Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

PHẦN 1 : LỜI MỞ ĐẦU Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì con người, nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại, tính hiệu quả của quá trình này. Để đạt được sự phát triển, tính hiệu quả của quá trình CNH –HĐH thì cần phải có những chính sách phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động và cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta con người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý. Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một điều hết sức cần thiết và cần có những sự quan tâm đúng mức . PHẦN 2 : NỘI DUNG I. THẾ NÀO LÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ? MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CNH –HĐH Ở NƯỚC TA . 1. Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đại hoá ? a. Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH b. Tác dụng của CNH-HĐH Khái niệm CNH-HĐH(Hội nghị TW 7 khoá VII ) 2. Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH ở nước ta a. Mục tiêu - Tiến hành cách mạng khoa học - kĩ thuật để xây dựng cở sở vật chất – kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa . - Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lao động xã hội . - Nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh. - Củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc . b. Quan điểm - Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. - Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. II.VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ 1. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục vụ cho quá trình CNH –HĐH . 2. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn lực con người là vô tận . 3. Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn 4. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn III. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ. PHÁT HUY CÙNG CÁC GIẢI PHÁP. 1. Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta.Vận dụng phát huy vai trò của nó. a. Lực lượng lao động dồi dào: bTỷ trọng lao động trẻ cao c. Lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài d. Người Việt Nam vốn có bản tính 2. Những mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta. Nguyên nhân và các giải pháp. a. Các mặt hạn chế b. Nguyên nhân c. Giải pháp PHẦN 3 : LỜI KẾT

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 21430 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Tài Thảo Luận : Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay PHẦN 1 : LỜI MỞ ĐẦU PHẦN 2 : NỘI DUNG I. THẾ NÀO LÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ? MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CNH –HĐH Ở NƯỚC TA . 1. Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đại hoá ? a. Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH b. Tác dụng của CNH-HĐH Khái niệm CNH-HĐH(Hội nghị TW 7 khoá VII ) 2. Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH ở nước ta a. Mục tiêu b. Quan điểm II.VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ III. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ. PHÁT HUY CÙNG CÁC GIẢI PHÁP. 1. Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta.Vận dụng phát huy vai trò của nó. 2. Những mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta. Nguyên nhân và các giải pháp. a. Các mặt hạn chế b. Nguyên nhân c. Giải pháp PHẦN 3 : LỜI KẾT Lời Mở Đầu Như chúng ta đã biết công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường tốt nhất để giúp một đất nước phát triển kinh tế, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Từ đó làm nền tảng, cơ sở vật chất và kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đặc biệt đối với một nước như nước ta kinh tế còn kém phát triển, công nghiệp chậm phát triển, nông nghiệp còn lạc hậu thì sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá - hiện đại hoá là biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu và kết quả to lớn về kinh tế, văn hoá, xã hội , chính trị... song vẫn còn đó nhiều mặt hạn chế và khiếm khuyết. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì con người, nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại, tính hiệu quả của quá trình này. Để đạt được sự phát triển, tính hiệu quả của quá trình CNH –HĐH thì cần phải có những chính sách phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động và cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta con người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý. Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một điều hết sức cần thiết và cần có những sự quan tâm đúng mức . NỘI DUNG I. THẾ NÀO LÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ? MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CNH –HĐH Ở NƯỚC TA . 1. Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đại hoá ? a. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa: Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Nói cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là nói cơ sở vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước CNTB là công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá, CNXH phát triển cao hơn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhưng phải cao hơn CNTB về hai phương diện: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học kĩ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, từ CNTB hay từ những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên CNXH thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng đó chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Mà muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH các nước này phải tiến hành cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất; tiếp thu, vận dụng phát triển cao hơn những thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất và hình thành cơ cấu kinh tế mới XHCN có trình độ cao và có tổ chức(có kế hoạch, tổ chức sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản một cách hợp lý có hiệu quả). Chính vì lẽ đó đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên CNH- HĐH là tất yếu khách quan, là một việc làm đương nhiên đối với nước ta. Mỗi bước tiến của quá trình CNH-HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN . b. Tác dụng của CNH –HĐH : Thứ nhất là, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nó giúp phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất lao động. Khắc phục nguy cơ tụt hậu, giảm dần khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới. Đồng thời, góp phần nâng cao và ổn định đời sống nhân dân . Hai là, củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế Nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Thứ ba, CNH-HĐH tạo điều kiện đáp ứng các yêu cầu về vật chất-kỹ thuật cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng. Bốn là, tạo điều kiện cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, không phụ thuộc vào các nước khác để có thể tham gia hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế . Từ các tác dụng trên chúng ta có thấy được vị trí và tầm quan trọng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chính vì vậy, CNH – HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên XHCN ở nước ta . Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá (Hội nghị TW 7 khoá VII ) : “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. 2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta a. Mục tiêu : - Tiến hành cách mạng khoa học - kĩ thuật để xây dựng cở sở vật chất – kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa . - Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lao động xã hội . - Nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh. - Củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc . b. Quan điểm : - Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức. Công nghiệp hoá theo khái niệm truyền thống là quá trình thay thế lao động thủ công bằng máy móc trong sản xuất .Trong thời đại hiện nay ,công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá do sự phát triển của cách mạng KHKT cùng với xu hướng hội nhập toàn cầu hoá .Vì vậy, chúng ta có thể tận dụng, nhập khẩu công nghệ mới để phát triển kinh tế ở một số khâu, một số lĩnh vực. CNH-HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức là vì trên thế giới có nhiều nước đang chuyển từ nước công nghiệp sang phát triển kinh tế tri thức. Do đó ta tận dụng được lợi thế của một nước phát triển sau, ta không cần phát triển tuần tự mà phát triển theo con đường rút ngắn. Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.Là những ngành kinh tế mới dựa vào tri thức, thành tự khoa học công nghệ như là: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, nông công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng công nghệ khoa học cao . - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Khác với công nghiệp hoá ở thời kì trước đổi mới, được tiến hành trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Được tiến hành theo kế hoạch của nhà nước thông qua hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch, pháp lệnh. Thời kì đổi mới, CNH-HĐH được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều thành phần. Do đó CNH-HĐH không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Phân bổ các nguồn lực theo cơ chế thị trường. Đồng thời trong thời kì đổi mới, CNH-HĐH nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng các mối quán hệ kinh tế quốc tế nhằ thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm… từ các nước trên thế giới nhằm sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển . - Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH-HĐH thì yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản và quyết định. Các nguồn lực khác đều chịu sự chi phối và tác động của con người. Nguồn lực con người đòi hỏi phải có đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo. - Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ quyết định đến năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên XHCN từ một nền kinh tế kém phát triển, tiềm lực khoa học công nghệ ở trình độ thấp. Vì vậy, để tiến hành CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phải phát triển công nghệ khoa học .Phải đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ, kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghiệp, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… -Phát triển nhanh hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Xây dựng XHCN ở VN thực chất là nhằm thực hiện mực tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đỏtước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng . Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Bảo vệ môi trường tự nhiên chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững. II.VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ 1. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục vụ cho quá trình CNH –HĐH . Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên... nó đều chỉ tồn tại ở dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết hợp với nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố thì yếu tố con người quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là những nguồn lực để tiến hành CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay của người biết khai thác và sử dụng chúng. Thiếu sự hiện diện của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa . 2. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn lực con người là vô tận . Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết chăm lo, bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao . 3. Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn Một khi nó được vật thể hoá để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. 4. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy, sự thành công của công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách, cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học công nghệ... thì khó có thể có được những chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn. Không có những nhà kinh doanh tài ba thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ. Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, nguồn lực con người (nguồn nhân lực) là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do vậy muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá được thành công thì phải đổi mới, quan tâm đến các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục nhằm phát triển nguồn lực con người . III. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA: ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ. PHÁT HUY CÙNG CÁC GIẢI PHÁP 1. Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta. Vận dụng phát huy vai trò của nó: a. Lực lượng lao động dồi dào: Theo số liệu tính đến năm 2009 thì nước ta có khoảng 43.8 triệu người nằm trong độ tuổi lao động tức chiếm khoảng 51.1% dân số. Mỗi năm có thêm khoảng 1.8 triệu người bước thêm vào độ tuổi lao động(từ 15 trở lên) trong khi đó số người ra khỏi độ tuổi lao động (từ 60 trở lên) chỉ là 0.35 triệu người, dự tính trong các năm tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là khoảng 2.5%.Việt Nam đang ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng ”. Với một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là một lợi thế lớn, tiềm năng và thế mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một nước đang phát triển và đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta . b. Tỷ trọng lao động trẻ cao, phần lớn có văn hoá phổ thông. Ở Việt Nam mỗi năm số dân bước vào độ tuổi lao động là khá cao(1.8 triệu người), lực lượng lao động trẻ dồi dào và có văn hoá phổ thông có nhiều lợi thế như là có sức khoẻ, năng động, có khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp dễ dàng, ngay cả đối với các ngành mới và có nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một nền kinh tế trẻ, năng động và phát triển . c. Lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài là khá lớn tập trung ở châu Âu, châu Mỹ, các nước châu Á phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc) là những nơi có nền kinh tế phát triển, có công nghệ khoa học và trình độ phát triển cao. Trong đó tỉ lệ người có trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cao là đáng kể (khoảng 300.000). Đây là một nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu nối giữa để chuyển giao các công nghệ, tri thức về trong nước và tạo dựng các mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới . d. Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động và đoàn kết. Đó là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những sáng tạo, những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, giúp nhau về công ăn việc làm. Đây là một trong những ưu điểm mạnh nhất của lạo động Việt Nam. 2. Những mặt hạn chế của nguồn nhân lực nước ta. Nguyên nhân cùng các giải pháp : a. Những mặt hạn chế: - Số lượng đông nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp. Hiện nay nước ta đang thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, có tay nghề cao.Theo kết quả điều tra lao động việc làm thì vẫn còn trên 15% số lao động chưa tốt nghiệp tiểu học,trong đó chưa biết chữ chiếm gần 4% ,trong số lao động trong nhóm tuổi 15-34 tuổi số người không có chuyên môn kĩ thuật chiếm 84%. Thực tế cho thấy, hiện chỉ có khoảng 35% lao động VN được qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%, 78% thanh niên trong độ tuổi 20-24 khi tham gia vào thị trường lao động chưa được đào tạo nghề hoặc có đào tạo nhưng vẫn bị hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Bên cạnh đó, những lao động có trình độ cao đã được đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 15-20% yêu cầu của DN. Điều này dẫn đến việc nhiều DN đang thiếu lao động kĩ thuật. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. - Đội ngũ cán bộ khoa học trẻ chất lượng còn ít dẫn đến việc chuyển bị cho thế hệ kế cận gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê, hiện nay trong tổng số 61.000 giảng viên của các trường đại học, học viện, cao đẳng trong cả nước chỉ có 320 giảng viên có chức danh giáo sư. Trong số cán bộ khoa học đang làm việc tại các trường có tới 75% đã quá tuổi 50, số cán bộ dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Hơn 60% số phó tiến sĩ và tiến sĩ, hơn 70% phó giáo sư và hơn 90% số giáo sư nằm trong độ tuổi từ 55 đến 60. Điều này nói lên một thực trạng, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục đào tạo đang già đi, trong khi đội ngũ kế cận lại có biểu hiện không muốn kế thừa bởi nhiều nguyên nhân. Hiện tượng chảy máu chất xám hiện đang là thực trạng chung mà cần phải có những biện pháp để giữ chân người tài . - Cơ cấu, bố trí sử dụng nguồn nhân lực còn bất hợp lí: mất cân đối tỷ lệ về trình độ nhân lực đã qua đào tạo .Theo thống kê ở nước ta cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100 .Đây chính là tình trạng “thầy nhiều hơn thợ ”. Ngoài ra việc bố trí sử dụng cán bộ còn bất hợp lí giữa các vùng miền, giữa các ngành. 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở Hà Nội, ở TP.HCM chỉ có 12%. Bình quân chung của cả nước ta là 118 sinh viên/1 vạn dân nhưng ở Tây Bắc và một số vùng miền núi khác chỉ là 17 sinh viên/1 vạn dân. Hầu hết các nguồn lao động có chất lượng đều tập trung ở các thành phố lớn, trong khí đó các vùng miền núi, nông thôn lại thiếu trầm trọng. Cùng với đó là mất cân đối giữa các ngành đào tạo. Cụ thể, sinh viên nhóm ngành kinh tế và quản lý chiếm tỷ trọng cao nhất với 29,86%; trong khi số SV ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 15,29%. Ở hệ CĐ, SV nhóm ngành sư phạm lên tới 40%; trong khi nhóm ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 17,63%. Việc này đã gây ra hiện tượng thừa thiếu lao động giả tạo,gây ra nạn thất nghiệp đặc biệt trong lao động tri thức. - Thể chất, sức khoẻ lao động Việt Nam: chất lượng dân số thấp đang là yếu tố cản trở sự phát triển của xã hội. Mặc dù thời gian qua, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện nhưng còn thấp hơn so với nhu cầu phát triển của Việt Nam. Theo thống kê, có tới 1,5% dân số Việt Nam bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ, trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền chiếm khoảng 1,5-3%. Đặc biệt, xu hướng này hiện có dấu hiệu tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi trường độc hại và không được phát hiện, điều trị kịp thời. Nhiều nhất chính là số người bị tàn tật, khuyết tật, hiện chiếm khoảng 6,3% dân số và đang được “bổ sung” mỗi ngày do tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động liên tục gia tăng. Không chỉ kém về thể chất, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực cũng còn hạn chế. Thanh niên Việt Nam không chỉ thấp, bé, nhẹ cân mà còn yếu về sức mạnh cơ bắp, sức dẻo dai và sức bền. Tuổi thọ bình quân khỏe mạnh của Việt Nam chỉ đạt 60,2 tuổi, xếp thứ 116/174 nước trên thế giới. Tính trung bình, mỗi người dân có tới 12 năm ốm đau so với 72,2 tuổi thọ bình quân. Đó là chưa kể đến số khá đông thanh niên đang trong độ tuổi lao động nhưng thất nghiệp hoặc mắc vào vòng nghiện ngập, mang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS .Vì vậy mặc dù đang được coi là nằm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng  nhưng chất lượng dân số của Việt Nam hiện được coi là thấp, đặc biệt là chất lượng thể chất và thể lực. - Nguồn lao động Việt Nam chưa có nếp sống lao động công nghiệp: tác phong công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá năng lực và hiểu biết về nguồn nhân lực. Tuy nhiên khái niệm “tác phong công nghiệp” dường như vẫn xa lạ với số đông người Việt. Sự chậm chạp và lề mề trong công việc vốn đã trở thành vết hằn ăn sâu vào máu thịt của từng người và chính vì thế, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, địa vị trong xã hội lúc này hay lúc khác, sự trễ nải, lỡ hẹn là không tránh khỏi. Việc chưa am hiểu tác phong công nghiệp của người lao động thể hiện: chậm thích ứng với môi trường có sự giám sát chuyên nghiệp, ít quan tâm các nội quy và chế độ an toàn lao động. Đây là yếu tố làm giảm rất lớn chất lượng lao động Việt Nam nhất là trong xu thế hội nhập ngày nay sẽ tạo nên một cái nhìn phản cảm trong con mắt của bạn bè quốc tế. b. Nguyên nhân : - Cơ cấu chất lượng giáo dục đào tạo chưa hợp lý: Cơ cấu giáo dục giữa các cấp bậc ,các ngành học, khối ngành học trong cả nước nói chung và từng khu vực nói chung còn nhiều bất cập. Mà nguyên nhân chủ yếu là do sự điều tiết của Nhà Nước về giáo dục còn chưa hiệu quả. Chương trình đào tạo chưa bám sát vào yêu cầu thực tiễn do chất lượng đào tạo và huấn luyện chưa bám sát vào nhu cầu xã  hội và yêu cầu của người sử dụng lao động. Quy trình đào tạo, huấn luyện tồn tại nhiều bất hợp lý, lỗi thời. Chưa gắn lý luận với thực tiễn. Đặc biệt đối với các trường nghành kỹ thuật cơ sở vật chất còn thiếu thốn dẫn đến tình trạng sinh viên được tiếp cận với thực tế vẫn còn rất hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra. Học viên học một cách thụ động do thiếu thông tin và nhận thức mang tính hướng nghiệp. Nhà trường, cơ sở dạy nghề chỉ dạy và đào tạo những gì mình có, chưa thực sự quan tâm đến việc trang bị cho người lao động những kỹ năng, kiến thức về xã hội. Từ đó dẫn đến tính kỷ luật của người lao động còn yếu và ở nhiều ngành nghề còn chưa đáp ứng đúng nhu cầu thực tiễn. Hầu hết người lao động sau khi được đào tạo đều bỡ ngỡ khi bước vào môi trường làm việc thực sự, nhiều doanh nghiệp cho rằng hầu hết phải đào tạo bổ sung hoặc đào tạo lại sau khi tuyển dụng. - Lực lượng và cở sở trang thiết bị để chăm sóc, cải thiện sức khoẻ người dân vẫn còn quá thiếu thốn (đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng sa) dẫn đến thể trạng và sức khoẻ lao động vẫn dậm chân tại chỗ. Đa số cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có cán bộ y tế, việc thực hiện đo môi trường lao động và khám sức khỏe định kỳ cho người lao động chưa thường xuyên; việc phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát về công tác bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và chăm sóc sức khoẻ cho người lao động còn hạn chế. - Chưa đầu tư thích đáng cho giáo dục, dạy nghề và hướng nghiệp. Trong hệ thống các trường chuyên nghiệp hiện nay có rất ít trường có cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học đủ hấp dẫn và thuyết phục người học, đa số còn yếu kém thiếu thốn nên chưa thật sự đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội. Điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật hiện đại để đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ cao như điện tử - tin học, viễn thông… để đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước còn chưa đáp ứng được. Cùng với đó vấn đề định hướng nghề nghiệp cũng không được chú trọng nhiều . - Đội ngũ giảng dạy, đào tạo giáo dục, kiến thức nghề nghiệp còn thiếu và yếu về số lượng cũng như năng lực. Do hệ thống dạy nghề đa dạng về cả loại hình cơ sở, ngành nghề và trình độ đào tạo nên đội ngũ giáo viên dạy nghề(GVDN) của cả nước nói chung đa dạng về mọi mẳt trình độ không đồng đều nên những tồn tại của đội ngũ giáo viên hiện nay không phải là ít. Những tồn tại, yếu kém của đội ngũ GVDN hiện nay nổi lên mấy vấn đề là thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu ngành nghề đào tạo. Đặc biệt thiếu nghiêm trọng giáo viên cho các nghề mới, thiếu giáo viên giỏi thực sự. Mặt khác, giáo viên dạy nghề nước ta ít được tiếp cận với khoa học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại nên chất lượng đào tạo nghề chắc chắn bị hạn chế. Không những thế, họ còn nhiều hạn chế về năng lực sư phạm, cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học nên việc giảng dạy, cũng như khai thác, sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại vào đào tạo nghề còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế việc đào tạo GVDN ở các trường sư phạm kỹ thuật hiện nay là quá ít ( chiếm khoảng 10%), trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng nhiều hơn. Điều này đặt ra sự cần thiết phải có những phương hướng, mô hình đào tạo GVDN một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên cho nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội, đồng thời phải gắn đào tạo với mục đích sử dụng họ sau khi ra trường. Bởi lẽ, đào tạo nghề có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. - Một bộ phận nhỏ lao động chưa nhận thức đầy đủ về việc phải nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề, còn thờ ơ với nếp sống lao động công nghiệp .Mặc dù đã tăng cường công tác tuyên truyền về học nghề, dạy nghề, nhưng một bộ phận lớn người dân vẫn chưa nhận thức đúng mức về vai trò của đào tạo nghề; một số cấp, ngành, địa phương chưa có phương án chuẩn bị nguồn nhân lực kỹ thuật, phục vụ phát triển bền vững KT-XH của địa phương. Một bộ phận lớn học sinh tốt nghiệp THCS, THPT, thanh niên chưa hiểu đúng và lựa chọn học nghề là con đường lập thân, lập nghiệp phù hợp với khả năng, điều kiện của mình . c. Các giải pháp : Để khắc phục những hạn chế của nguồn nhân lực nước ta, tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng tạo ra những sự chuyển biến căn bản, toàn diện nhằm phát triển tốt yếu tố con người, nguồn nhân lực. Nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước thời kì đổi mới. Sau đây chúng em xin đưa ra một số giải pháp sau : - Điều đầu tiên quan trọng nhất là phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước không lấy gì là nhiều tài nguyên thiên nhiên, nếu không nói quá là ít như nước ta thì phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực. Phải xác định rõ như vậy thì mới có được những chính sách, chiến lược phát triển đầu tư cho nguồn nhân lực một cách thích đáng, trọng tâm, trọng điểm. - Nâng cao, đổi mới chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng lao động: phải tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục sao cho có hiệu quả hơn, tăng cường các trang thiết bị học tập cần thiết phục vụ cho giáo dục. Đồng thời phải đầu tư, mở rộng quy mô giáo dục để đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của đất nước. Cùng với đó, đào tạo nguồn lao động có những kiến thức cơ bản, làm chủ kĩ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên. Đào tạo nghề từ sơ cấp đến các cấp bậc cao hơn. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa. Vấn đề đặt ra cần phải tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài ,mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng đáng vào phát huy nguồn lực con người. Tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hoàn thiện đó là cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người. - Để tránh tình trạng thầy nhiều hơn thợ, ngành, nơi này thừa lao động ngành kia lại thiếu, thiếu hụt lớp lao động kế cận thì cần phải có những điều chỉnh cơ cấu lao động phải hợp lí hơn giữa trình độ, nghành nghề, độ tuổi. Cùng với đó phải có những kế hoạch, chính sách phân bố lao động phải hợp lí hơn giữa các vùng miền, khu vực để tránh tình trạng những thành phố lớn phát triển dư thừa nhân lực trong khi các vùng miền núi, nông thôn kém phát triển lại thiếu những nguồn lao động. Dẫn đến sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền trong cả nước. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc họ, cơ cấu nghành, nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số . - Phải có những chính về sức khoẻ và y tế để cải thiện thể trạng và sức khoẻ lao động. Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người .Cần phải có những đầu tư thích đáng về y tế, trang thiết bị phục vụ cho y tế tới các vùng miền sâu sa (những nơi thường thiếu thốn các cơ sở y tế, trang thiết bị dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém, thường xuyên bệnh tật, trẻ em suy dinh dưỡng) nhằm cải thiện sức khoẻ và cần có những chính sách để nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đảm bảo cho họ có sức khoẻ dồi dào, sức khoẻ minh mẫn. Phải thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động ngày một tốt hơn đòi hỏi cần có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất; tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ban/ngành trong việc xây dựng kế hoạch, kiểm tra, giám sát hoạt động về công tác bảo hộ lao động, đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp có nhiều yếu tố nguy hiểm, độc hại; tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các văn bản pháp qui về an toàn lao động, vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp có như vậy mới chăm sóc tốt sức khỏe cho người lao động, hạn chế và đẩy lùi tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.  - Các chính sách xã hội hoá việc làm cần phải được phát huy để tận dụng được tối đa nguồn nhân lực .Khôi phục các làng nghề, phố nghề truyền thống để huy động tổng lực các nguồn lực của các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, mọi người dân. Cơ sở kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh nghiệp ngành nghề ở nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm. Vì vậy, cần phải được tạo điều kiện phát triền. Đồng thời tổ chức các hội chợ việc làm, các buổi thảo luận, hội nghị hướng nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp đỡ nguồn nhân lực có được công ăn việc làm, tránh tình trạng thất nghiệp. Tổ chức và có những chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. - Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng thau lẫn lộn", làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó, những người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan công quyền. Đồng thời, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ diễn ra trong ngày một ngày hai mà là trong nhiều năm bởi vậy cần phải có những chính sách, kế hoạch nhằm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động kế cận. Bên cạnh đó, cần phải bồi dưỡng cho lực lượng lao động về lối sống, đạo đức, chính trị-tư tưởng, pháp luật. Tài phải đi đôi với đức . Tóm lại việc giáo dục đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách hợp lý để phát triển, sử dụng, không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ trọng tâm trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Mặc dù, chúng ta cũng đã đạt những thành tựu và kết quả nhưng so với yêu câu phát triển kinh tế xã hội thì vẫn chưa đáp ứng được. Chính bởi vậy, Chính phủ và Nhà nước ta cần phải có những chính sách, chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý hơn nữa. Để sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá nước ta đạt được những kết quả và thành tựu to lớn. LỜI KẾT Để phát triển kinh tế kinh tế - xã hội thì dựa trên rất nhiều nguồn lực: nhân lực (nguồn lực con người), vật lực (công cụ lao động, đối tượng lao động, tài nguyên thiên nhiên…), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ…). Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng thì đều phải thông qua nguồn lực con người. Do vậy, trong bất cứ xã hội nào, đất nước nào thì vấn đề đào tạo và phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò cực kì quan trọng. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, đang trong thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì nó lại càng được coi trọng hơn nữa. Con người Việt Nam đã làm được nhiều điều kì diệu trong lịch sử và chắc chắn cũng sẽ làm được những điều đó để phát triển đất nước. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nói: “ Nhìn lại thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam dũng cảm và thông minh đã làm được những điều tưởng như không làm được, đã làm cho hiện thực lịch sử trở thành huyền thoại. Bước vào thế kỉ XXI và thiên niên kỉ mới, dân tộc ta với hoài bão lớn và trí tuệ sáng tạo sẽ có những ước mơ tưởng như huyền thoại và quyết biến những ước mơ ấy thành hiện thực lịch sử ”. Mong rằng, nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá trong một tương lai gần nhất để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Mặc dù, đã cố gắng rất nhiều nhưng bài thảo luận của nhóm em cũng không tránh khỏi những sai sót. Em mong được sự giúp đỡ và đóng góp của cô để bài thảo luận của chúng em được tốt và hoàn thiện hơn .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.doc
Luận văn liên quan