Các ổdịch bệnh tiềm tàng là các trởngại đáng kể đối với dựán, rất khó đểcó thểkhống
chếhoặc dự đoán trước. Hơn nữa, chắc chắn việc này cũng có ảnh hưởng đến giá cảcủa thịt lợn –
mà chính điều này có tác động trực tiếp đối với nông dân Việt Nam, như đã được ghi nhận trong
các ổdịch xảy ra tại Trung Quốc, nhưng cũng có thểlàm thảm họa cho dựán của chúng tôi nếu các
lợn hậu bịthuần chủng Móng Cái nằm trong vùng dịch bệnh. Đã có16 trong số125 lợn hậu bị
Móng Cái được nhập vào tỉnh Thừa Thiên Huế đã bịchết lúc 2-3 tháng tuổi (tỷlệchết là 12.5%) –
thời điểm mà đáng lẽra mức thiệt hại phải là không đáng kể. Có 10 lợn hậu bịchết do bệnh tụhuyết
trùng. Bệnh này hoàn toàn đã có thểphòng được bằng cách tuân thủnghiêm túc lịch tiêm phòng
trước khi đưa lợn vào các trại và có 1 giai đoạn cách ly theo dõi đầy đủ. Vềkhía cạnh an toàn sinh
học, ởcác cơsởlớn nuôi lợn SPF ởAustralia, chúng tôi chỉcó thểtiến hành các kiểm tra trong 1
ngày đối với 1 trại – điều mà thực sựkhông thểduy trì được đối với các sơsởchăn nuôi nhỏlẻ ở
Việt Nam. Các nhà khoa học của chúng tôi đã tiến hành các kiểm tra từ8-10 cơsởchăn nuôi trong
1 ngày, ngoài việc tiến hành thay ủng hoặc các túi nilon đểlót giầy, các quy trình khác để đảm bảo
thực hiện an toàn sinh học giữa các trại là không có thểthực hiện được.
14 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3297 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một sốtỉnh miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Ministry of Agriculture & Rural Development
Báo cáo tiến độ của dự án
004/05VIE
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
MS5: Báo cáo 6 tháng lần 2
1/2006-6/2007
2
1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nong hộ tại một
số tỉnh miền Trung Việt Nam
Các đối tác tham gia phía Việt
Nam
Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông Lâm Huế
(HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía VN TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía
Australia
The University of Queensland/Victorian Department of Primary
Industry/South Australian Research and Development
Institute/University of Sydney
Tên các cán bộ tham gia dự án
phía Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony Fahy, Dr
Trish Holyoake
Ngày bắt đầu 1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định
ban đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa) tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo tháng 11 năm 2006 – tháng 06 năm 2006
Các địa chỉ liên lạc:
Phía Australia: Trưởng dự án
Tên Dr Darren Trott Telephone: 617 336 52985
Chức vụ Giảng viên chính, trường Thú Y, Đại học
Tổng hợp Queensland
Fax: 617 336 51355
Cơ quan Trường Thú Y, Đại học Tổng hợp
Queensland
Email: d.trott@uq.edu.au
Phía Australia: Quản lý hành chính
Tên Melissa Anderson Telephone: 61 7 33652651
Chức vụ Trưởng văn phòng các dự án nghiên cứu Fax: 61 7 33651188
Cơ quan Trường Tài nguyên đất và thức ăn, Đại học
Tổng hợp Queensland
Email: m.anderson@uq.edu.au
Phía Việt Nam
Tên TS. Đỗ Ngọc Thuý Telephone: 84 4 8693923
Chức vụ Nghiên cứu viên Fax: 84 4 8694082
Cơ quan NIVR Email: dongocthuy73i@yahoo.com
3
2. Tóm tắt dự án
Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi cac giống lợn như lợn Móng
Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các
điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất
lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho
các chương trình giống thuần và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể
cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín
từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại
và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương
trình cải tiến liên tục này (CIP) sẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho
các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua
phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những
người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể
thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể áp dụng được thành công trong thực tế.
3. Tóm tắt kế hoạch
Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các trại; 3.
Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông hộ; 5. Theo
dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận.
Trong thời gian 6 tháng thứ 2 thực hiện dự án, các tiến độ đáng kể đã được thực hiện đối với các
mục tiêu 2-4, theo đúng như đề cương của dự án, với 1 số những thay đổi nhỏ và yêu cầu kéo dài
thêm thời gian do 1 số tình huống không được dự báo trước.
Một điều tra về các hộ nông dân, do các nhà khoa học Việt Nam và Australia thiết kế trong quá
trình chương trình tập huấn diễn ra tại Australia đã được hoàn thành tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa
Thiên Huế, Bình Định và tỉnh Quảng Trị. Một dạng mẫu điều tra online đã do trường Queensland
thiết kế và đã đưa vào thực hành nhằm mục đích đơn giản hóa việc đăng nhập số liệu và các phân
tích, và cung cấp các công cụ để theo dõi chương trình cải tiến liên tục (CIP) tại các trại đã được
chọn lựa. Hệ thống này còn có khả năng cập nhật các hình ảnh, bởi vậy mà các ảnh hoặc hình vẽ về
kế hoạch xây dựng cải tiến chuồng trại cũng có thể được đánh giá hoặc trao đổi nhanh chóng giữa
các nhà khoa học. Các dữ liệu này sẽ cung cấp nền tảng cơ bản cho việc mở rộng tiếp tục mô hình
này, vượt ra khỏi cả khuôn khổ của dự án hiện tại.
Trên cơ sở các trả lời của các điều tra, mà đã được phân tích qua bằng chương trình SPSS, 27-30
trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được chọn lực và các mục tiêu 3-4 đã được bắt đầu đi vào thực hiện (nâng
cấp các trang thiết bị, tập huấn, và nhập lợn giống). Các nhà khoa học Việt Nam, những người mà
dã được tham gia khóa tập huấn tại Australia sẽ tiến hành 2 bài đánh giá về các trình độ thu được.
Thứ nhất, dựa trên các cuộc điều tra tại thực địa và việc thảo luận với các nhà khoa học Australia,
họ đã đặt ra nhiệm vụ thiết kế hệ thống chuồng trại thích hợp cho lợn Móng Cái đối với các trại đã
được chọn lựa để công việc có thể chính thức được khởi động. Thứ hai, trong quá trình các nhà
khoa học Australia tiến hành các chuyến đi thực địa, họ đã tiến hành các đánh giá và nhận biết ra
các vấn đề tồn tại, thảo luận và đưa ra các ưu tiên.
4
Do chi phí của việc đi lại và do thiếu các kỹ thuật viên cơ sở có kinh nghiệm để hỗ trợ, chúng tôi đã
quyết định là tạm thời để tỉnh Bình Định ra khỏi các mục tiêu 2-4 cho tới sau này của dự án. Thay
vào đó, các cố gắng sẽ được tập trung vào việc tiến hành các thay đổi ở tình Quảng Trị (do NIAH tự
quản lý) và Thừa Thiên Huế (do HUAF tự quản lý). NIVR sẽ bảo đảm việc tiến hành các chẩn đoán
về bệnh tiêu chảy và các bệnh khác cho các trại, hỗ trợ về thú y trong việc điều tra các ổ dịch bệnh
và cung cấp vacxin E. coli do cơ quan này chế tạo để phòng bệnh tiêu chảy do E. coli ở lợn con theo
mẹ cho cả 2 tỉnh này. Tùy địa điểm thích hợp, các nhà khoa học của NIAH và HUAF mà đã được
tập huấn ở Australia sẽ hợp tác với nhau trong các chương trình tập huấn ở cả 2 tỉnh để đảm bảo
việc chuyển giao 1 cách đầy đủ nhất các ý tưởng và các kỹ năng.
Trong quá trình tiến hành điều tra, bất chấp 1 thực tế là các loại hình của hệ thống các trại là rất đa
dạng và chất lượng của chuồng trại là khác nhau rất nhiều, chúng tôi cũng đã quyết định rằng, hơn
vì so sánh các ưu điểm thể hiện giữa lợn nái lai nhập ngoại và lợn Móng Cái, phần lớn các hộ nông
dân (ngoại trừ 1 ngoại lệ là 1 hộ gia đình rất có kinh nghiệm trong việc nuôi các giống lợn ngoại) sẽ
được nhận các lợn nái hậu bị thuần chủng Móng Cái. Nếu các hộ nông dân đạt được những thành
công với việc nuôi lợn Móng Cái, thì sau đó họ cũng có thể được khuyến khích để mở rộng chăn
nuôi và nuôi lợn F1 hoặc các lợn lai trong tương lai. Có 2 mô hình thích hợp khác nhau đã được thử
nghiệm, mỗi mô hình ở 1 tỉnh. Tại Thừa Thiên Huế, do khoảng cách giữa các trại và HUAF gần
nhau nên các chuyến đi thực địa xuống các trại cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Do vậy, các
thay đổi đối với các điều kiện chăn nuôi như việc xây dựng khu chuồng riêng cho các lợn nái đã cạn
sữa, khu chuồng cho lợn nái đẻ và chuồng riêng cho lợn con, tăng mức độ thoáng gió và hệ thống
làm mát bằng nước nhỏ giọt cũng đã được tiến hành cùng thời gian với việc đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi, đồng thời với việc tập huấn từng bước 1 đối với từng giai đoạn có tính quyết định của quá
trình chăn nuôi. Các lợn nái hậu bị mang thai đầu tiên ở Thừa Thiên Huế sẽ đẻ con vào khoảng cuối
tháng 10, đầu tháng 11. Ở tỉnh Quảng Trị, các trại được chọn lựa đã tham gia chương trình tập huấn
về nuôi lợn Móng Cái thuần chủng do NIAH tổ chức ngay sau khi quá trình chọn lựa các trại được
tiến hành xong. Một mô hình chuồng nuôi lý tưởng cho lợn Móng Cái đã được thiết kế như là mô
hình mẫu cho nông dân để có thể dựa vào đó và tiếp tục phát triển một khi mà đã bắt đầu có lợi
nhuận. Các lợn nái hậu bị được nuôi trong vùng lợn Móng Cái thuần chủng ở miền Bắc được dự
định là sẽ được vận chuyển đến các trại đã được chọn lựa ở tỉnh Quảng Trị trong tháng 7. Tuy
nhiên, các ổ dịch FMD và PRRS nổ ra ở tỉnh Quảng Trị đã làm cản trở việc chu chuyển gia súc vào
tỉnh này, và bởi vậy các lợn nái hậu bị lại phải bán trở lại cho các hộ nông dân ở miền Bắc. Do vậy,
quá trình nâng cấp chuồng trại đã được tiến hành xong hoàn toàn trước khi đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi. Tuy nhiên, sau đó thì tình hình các bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị đã ít nhiều sang
sủa hơn nên các lợn nái hậu bị lại đã tiếp tục được chọn lựa và sẽ được đưa vào đây vào khoảng
tháng 11 hoặc tháng 12, khi mà giá cả là hoàn toàn thích hợp.
Các chương trình tập huấn chính và đồng thời ở mỗi tỉnh đã được lập kế hoạch vào tháng 11, tập
trung chủ yếu vào việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái Móng Cái trong quá trình mang thai và nuôi
con, cũng như là việc chăm sóc lợn con ở độ tuổi trước cai sữa. Trong tuần thứ 1, các kỹ thuật viên
cơ sở sẽ được tập huấn, sau đó là đến các nông dân đã được chọn lựa vào tuần thứ 2. Do sự chậm
trễ về kế hoạch thực hiện trong khoảng 3-4 tháng gây ra bởi dịch bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng
Trị, những người tham gia dự án muốn có thêm 1 khoảng thời gian gia hạn là 3 tháng đối với tất cả
các báo cáo tiến độ 6 tháng (tháng 1 và tháng 7 hàng năm).
Các thay đổi về nhân lực tham gia dự án bao gồm: việc biệt phái TS. Côi sang vị trí mới là giám
đốc Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, và TS. Tạ Thị Bích Duyên sẽ là người thay thế để
quản lý dự án phía NIAH. TS. Trish Holyoake cũng đã chính thức xin phía trường Sydney rút khỏi
dự án này do bà ta phải tham gia 1 số dự án khác. Do vậy, khoản ngân sách $18,000 trước đây là
vốn hoạt động của phía trường Sydney được yêu cầu là sẽ phân phối đều cho các cơ quan nghiên
cứu phía Việt Nam để trang trải các chi phí đi lại do các trì hoãn gây ra ở tỉnh Quảng Trị và việc
phải đi lại nhiều hơn đối với các nhà khoa học ở Huế.
5
4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án
Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt Nam đã
không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn giữ chăn nuôi
theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc chăn nuôi được mở
rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc biệt là ở giai đoạn lợn con còn đang bú mẹ, do
vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt hại đáng kể cho lợn ở giai
đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng
đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân
chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồng lợn đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân
chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này
cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi
tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
cũng là nguồn cải thiện thu nhập đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở
do lợi nhuận thu được là rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng
trong chăn nuôi và quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm
thu được từ dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Việt
Nam hiện đang phải đối mặt là:
• Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày
• Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán ra/nái/năm
để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được
• Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản
• Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả năng tiêu thụ thức ăn của lợn
• Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng
• Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và nguyên
nhân gây chết
• Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác dụng
phòng bệnh của vacxin
• Thiếu chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân
• Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học
Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi lợn,
cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn nuôi, thú y, chuồng
trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các ưu tiên nghiên cứu. Một
ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là nuôi <10-15 lợn nái) và các trại
thương phẩm nhỏ (30-100 nái) ở từng tỉnh sẽ được lựa chọn để tham gia vào quá trình điều tra và
đánh giá – các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chăn nuôi, trình độ của người chăn nuôi và các điều
kiện chăn nuôi tại các trại. Trước khi triển khai điều tra, các nhà khoa học phía Việt Nam sẽ được
tập huấn để tổ chức các chuyến kiểm tra thực địa và phòng vấn nông hộ, thu thập số liệu về sức sản
xuất và các điều kiện về trang thiết bị khác.
Tiếp theo các cuộc điều tra ở các trại đã được chọn lựa tại 3 tỉnh, 1 cuộc hội thảo sẽ đựoc tổ
chức tại Trường Đại học Nông lâm Huế để xác định các yếu tố rủi ro chính có ảnh hưởng đến năng
suát chăn nuôi lợn. Những ưu tiên nghiên cứu sẽ được xác lập cho việc cải tiến quản lý, các kỹ thuật
chăn nuôi và chuồng trại tại các nông hộ. Điều này sẽ có dẫn đến kết quả là việc phát triển các mô
hình chuồng nuôi thích hợp cho chăn nuôi lợn (với những cải tiến phù hợp), cũng như là các kỹ
thuật chăn nuôi và quản lý. Một khi mà các mô hình này được đánh giá thông qua, hàng loạt các
chuyến đi thực địa sẽ được triển khai ở các huyện mà các cán bộ khuyến nông và thú y địa phương
là những người đã được đào tạo sẽ tham gia tích cực. Các nông dân dã được lựa chọn sẽ được mời
tham dự các lớp tập huấn “Tập huấn cho giáo viên” ở mỗi vùng. Các buổi hội thảo về chăn nuôi lợn
từ sinh sản đến khi bán ra thị trường cũng sẽ được tiến hành để đáp ứng được các yêu cầu và các hệ
thống chăn nuôi theo đó.
6
Rất nhiều nông hộ nghèo hiện nay vẫn nuôi các giống lợn nội với ý định lai chúng với các
giống lợn ngoại để tăng khá năng phát triển và năng suất ở đàn con F1. Tuy nhiên, các giống lợn
nội nuôi tại các nông hộ hiện tại có năng suất rất kém. Trong số 3 dòng lợn thuần chủng chính,
giống lợn Móng Cái có năng suất cao hơn cả. Giống lợn Móng Cái có năng suất cao đã được tiến
hành lai với lợn Bắc Giang cho đàn con trung bình là 13-14 con/lứa đẻ (so với các giống lợn nội
khác chỉ đạt 8-9 con) và tốc độ tăng trọng bình quân đạt 350-400 g/ngày (các giống khác 200-250
g/ngày). Kết quả này đã bộc lộ rõ các ưu việt của giống lợn Móng Cái. Nếu thay thế được đàn lợn
nội bằng lợn Móng Cái thuần chủng có năng suất và chất lượng cao sẽ tạo thành các vùng hạt nhân
về lợn Móng Cái thuần chủng cho vùng Duyên hải miền Trung. Các con nái hậu bị thuần chủng sẽ
được tăng lên về số lượng và sẽ được bán cho các hộ chăn nuôi nhỏ khác trong chương trình lai với
lợn đực ngoại. Các công thức lai trong đàn F1 sẽ cho tốc độ phát triển tốt hơn các giống nội hiện
đang nuôi, nhưng lại thích nghi hơn với các điều kiện môi trường của địa phương so với các giống
lợn ngoại. Ngoài ra, chương trình này còn góp phần bảo tồn nguồn gen lợn Móng Cái thuần chủng
tại khu vực Duyên hải Miền Trung.
5. Các tiến triển của dự án
5.1. Điểm qua các việc đã thực hiện được:
1) Hoàn chỉnh các điều tra tại trại và xây dựng 1 hệ thống dữ liệu online: 6 cán bộ phía Việt
Nam đã được tham gia đào tạo tập huấn tại Australia, và đã tiến hành các điều tra tại mỗi tỉnh.
Trường Đại học Tổng hợp Queensland đã thiết kế, thử nghiệm và hiện đã đưa vào sử dụng 1 hệ
thống quản lý dữ liệu online để đảm bảo tính chính xác của việc theo dõi các điều tra, bao gồm cả
việc có thể gửi lên đó các ảnh chụp được tại thực địa.Vai trò của hệ thống dữ liệu này, không chỉ là
để thu thập đầy đủ các số liệu từ các trại đã được điều tra ở Việt Nam, mà còn có thể giúp nhận ra 1
cách nhanh chóng trại nào thực sự có tiến triển 1 cách có hiệu quả, chủ yếu là tập trung vào khía
cạnh chăn nuôi và loại tiến triển đã được thực hiện. Bởi vậy, các số liệu thu thập được từ mỗi trại
trong số các trại đã được chọn lựa sẽ có tính bao quát hơn và trong mỗi lần kiểm tra, các ghi nhận
về hình ảnh cũng sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc phân tích số liệu
Hệ thống dữ liệu này có thể được tìm thấy online tại địa chỉ: Tên
để đăng nhập vào hệ thống (AUSAID CARD) và mật mã (pigproject) đã được thiết lập và phổ biến
tới tất cả các thanh viên của ban quản lý dự án để có thể đăng nhập và xem các dữ liệu có trong đó
bất kỳ lúc nào (mà không có khả năng làm thay đổi các theo dõi đã có trong đó). Tính cho đến thời
điểm này, các số liệu đại diện cho 42 trại ở tỉnh Bình Định, 87 trại ở Quảng Nam, 44 trại ở Quảng
Trị và 98 trại tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã được đăng nhập vào hệ thống.
HUAF đã tiến hành phân tích các kết quả có được từ các điều tra của họ (tổng số là 220 trại ở tỉnh
Thừa Thiên Huế và Quảng Nam), sử dụng chương trình SPSS như đã được tóm tắt (trong phần Phụ
lục 1: Báo cáo các hoạt động điều tra). Số lượng các lợn nái, từ khoảng 1 đến 20 con, với số trung
bình là 3.5 và 84% số hộ chăn nuôi lợn Móng Cái. Có 93% số hộ nuôi ít hơn 11 nái (dao động từ 1-
10) và 89% nuôi ít hơn 6 nái (dao động từ 1-5). Các số liệu chính về nhân khẩu là 98.4%, 80%,
35% và 7% số nông dân có trình độ tương ứng về tiểu học, trên tiểu học, trung học cơ sở và trên
trung học cơ sở, nhưng trình độ văn hóa không có liên quan tới số lợn nái được nuôi. Điều thú vị là
tất cả các họ đều có trên 5 năm kinh nghiệm chăn nuôi lợn và 89% có trên 10 năm kinh nghiệm. Số
lợn con trung bình sinh ra và sống sót là 12.04 + 1.63, với lợn Móng Cái trung bình là 12.61 và lợn
nhập ngoại là 9.95. Số con chết khi sinh (bao gồm cả số chết ngay khi mới sinh ra do lợn mẹ đè
bẹp) trung bình là 15.9% (13.7% đối với lợn Móng Cái và 32.8% đối với lợn ngoại). Lợn Móng Cái
được đánh giá là các con nái mẹ tốt và ít khi cần phải đòi hỏi cần phải có chuồng đẻ riêng. Hơn
80% số đàn đã được báo cáo là có mắc tiêu chảy với 12.2% số đàn có >55% số lợn con trong đàn bị
tiêu chảy. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tiêu chảy bao gồm chuồng trại nghèo nàn, không có khả
năng khống chế về nhiệt độ, không tiêm vacxin phòng E. coli, hệ thống quản lý kém, vân đề vệ
sinh, bao gồm cả việc rửa ráy khu làm ấm cho lợn con hang ngày. Các hạn chế chính đối với chăn
nuôi bao gồm: dinh dưỡng và mức độ cho ăn thức ăn nói chung (hạn chế việc cho ăn bổ xung lib
7
cho lợn nái), chuồng trại và mức độ thông thoáng gió, thiếu nơi có thể tạo cho các con lợn đực tăng
mức độ kích thích, thiếu các hệ thống ghi chép số liệu tại trại nên không thể xác định được 1 cách
chính xác số lợn con sinh ra trung bình/nái/năm.
NIAH cũng đã đăng nhập các số liệu theo dõi của họ vào trong chương trình Excel và đang hoàn
chỉnh việc đăng nhập số liệu vào website đã được thiết kế, trước khi đưa ra 1 báo cáo chi tiết đầy đủ
hơn. Tuy nhiên, các trại cũng đã được tiến hành phân loại và các trại khả thi nhân đã được chọn lựa
để nâng cấp (xem phần 2 dưới đây)
2) Nâng cấp hệ thống chuồng trại, các chương trình tập huấn đầu tiên và nhập giống ưu thế
hơn vào trong đàn: Dưới sự hướng dẫn của anh Biên - 1 trong số 4 cán bộ đã được tập huấn và
hiện đang làm việc tại NIAH, 1 hệ thống chuồng trại lý tưởng dùng để nuôi lợn Móng Cái thuần
chủng đã được thiết kế, dựa trên cơ sở các chương trình đã được tập huấn tại Australia và những
kinh nghiệm học được từ các chuyến thăm và đánh giá tới các cơ sở chăn nuôi khác nhau tại
Australia, cùng với TS. Colin Cargill và TS. Tony Fahy (xem phần Phụ luc 2: kế hoạch xây dựng
chuồng trại cho lợn Móng Cái thuần chủng). Điều đáng lưu ý là rất nhiều nông hộ ở các tỉnh miền
Trung hiện nay không có đủ khả năng xây dựng hệ thống chuồng trại theo kiểu này, họ cũng không
tự nâng cấp hệ thống chuồng trại hiện có của họ để đạt được tới mức mà sau đó thì họ hoàn toàn có
thể kiếm được đủ lợi nhuận để xây dựng 1 hệ thống chuồng trại với các trang thiết bị tốt hơn. Các
đặc điểm chính của hệ thống này (với công suất nuôi 4 lợn nái), bao gồm:
• Mái lợp ngói với 1 mái phụ để tăng mức độ lưu thông không khí, đặc biệt là trong mùa hè.
Có thể chọn mái tôn làm nguyên liệu lợp mái (nhưng phải được làm mát vào mùa hè, ví dụ
như che bằng 1 loại nguyên liệu làm mát khác) hoặc là phủ rơm rạ
• Đảm bảo mức độ lưu thông gió vừa đủ
• Nền chuồng hơi có độ dốc vừa phải để có thể dễ thoát nước, dễ dàng làm vệ sinh và thu dọn
phân, không nên để nền chuồng bằng bê tong bị ẩm ướt
• Khu chuồng cho lợn con phải sạch, khô, luôn đảm bảo nhiệt độ 30-32oC.
• Chuồng phải luôn đảm bảo khô cho các lợn nái đang mang thai
• Khu thu chất thải phải tách biệt, đảm bảo ít gió lùa thông qua phía thành mở của chuồng với
mức độ cao vừa bằng độ cao của lợn (đây cũng là 1 trong những lỗi thường gặp trong thiết
kế chuồng trại tại Việt Nam).
Các trại tốt nhất ở mỗi tỉnh (30 ở Quảng Trị và 27 ở Thừa Thiên Huế) đã được lựa chọn dựa vào
việc phân tích các số liệu về bộ câu hỏi điều tra trong chương trình SPSS. Mỗi trại trong số này đã
được nhận 1 chương trình tập huấn cơ bản (xem Phụ lục 3: Báo cáo quý 1 và 2 - HUAF (và NIAH);
các tài liệu tập huấn (bằng tiếng Việt) (đã được NIAH và HUAF chuẩn bị sẵn khi có yêu cầu). Với
sự động viên khích lệ từ các cán bộ phía Việt Nam và các chuyến thăm trại của các thành viên phía
Australia, việc tiếp tục nâng cấp hệ thống chuồng trại đã được tiến hành tại các trại này, 1 phần kinh
phí được dự án hỗ trợ, nhưng phần lớn là do nông dân tự trang trải (xem Phụ lục: ví dụ về Farm
data sheets). Việc nâng cấp 1 cách hoàn chỉnh là 1 quá trình được thực hiện từng bước và sẽ chỉ
được đánh giá thực sự khi các theo dõi cho mỗi trại được so sánh qua thời gian, cho dù các đánh giá
ban đầu cũng sẽ được tiến hành trong chuyến thăm chính đã được lập kế hoạch vào tháng 11/2007.
3) Chuyến thăm bởi các thành viên phía Australia để đánh giá các tiến triển của dự án (tháng 1,
tháng 4 và tháng 6 năm 2007): TS Tony Fahy đã đến thăm Bình Định và các trại đã được lựa chọn
tại Thừa Thiên Huế và Quảng Trị vào tháng 1/2007 (xem phần Phụ lục 5: báo cáo về chuyến đi của
TS. Tony Fahy). Sau chuyến thăm này, ban quản lý dự án đã đưa ra quyết định là tạm gác lại kế
hoạch triển khai dự án tại tỉnh Bình Định cho tới khi gần kết thúc dự án. Trong tháng 4, TS. Colin
Cargill đã thăm các trại tại tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Quảng Trị và đã rất phấn khích trước
những tiến triển của dự án (xem Mục lục 6: báo cáo về chuyến đi của TS. Colin Cargill). TS.
8
Darren Trott cũng đá đến thăm TP. HCM, Huế, Quảng Trị và Hà Nội vào tháng 6/2007. Trong
chuyến thăm này, ông cũng đã có buổi gặp gỡ với GS. John Fairbrother (người đã tham gia giúp đỡ
trong dự án nghiên cứu 001/04 VIE) – công tác tại phòng thí nghiệm tham chiếu về E. coli của OIE,
trường Đại học Tổng hợp Montreal; và TS. Kit Parke, chuyên gia về bệnh lợn tại trường
Queensland – người thay thế TS. Trish Holyoake trong dự án này. TS. Fairbrother và TS Trott đã
lập kế hoạch cho việc tiến hành các hợp tác nghiên cứu và xây dựng các đề cương nghiên cứu xin
các nguồn tại trợ quốc tế để tiếp tục các nghiên cứu về thú y và chăn nuôi, vượt xa hơn khuôn khổ
của dự án hiện tại, bằng việc hợp tác với một số cơ quan nghiên cứu phía Việt Nam và mở rộng
nghiên cứu cả với phía Nam Việt nam, thông qua việc hợp tác với NAVETCO. Trong chuyến thăm
này, 1 cuộc họp trong khuôn khổ của dự án đã được tổ chức tại Hà Nội, trong đó 1 số các quyết
định quan trọng cũng đã được đưa ra và đã được báo cáo ở trong biên bản ghi nhớ của dự án (xem
phụ lục 7: Biên bản ghi nhớ của dự án).
5.2. Các lợi ích của các hộ chăn nuôi nhỏ:
1) Trong dự án của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này, các hộ chăn nuôi nhỏ đã được nhận trực
tiếp những thứ sau:
- Tiền hỗ trợ 40% chi phí mua và nhập lợn hậu bị Móng Cái vào nuôi trong đàn của họ
- Giúp đỡ, đưa ra những lời khuyên và hỗ trợ trong việc nâng cấp, sửa chữa chuồng trại hiện có để
phù hợp với việc đưa lợn hậu bị Móng Cái vào nuôi. Các sửa chữa này bao gồm: xây dựng khu
chuồng riêng cho lợn nái cạn sữa, chuồng cho lợn nái đẻ và khu chuồng cho lợn con mới sinh, cải
thiện việc thông thoáng gió, hệ thống sưởi ấm và làm mát, các hệ thống vệ sinh ưu tiên để tăng độ
khô ráo cho nền chuồng và cải thiện tình hình vệ sinh. Chắc chắn là những thay đổi này, kết hợp với
việc sử dụng có chiến lược các loại thuốc bổ xung vào thức ăn sẽ có các tác động đáng kể trong việc
làm giảm tỷ lệ chết và mức độ nghiêm trọng của các bệnh đường ruột trong giai đoạn lợn con trước
cai sữa – 1 trong những nguyên nhân chính gây ra các thiệt hại về chăn nuôi cho các trang trại.
- Tập huấn cơ bản về chăm sóc và nuôi dưỡng lợn Móng cái ở mỗi cơ quan
- Tập huấn nâng cao sẽ được tiến hành trong chuyến đi thực địa vào tháng 11
5.3. Khả năng về đào tạo:
Một vấn đề lớn trong các dự án trước đây là khó khăn trong việc đánh giá cách thức thực hiện và cải
thiện qua thời gian. Chúng tôi muốn tránh tình trạng lặp lại dự án bằng các chuyến thăm và kiểm tra
của các nhà khoa học phía Australia để tư vấn về cùng 1 vấn đề, đưa ra cùng 1 lời khuyên, mà
không có bất kỳ 1 sự tiếp thu thực sự nào từ phía những người được tư vấn. Kinh nghiệm của chúng
tôi với dự án đầu là 1 số nông dân đã không sẵn lòng chấp nhận những thay đổi mà chúng tôi đã gợi
ý, và chúng tôi cũng đã tiếp tục nhận ra vấn đề này trong các chuyến kiểm tra kế tiếp, ví dụ như
việc thông thoáng gió kém và vấn đề làm mát chuồng nuôi. Mô hình mà chúng tôi đã xây dựng nên
được thiết kế phù hợp với mô hình chăn nuôi liên tục và tập trung vào 2 vấn đề chính.
Trước tiên, tập huấn thành công cho 1 nhóm người và giao quyền cho những người có khả năng tự
thực hiện các nâng cấp về chuồng trại của chính trang trại nhà họ. Các nhà khoa học trong nhóm
của chúng tôi sẽ tiến hành tập huấn cho họ, cung cấp các tài liệu tập huấn, đưa ra lời khuyên và giúp
đỡ trong việc sửa chữa chuồng trại để tăng năng suất chăn nuôi, nhưng chúng tôi vẫn muốn tiếp tục
đánh giá khả năng cũng như năng lực của họ đối với việc chuyển giao kiến thức đối với nhóm
người được tập huấn sau đó (các thú y viên cơ sở, các kỹ thuật viên, và các nông dân đã được lựa
chọn). Các vấn đề này sẽ được đánh giá trong chuyến kiểm tra vào tháng 11. Mục đích cuối cùng là
làm cho các nông dân thực sự cảm thấy việc tập huấn là có ý nghĩa, làm việc cần cù và sẵn sàng
chuyển giao kiến thức và kỹ năng của họ cho những người khác.
Thứ hai là việc tạo dựng 1 hệ thống ghi chép số liệu trên mạng, cho phép các nhà khoa học
Australia có thể dễ dàng theo dõi những gì xảy ra trên thực địa. Ví dụ, nó cho phép chúng tôi đưa ra
những lời khuyên và những lời góp ý đối với các cán bộ phía Việt Nam bằng cách cùng quan sát
những ảnh chụp ghi nhận những chuyển biến mới nhất tại thực địa. Chúng tôi có thể đánh giá từ xa
9
khả năng của các cán bộ phía Việt Nam đối với việc nhận ra các nhược điểm cơ bản còn tồn tại
trong chăn nuôi. Chúng tôi cũng sẽ tư vấn trong việc chọn các vị trị tốt nhất để xây dựng chuồng
trại, nhằm tận dụng những ưu thế về điều kiện thời tiết. Với mục đích là làm tăng hiệu quả của các
chuyến thăm, nhờ đó mà có thể giành nhiều thời gian hơn cho việc lập kế hoạch và phát triển, hơn
là các chuyến thăm lặp lại để giải quyết cùng các vấn đề mà đã được nhận thấy từ đầu. Một vấn đề
chính mà chúng tôi thực sự muốn có tác động rõ rệt là việc đưa ra những tư vấn trong vấn đề chẩn
đoán bệnh, điều trị và phòng bệnh (chúng tôi đã nhận ra hiệu quả rõ rệt về các ổ dịch bệnh truyền
nhiễm xảy ra ở tỉnh Thừa Thiên Huế - nơi mà có 10 con lợn nái trong chương trình của dự án chết
do 1 ổ dịch bệnh tụ huyết trùng, nguyên nhân là do việc tiêm vacxin quá muộn nên con vật chưa có
miền dịch đầy đủ, và ở tỉnh Quảng Trị - nơi mà các ổ dịch bệnh FMD và PRRS đã gây ra hậu quả
là sự trậm trễ trong việc thực hiện dự án).
5.4. Các phương tiện thông tin đại chúng:
1) CARD Newsletter: 1 bài báo đã được nộp cho CARD Newsletter lần 2, nhưng vẫn chưa được
xuất bản
2) Đã có kế hoạch công bố các chương trình tập huấn trong tháng 11 đối với các phương tiện thông
tin đại chúng
3) Đã thu hút được sự quan tâm của dân chúng địa phương đối với việc thực thi của dự án. Rất
nhiều người dân địa phương cũng đã yêu cầu để họ có thể tham gia vào dự án trong thời gian tới.
5.5. Quản lý dự án
Việc quản lý hoạt động của dự án vẫn tiếp tục được chia sẻ giữa 6 cơ quan tham gia. HUAF chịu
trách nhiệm trực tiếp cho các chương trình được tiến hành tại Thừa Thiên Huế và tương tự như vậy
cho NIAH ở tỉnh Quảng Trị. Các tỉnh này có vị trí rất gần nhau nên cũng rất thuận lợi cho các nhà
khoa học phía Australia va Việt Nam thực hiện các đánh giá trong các cuộc kiểm tra. Do TS. Côi
được phân công công tác mới, nên ông đã tiến hành bàn giao quyền quản lý phía NIAH cho TS.
Duyên, nhưng ông vẫn đóng vai trờ tư vấn cho dự án. Do HUAF chịu trách nhiệm việc tổ chức hội
thảo vào tháng 9, NIAH sẽ chịu trách nhiệm cho cuộc hội thảo cuối cùng. NIVR chịu trách nhiệm
trong việc cung cấp vacxin E. coli cho dự án và tiến hành các giám sát về bệnh tật thông qua các
chẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Văn phòng quản lý dự án của trường Tài nguyên đất và thức ăn,
thuộc trường Đại học Tổng hợp Queensland, nơi có nhiều năm kinh nghiệm trong việc quản lý các
dự án nghiên cứu nông nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về mọi mặt quản lý hành chính của dự án.
6. Báo cáo về 1 số vấn đề có liên quan khác
6.1. Môi trường:
Các tác động rộng lớn về môi trường trong chăn nuôi lợn và các phương pháp tận dụng để làm giảm
ảnh hưởng của chúng (kết hợp giữa nuôi cá, khí ga và ủ phân) đã được đề cập tới trước đây trong
báo cáo 6 tháng lần 1. Một trong những vấn đề lớn, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người đã được
các chuyên gia (TS. Trott, TS. Parke và GS. Fairbrother) phát hiện ra từ các chuyển kiểm tra trại, đó
là việc sử dung các loại kháng sinh không thích hợp để chữa 1 số bệnh như các bệnh tiêu chảy do
thức ăn chứ không phải do các nguyên nhân truyền nhiễm hoặc tiêu chảy do các tác nhân truyền
nhiễm khác như protozoa (cầu trùng), và virus (rotavirus hoặc TGE virus). Khi chúng tôi tiến hành
đặt câu hỏi là loại thuốc nào mà người nông dân nên sử dụng để điều trị khi lợn của họ nuôi bị ốm,
thì họ đã chỉ cho chúng tôi xem lọ kháng sinh có chứa norfloxacin. Trong hầu hết các trường hợp,
các loại thuốc đã được bảo quản ở không đúng cách, ở nhiệt độ bình thường, mà thường là với điều
kiện như vậy sẽ làm giảm tác dụng của các loại thuốc. Việc sử dụng Fluroquinilone ở động vật là
vấn đề còn đang gây tranh cãi, đặc biệt là khi các loại thuốc này được coi là các loại kháng sinh có
10
tầm quan trọng đặc biệt trong nhân y và việc sử dụng chúng thường chỉ giới hạn ở bệnh viện, hoặc
dưới sự cho phép của bác sĩ ở các nước phát triển. Ở Australia, Fluroquinilone bị cấm dử dụng
trong chăn nuôi các loại động vật sử dụng làm thức ăn cho người và phải có 1 giai đoạn nhất định
để đảm bảo thuốc không còn tồn tại trong cơ thể vật nuôi hoặc sử dụng rất nghiêm ngặt ở các nước
khác. Hiện đang tồn tại 1 tỷ lệ rât cao các loại vi khuẩn kháng Fluroquinilone ở các nước Đông
Nam Á, chủ yếu là do việc lạm dụng các loại thuốc này trong nhân y. Ở Việt Nam, chúng tôi cũng
đã phát hiện ra 1 tỷ lệ cao không bình thường của các chủng E. coli kháng Fluroquinilone phân lập
được từ các lợn nuôi trong các hộ gia đình so với lợn được nuôi trong các trang trại (Do et al.
[2006] Ann. N. Y. Acad. Sci. 1081:543-5), điều này có thể được giải thích với những gì chúng tôi
được đã được tận mắt chứng kiến trong các chuyến kiểm tra tại trại. Một số cách có thể làm để giảm
bớt việc sử dụng không phân biệt các loại kháng sinh như sau:
1) Tổ chức 1 chương trình tập huấn trong tháng 11 về chẩn đoán phân biệt các bệnh trước cai
sữa của lợn, dựa trên các triệu chứng lâm sàng và các phân tích khi mổ khám
2) Cung cấp các bộ dụng cụ thú y cho mỗi cơ quan, bao gồm các một số loại thuốc dùng để
điều trị một số bệnh đặc biệt
6.2 Các vấn đề về giới tính và xã hội:
Như đã được mô tả trong báo cáo trước đây, phần tập huấn hiện tại trên lợn Móng Cái do TS.
Duyên từ NIAH tổ chức ở tỉnh Quảng Trị đã có sự tham gia của 22 nữ và 9 nam.
Các vấn đề khác đã được trả lời trong báo cáo 6 tháng trước đây.
7. Các việc đã thực hiện và các vấn đề tồn tại
Một số vấn đề, các khó khăn và các giải pháp
Vấn đề 1: Dịch FMD và PRRS xảy ra ở miền Trung Việt Nam đã làm trì hoãn việc vận
chuyền các lợn hậu bị Móng Cái thuần chủng vào tỉnh Quảng Trị và các ảnh hưởng của nó tới
vấn đề an toàn sinh học
Khó khăn: Các ổ dịch bệnh tiềm tàng là các trở ngại đáng kể đối với dự án, rất khó để có thể khống
chế hoặc dự đoán trước. Hơn nữa, chắc chắn việc này cũng có ảnh hưởng đến giá cả của thịt lợn –
mà chính điều này có tác động trực tiếp đối với nông dân Việt Nam, như đã được ghi nhận trong
các ổ dịch xảy ra tại Trung Quốc, nhưng cũng có thể làm thảm họa cho dự án của chúng tôi nếu các
lợn hậu bị thuần chủng Móng Cái nằm trong vùng dịch bệnh. Đã có16 trong số 125 lợn hậu bị
Móng Cái được nhập vào tỉnh Thừa Thiên Huế đã bị chết lúc 2-3 tháng tuổi (tỷ lệ chết là 12.5%) –
thời điểm mà đáng lẽ ra mức thiệt hại phải là không đáng kể. Có 10 lợn hậu bị chết do bệnh tụ huyết
trùng. Bệnh này hoàn toàn đã có thể phòng được bằng cách tuân thủ nghiêm túc lịch tiêm phòng
trước khi đưa lợn vào các trại và có 1 giai đoạn cách ly theo dõi đầy đủ. Về khía cạnh an toàn sinh
học, ở các cơ sở lớn nuôi lợn SPF ở Australia, chúng tôi chỉ có thể tiến hành các kiểm tra trong 1
ngày đối với 1 trại – điều mà thực sự không thể duy trì được đối với các sơ sở chăn nuôi nhỏ lẻ ở
Việt Nam. Các nhà khoa học của chúng tôi đã tiến hành các kiểm tra từ 8-10 cơ sở chăn nuôi trong
1 ngày, ngoài việc tiến hành thay ủng hoặc các túi nilon để lót giầy, các quy trình khác để đảm bảo
thực hiện an toàn sinh học giữa các trại là không có thể thực hiện được.
Các giải pháp:
1) Các cuộc giao tiếp với Dr. Ken Inui, chuyên gia FAO tại Trung tâm chẩn đoán quốc gia đã
giúp cho dự án có được các thông tin cập nhật nhất về tình hình dịch bệnh gia súc tại Việt
Nam
2) Lịch tiêm phòng vacxin và giai đoạn cách ly cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt ở mỗi tỉnh
11
3) Việc vận chuyển các đàn giống vào tỉnh Quảng Trị bị trì hoãn cho tới khi các đợt dịch bệnh
được khống chế. Tất cả các nái hậu bị được tiêm vacxin và được nuôi ở khu cách ly trước
khi được đưa tới các hộ chăn nuôi đã được chọn lựa
4) Sau khi thảo luận với 1 chuyên gia công tác tại trường Queensland và hiện đang làm việc
cho dự án ACIAR về bệnh cúm gia cầm, các quy trình an toàn sinh học nhất định như quần
áo bảo hộ, rửa và sát trùng ủng bảo hộ trong chất sát trùng là hoàn toàn có thể thực hiện bắt
buộc giữa các vùng.
Vấn đề 2: Tỉnh Bình Định và phí đi lại cao, thiếu những chuyên gia có kinh nghiệm để hỗ trợ
cho dự án
Khó khăn: Trong dự án CARD trước đây, ban quản lý dự án CARD đã khuyên là dự án nên được
thực hiện thêm ở 1 tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, điều này đã được chứng minh là không nên được tiếp
tục duy trì trong dự án hiện tại do tốn rất nhiều thời gian và chi phí cho việc đi lại
Các giải pháp:
1) Chúng tôi sẽ sử dụng các điều tra đã được tiến hành tại tỉnh Bình Định như là lô đối
chứng và sẽ được điều tra lại lần nữa khi kết thúc dự án để so sánh vấn đề chăn nuôi và
lợi nhuận với các tỉnh miền Trung
2) Ngân sách trước đây đã được tính toán cho NIVR để triển khai các công việc tại Bình
Định sẽ được chuyển thành các khoản tiền hỗ trợ cho việc điều tra bệnh tật, tiêm vacxin
và các dịch vụ thú y trong các chương trình hiện tại tại tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng
Trị, bao gồm cả việc cung cấp các thuốc thú y để đảm bảo đầy đủ cho việc khống chế
dịch bệnh trong trại
Vấn đề 3: Theo dõi số liệu, các vấn đề chuyên môn và báo cáo chung về các kết quả đạt được
của dự án
Khó khăn:
1) CARD yêu cầu nhiều dữ liệu hơn cho MS 3 (Train the trainers) hơn là những kết quả đã
đề cập trong báo cáo trước. Bao gồm: a) Báo cáo chi tiết, b) Các tài liệu tập huấn, c)
đánh giá chủ quan về các vấn đề trình độ kỹ thuật, và d) báo cáo tập huấn tóm tắt từ phía
các đại biểu Việt Nam
2) CARD yêu cầu nhiều dữ liệu hơn cho MS 4 (Baseline information) hơn là những kết quả
đã đề cập trong báo cáo trước.
Các giải pháp:
1) MS 3 Tập huấn cho các giáo viên: Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng chúng tôi đã cung
cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết cho nội dung này, cụ thể là: a) Một báo cáo chi tiết về khóa tập
huấn được gửi kèm theo báo cáo này (xem Phụ lục 8: MS3 Báo cáo chương trình tập huấn – ngoài
ra, 1 ví dụ về các tài liệu dùng trong quá trình tập huấn tại Trung tâm nghiên cứu Bệnh ở lợn,
Bendingo cũng được gửi kèm theo đây). b) Các tài liệu tập huấn mở rộng cũng được gửi kèm theo,
bao gồm: Dịch tễ học (tài liệu tập huấn cho Việt Nam tại trường UQ, Phần 1 và 2, thiết kế bộ câu
hỏi điều tra), và Đánh giá về sức khỏe và môi trường tại SARDI (tài liệu tập huấn cho Việt Nam tại
SARDI). c) i) Cả 6 sinh viên Việt Nam đều đã qua được các kỳ kiểm tra trình độ ở mỗi phần học và
đều đã được nhận chứng chỉ (xem phụ lục 9: chứng chỉ tập huấn), ii) Kiến tạo 1 hệ thống điều tra
online và “chuồng đẻ kiểu mẫu cho lợn Móng Cái” là các nội dung quan trọng bao trùm cả phần
đánh giá thực hành của các sinh viên Việt Nam, iii) Các báo cáo về chuyến đi, đặc biệt là các phân
tích rất chi tiết cụ thể của TS. Cargill về các vấn đề xác định được tại trại và các tình huống giải
12
quyết mà tất cả những người đã được tham gia tập huấn đều phải có liên quan để chứng tỏ việc thu
nhận được các kỹ năng thực sự, d) Chúng tôi có cảm giác rằng các báo cáo tập huấn từ TS. Duyệt là
khá đầy đủ và không cần thiết để nhắc lại ở đây các kỹ năng mà ông ý đã đạt được, coi như là
những kỹ năng đó đã được trình bày trong báo cáo này, e) Tập huấn phải có tính liên tục, bởi vậy tại
sao chúng ta lại bỏ phần đánh giá chuyên môn đi? Ví dụ, kiểm tra chuyên môn sẽ được tiến hành
lần nữa vào tháng 11 tại mỗi tỉnh.
2) MS 4 các thông tin cơ bản bao gồm: a) điều tra và phân tích của các trại, b) Nhận biết: i)
các hướng ưu tiên hàng đầu và thích hợp của dự án, ii) lựa chọn các hộ chăn nuôi để tham gia vào
quá trình tập huấn, và iii) đánh giá các tác động tiềm tàng về tự nhiên và tài chính, a) Phát triển hệ
thống dữ liệu online đã tốn nhiều thời gian và công sức để đạt được độ hoàn hảo. Mỗi cơ quan đã
hoàn chỉnh các điều tra của họ và hầu hết các số liều này đã được phân tích bằng chương trình SPSS
để lựa chọn các trại thích hợp cho việc tiến hành các nâng cấp trang thiết bị. Hiện nay, phần lớn các
số liệu cũng đã được đăng nhập vào hệ thống dữ liệu online. Ban quản lý dự án CARD có thể tiến
hành xem xét các kết quả bất kỳ khi nào họ muốn trong suốt quá trình thực hiện dự án với username
và password mà họ đã được cung cấp. Các phân tích kỹ càng hơn về các kết quả này cũng đang
được tiến hành, chẳng hạn như việc nâng cấp hệ thống như việc bổ xung them số hiệu điều tra tham
khảo, cho phép việc có thể dễ dàng nhận biết ra 1 trại và so sánh các thay đổi đã được tiến hành
trong suốt quá trình thực hiện dự án. Một vài kết quả chính của các điều tra là: có rất nhiều trại
không có chỗ nằm riêng cho lợn con mới sinh, nhưng lại thường xuyên giội rửa nền chuồng hang
ngày, tạo ra 1 môi trường không thích hợp cho các lợn con moíư sinh, dẫn đến hậu quả là có 1 tỷ lệ
cao các lợn mắc các bệnh tiêu chảy. b) Danh sách về các hướng ưu tiên hàng đầu và thích hợp của
dự án được gửi kèm theo báo cáo này (Phụ lục 10). Những hướng ưu tiên này được rút ra từ các
kinh nghiệm khác nhau trong 3 chuyến đi thực địa của các nhà khoa học Australia trong suốt thời
gian từ muà đông đến mùa hè, ii) Việc lựa chọn 27-30 trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được tiến hành và
các chi tiết cũng được gửi kèm theo báo cáo này. iii) Chúng tôi cũng mong muốn Ban quản lý Dự
án CARD xác định rõ việc nộp những báo cáo như thế này là nhằm mục đích gì và cũng nên nói rõ
là không nên dùng các báo cáo này như là cơ sở để đánh giá cho việc cấp tiền đối với các mốc
nghiên cứu tiếp theo. Rõ ràng là, loại báo cáo này không thể được đánh giá 1 cách đầy đủ, chừng
nào dự án còn vẫn đang tiếp tục.
3) Các vấn đề về giao tiếp, trao đổi giữa các cơ quan. Như đã được đánh giá, việc quản lý 1
dự án liên quan đến 3 cơ quan trong 1 quốc gia là điều khó khăn nhưng rất thú vị. Một trong những
vấn đề chính mà đã từng được nhấn mạnh là việc nộp các báo cáo về các việc đã làm được nhằm
các mục đích đánh giá và kiểm thị, đặc biệt là các chuyên gia Australia không thể thường xuyên
giành nhiều hơn 10-14 ngày cho 1 chuyến đi thực địa tại Việt Nam được. Để hỗ trợ cho quá trình
này, chúng tôi đã phải xúc tiến việc tìm 1 bác sĩ thú y người Australian, có nhiều hứng thú trong
công tác nghiên cứu nong nghiệp ở những nước đang phát triển – cô ta cũng chính là người đã tự
trang trải tiền vé đi lại và cũng đã là người đã tham gia vào chương trình tập huấn của chúng tôi vào
tháng 2/2007 vừa qua. Cô ta cũng đã có thời gian đáng kể học tập tại Trung tâm nghiên cứu bệnh
lợn, Bendigo, Australia và trong suốt chuyến đi thực địa, tháng 11/2007, cô ta cũng sẽ ở lại đến
tháng 1/2008 để giúp đỡ các nhà nghiên cứu và nong dân ở 2 tỉnh miền Trung Việt Nam. Vai trò
chính của cô trong chuyến đi này là tiến hành đăng nhập vào hệ thống các số liệu điều tra đã được
tiến hành trước đó tại các trại, đăng tải những bức ảnh đã được chụp tại trại, tìm hiểu và xác định
các vấn đề gặp phải tại các trại đã được lựa chọn, lấy mẫu chẩn đoán và gửi tới Viện Thú Y để tiến
hành các xét nghiệm. Các việc làm này sẽ đảm bảo cho việc kết nối 1 cách chắc chắn hơn giữa các
nhà khoa học Việt Nam và Australia tại thực địa và đảm bảo 1 điều chắc chắn là tất cả các số liệu
đều sẵn sàng cho việc phân tích và báo cáo.
Vấn đề 4: Việc thực hiện các mốc của dự án 5, 6, 7 và 8
Khó khăn: Việc bó hẹp về thời gian mà các mốc của dự án yêu cầu phải thực hiện
13
Các giải pháp: Chúng tôi muốn có 1 yêu cầu là khung thời gian thực hiện đối với các mốc công
việc đặt ra và cả việc nộp báo cáo nên được gia hạn them 3 tháng để tính vào thời gian mà các đợt
dịch bệnh FMD và PRRS xảy ra ở Việt Nam đã làm cản trở đến việc vận chuyển đàn giống và đã
gây ra ảnh hưởng ít nhiều đến dự án của chúng tôi. Vì vậy các báo cáo sẽ rơi vào các thời gian đầu
và giữa năm – là các thời điểm thích hợp hơn khi các kỳ học của các trường Đại học chỉ mới bắt
đầu hoặc đã kết thúc. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh là rất nhiều dữ liệu cho các mốc dự án 6 và
8 đã được thu thập, nhưng sẽ phải đợi đến sau chuyến kiểm tra thực địa tháng 11/2007 thì mới có
thể tổng kết được các kết quả và báo cáo về những thành công đạt được đối với các hoạt động tập
huấn kết hợp ở các tỉnh miền Trung. Các vấn đề này sẽ được trình bày trong báo cáo 6 tháng lần 3
(mốc dự án 7).
Vấn đề 5: Chất lượng và sự thống nhất của các dữ liệu điều tra
Khó khăn: Các thiếu sót và lỗi mắc phải trong việc dịch và vào số liệu có thể làm ảnh hưởng đến
sự thống nhất của các dữ liệu điều tra. Điều này là rất dễ gặp phải khi mà cùng lúc có nhiều nhà
khoa học cùng tiến hành vào số liệu.
Các giải pháp: Một bác sĩ thú y rất nhiệt tình và quan tâm đến sự phát triển nông nghiệp (chị Tarni
Cooper) sẽ giành thời gian là vài tháng ở Việt Nam (tháng 1 và tháng 2) với mỗi viện nghiên cứu để
kiểm tra lại toàn bộ 1 cách cẩn thận việc vào các số liệu, bổ xung thêm vào các dữ liệu của các trại
với những bức ảnh chụp tại trại và để đảm bảo rằng các chuyến đi thực địa lần sau đến các trại đã
được chọn lựa thì các số liệu cũng được cập nhật. Hiện tại, các trại được nhận biết bằng các tên của
tỉnh, huyện và tên chủ hộ. Để làm cho số liệu có tính hợp lý và có tính so sánh qua thời gian theo
dõi, các mã số bằng chữ số sẽ được đưa vào thay thế để có thể nhận biết ra mỗi trại trong điều tra 1
cách dễ dàng so với cách đăng nhập trong file Excel như hiện nay.
Tồn tại
Hiện nay, việc lựa chọn các trại đã được tiến hành xong, các vấn đề cần phải tiến hành trong thời
gian dài cũng đã được xác định, sử dụng các đánh giá điều tra online.
8. Các bước quan trọng tiếp theo
Tiến triển về các bước quan trọng trước đây:
a) Các mô hình hệ thống trang trại đã được kiểm tra: 57 trang trại, đại diện cho các hệ thống
chăn nuôi khác nhau (vùng đất trũng, vùng cao, hệ thống trang trại quảng canh, kết hợp với nuôi vịt
và thả cá, sản xuất khí ga) đã được tiến hành lựa chọn để nâng cấp, tiến hành tập huấn cho các đại
diện chủ trang trại, đưa các giống mới vào trại và tiến hành các giám sát, đánh giá.
b) Thiết kế chuồng trại: Hệ thống chuồng trại lý tưởng đã được các nhà khoa học Việt Nam thiết
kế và đã được các nhà khoa học phía Australia phê chuẩn. Giá thành để xây dựng hệ thống này hiện
tại cũng đang cần phải được ước lượng. Hầu hết các trại đã chọn lựa được khuyến khích để thực
hiện các sửa chữa đối với hệ thống chuồng trại hiện có như là 1 cách thay đổi rẻ hơn. Những sửa
chữa này sẽ được hoàn chỉnh vào tháng 11 và sẽ được kiểm tra trong chuyến thăm vào tháng 11,
cùng với các chương trình tập huấn.
c) Lựa chọn giống: Ngoài một số nông dân có kinh nghiệm chăn nuôi giống lợn ngoại tại Thừa
Thiên Huế, quan điểm thống nhất chung, cả từ phía các nông dân và các nhà khoa học là việc đưa
lợn Móng Cái thuần chủng vào nuôi sẽ giảm bớt được nguy cơ thiệt hại, cơ hội để mang lại lợi
nhuận cao hơn cho dù chỉ có ít vốn đầu tư, hoàn toàn thích hợp với các hộ chăn nuôi nhỏ ở Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế và cũng phù hợp với điều kiện chuồng trại hiện tại.
d) Dinh dưỡng: Các sản phẩm dùng làm thức ăn có sẵn ở mỗi tỉnh đã được điều tra và hiện đang
được phân tích. Bởi vậy, các chuyên gia có thể đưa ra các lời khuyên về công thức thức ăn cơ bản
trong suốt cả năm cho các trại được chọn lựa.
14
e) Thú y, vệ sinh, quản lý: Việc thiết kế chuồng trại đã được tối ưu hóa để cải thiện các vấn đề nói
trên. Các lợn hậu bị mang thại tại Thừa Thiên Huế sẽ được tiêm vaccine phòng bệnh do E. coli gây
ra vào tháng 10 và các đàn lợn con đầu tiên sẽ được đẻ ra vào tháng 11, vừa kịp thời gian cho các
chương trình tập huấn, tập trung chủ yếu vào việc chăm sóc các nái chửa và nuôi con và các lợn con
trước khi cai sữa.
f) Xây dựng website của dự án: Đây sẽ là công việc tiếp theo của phía trường Queensland bởi vì
chúng tôi đang cố gắng mở rộng dự án trong khuôn khổ 2 tỉnh.
Các bước quan trọng trong thời điểm hiện tại
(a) Các chương trình tập huấn vào tháng 11: Tiến sĩ Fahy, Wilkie, Trott và Cargill sẽ có 1 buổi
họp vào đầu tháng 10 để lập kế hoạch cho các chương trình tập huấn ở mỗi tỉnh. Một số ít các kỹ
thuật viên cơ sở sẽ được tập huấn trước, tiếp theo là số nông dân đã được lựa chọn. Các nhà khoa
học sẽ thực hiện chuyến thăm Thừa Thiên Huế và các trại ở Quảng trị, chia làm 2 nhóm và các
nhóm sẽ gặp nhau vào cuối buổi để đánh giá lại các hoạt động trong ngày. Cả 2 nhóm cũng sẽ gặp
nhau vào cuối chương trình tập huấn để đánh giá lại các kếy quả và lập kế hoạch cho các chương
trình tập huấn trong tương lai.
(b) Việc cung cấp các thuốc thú y: Tiến sĩ Fahy và Cargill sẽ cung cấp các bộ kit thuốc thú y đơn
giản để sử dụng trong các trại đã được lựa chọn, bao gồm các loại thuốc như thuốc tẩy ký sinh
trùng, thuốc phòng cầu trùng (Baycox), 1 loạt các thuốc kháng sinh, một số loại thuốc có nguồn gốc
là hormol để có thể sử dụng trong quá trình lợn nái mang thai và nuôi con như prostaglandins và
oxytoxin và 1 số loại thuốc khác.
(c) Hoàn chỉnh các phân tích các kết quả của điều tra: Việc này sẽ được tiến hành sớm nhất
ngay sau khi tất cả các trả lời của các điều tra được đăng nhập vào hệ thống ghi chép số liệu trên
máy tính.
(d) Tiến hành đặt các máy tự đông theo dõi tại trại để theo dõi các biến đổi về nhiệt độ và độ
ẩm tại các trại đã được chọn lựa.
9. Kết luận
Trong giai đoạn báo cáo định kỳ này, có thể nói các tiến triển của dự án đã được thực hiện đúng
theo các mốc quan trọng đã dự định đặt ra. Đã tiến hành cắt giảm bớt số tỉnh tham gia vào dự án, từ
4 tỉnh (Quảng Trị, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Bình Định) xuống còn 2 tỉnh (Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế) và cả 2 tỉnh này hiện đang trong giai đoạn sắp xếp để nhập các giống lợn sinh sản
vào và tiến hành theo dõi lợi nhuận thu được trong 1 giai đoạn thử nghiệm là 6 tháng. Có 1 số
nguyên nhân khách quan xảy ra như việc lây lan của dịch lở mồm long móng do 1 chủng virus có
độc lực cao và dịch PRRS do 1 chủng virus mạnh lây lan từ Trung Quốc. Riêng ổ dịch PRRS đã
làm xóa xổ các hội chăn nuôi nhỏ do việc bệnh lây lan mạnh qua con đường thụ tinh nhân tạo từ các
tinh dịch của lợn bị nhiễm bệnh. Bất chấp điều này, các chuyển biến đáng kể của dự án vẫn đã được
thực hiện tại Thừa Thiên Huế, thể hiện bằng việc đồng thời tiến hành 1 số việc như tiến hành đưa
các lợn giống vào chuồng, đầu tư cải tiến chuồng trại, tập huấn. Tỉnh này cũng có thêm thuận lợi là
các cán bộ tham gia dự án không phải giành nhiều thời gian cho việc đi lại. Tốc độ thực hiện của dự
án tại tỉnh Quảng Trị không được như ở Thừa Thiên Huế, tuy nhiên các nâng cấp về chuồng trại
cũng đã được thực hiện và đang trong giai đoạn chờ đợi để nhập lợn giống vào. Ở 1 khía cạnh nào
đó thì đây là sự lựa chon khôn ngoan do vấn đề dịch bệnh đã gây ảnh hưởng và cũng rất hay là có
thể so sánh giữa 2 phương thức thực hiện ở mỗi tỉnh đối với sức sống còn của dự án (“từng bước 1”
ở Quảng Trị, so với “Tất cả cùng 1 lúc” ở Thừa Thiên Huế).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chăn nuôi gà theo hướng an toàn bền vững.pdf