tháng kể từ khi di chúc miệng, nếu một trong hai bên vợ hoặc chồng chết trước, toàn bộ di chúc chung hay chỉ một phần liên quan đến người còn lại có giá trị.
Do vậy, nên quy định theo hướng vợ chồng không được phép lập di chúc chung bằng hình thức miệng. Tuy nhiên, cũng cần phải nêu lên thành một quy định cụ thể rằng bắt buộc vợ chồng lập di chúc chung phải lập bằng hình thức văn bản có công chứng, chứng thực mới đảm bảo tính thi hành.
Qua phân tích ở trên ta thấy, quyền lợi của những người thừa kế bị ảnh hưởng rất lớn chỉ vì pháp luật không quy định hết mọi khả năng. Thứ nhất, đó là về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Ta thấy nếu người còn sống sống lâu hơn khoảng thời gian mười năm sau khi người vợ hoặc chồng của họ đã chết thì với những người thừa kế quyền yêu cầu chia tài sản thừa kế của họ sẽ chấm dứt. Thiết nghĩ, pháp luật nên quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di chúc chung theo hướng độc lập với thời hiệu khởi kiện về thừa kế của di chúc thông thường. Cụ thể, kể từ khi người còn sống thay đổi những vấn đề liên quan đến di chúc chung thì mới là thời điểm tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Mặt khác, trong trường hợp một người chết trước, người còn sống quản lý số tài sản chung đã được định đoạt trong di chúc chung mà làm hao hụt số tài sản ấy. Đối tượng của di chúc chung không còn, pháp luật cần phải quy định để bảo vệ quyền lợi những người thừa kế. Rằng số tài sản mà người còn sống làm hao hụt đó được coi như một nghĩa vụ dân sự mà người đó phải gánh vác. Những người thừa kế theo di chúc của người chết trước có thể được coi như là chủ nợ của người còn sống.
Một vấn đề nữa, nếu di chúc riêng của vợ hoặc chồng lập sau mà tuyên bố hủy di chúc chung thì pháp luật cần quy định những điều kiện ràng buộc để di chúc ấy không làm ảnh hưởng đến quyền lợi người kia và những người thừa kế. Cụ thể, pháp luật quy định rằng: nếu sau khi lập di chúc chung, vợ hoặc chồng muốn lập di chúc riêng tuyên bố hủy di chúc chung đã lập thì phải thông báo cho người chồng hoặc vợ của mình biết và phải được sự đồng ý của người đó bằng văn bản. Khi đó, di chúc chung của vợ chồng sẽ chấm dứt hiệu lực pháp luật.
Điều cuối cùng, ta cũng thấy luật đã bỏ sót căn cứ chấm dứt di chúc chung của vợ chồng một cách đương nhiên, có thể gây nên hậu quả là làm cho di chúc chung ấy bị vô hiệu. Đó là những yếu tố cầu thành điều kiện để bản di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật như yếu tố tài sản chung, quan hệ hôn nhân chấm dứt…Theo đó, nếu vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hoặc người còn sống làm tiêu tán toàn bộ tài sản chung được định đoạt trong di chúc chung của vợ chồng. Hay như, nếu quan hệ hôn nhân chấm dứt do ly dị thì bản di chúc chung đã lập không có giá trị hiệu lực…Để tránh những trường hợp đáng tiếc, bảo vệ những người thừa kế pháp luật cần được quy định cụ thể hơn theo hướng quy định những căn cứ làm chấm dứt hiệu lực của di chúc chung vợ chồng.
KẾT LUẬN
Di chúc là phương diện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Pháp luật Việt Nam quy định cho phép vợ chồng được lập di chúc chung. Điều này có ý nghĩa rất lớn về cả mặt luật học và xã hội học đặc biệt trong thời đại hiện nay. Như đã biết, chế độ hôn nhân của gia đình Việt Nam là cộng đồng tài sản, vợ chồng là đồng sở hữu tài sản chung hợp nhất. Quan hệ hôn nhân cũng là loại quan hệ đặc biệt. Và việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng là cần thiết, thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, cũng là tập tục đã có bao đời nay của người dân Việt Nam.
Hiện nay, trên các diễn đàn, các webside giải đáp pháp luật, di chúc chung của vợ chồng nhận được rất nhiều sự quan tâm cũng như thắc mắc về các khía cạnh hiệu lực pháp lý, các vấn đề lý luận khác. Lý luận đúng thì khi áp dụng vào thực tiễn mới hiệu quả. Trong khi chế định di chúc chung của vợ chồng được quy định trong BLDS 2005 có rất nhiều điểm bất cập, nghiên cứu nó quả là vấn đề không đơn giản. Với những đóng góp nhỏ bé của mình, hy vọng luận văn sẽ có mang một giá trị nào đó trong việc kiến nghị, sửa đổi, bổ sung BLDS 2005 ngày một hoàn thiện hơn, xứng đáng với tên gọi “luật của luật”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật Dân sự 1995 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật Dân sự 2005 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật Dân sự bắc Kỳ 1931.
Bộ luật Dân sự giản yếu 1883.
Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1963.
Bộ Quốc triều hình luật.
Bộ Hoàng Việt luật lệ.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiến sỹ Vũ Văn Mẫu, thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam.
Tiến sỹ Phạm Văn Tuyết, thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb Chính trị quốc gia.
Tiến sỹ Phùng Trung Tập, luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội.
Các tạp chí:
- Tạp chí Luật học
Tạp chí Tòa án nhân dân
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Các webside:
-
-
-
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng.doc