MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU. 4
Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn. 6
1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn. 6
1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam 8
1.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam 13
1.4. Giới thiệu một số tuor du lịch nông thôn đang được khai thác trên thị trường Việt Nam 16
1.5. Một số tác động và ảnh hưởng của du lịch nông thôn đến đời sống kinh tế - xã hội của cư dân địa phương. 18
Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình. 21
2.1. Điều kiện chung để phát triển du lịch ở Thái Bình. 21
2.2. Thế mạnh phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình. 23
2.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình. 48
Chương III. Định hướng, giải pháp và kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 53
3.1. Định hướng phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình .53
3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Thái Bình. 55
3.4. Các kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình. 60
KẾT LUẬN. 63
LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và công nghiệp, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những suy thoái lớn về môi trường cảnh quan và đạo đức văn hoá vì đất nước ta vốn có xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần nông. Một nguy cơ nữa là tình trạng mất dần đất canh tác nông nghiệp dẫn đến quá trình ly nông, ly hương và bần cùng hoá ở nông thôn đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn ra thế giới, cách đây 30-40 năm tại các nước phát triển cũng đã xảy ra tình trạng tương tự. Chính phủ các nước đã triển khai rất nhiều biện pháp để ngăn chặn vấn đề này, trong đó có một hướng đã chứng minh được qua vài chục năm là rất có hiệu quả trong việc làm tăng thu nhập của dân cư nông nghiệp và thay đổi bộ mặt nông thôn. Đó chính là việc chính phủ hướng sự quan tâm của cộng đồng xã hội vào việc phát triển du lịch nông thôn. Mô hình du lịch nông thôn rất nên được tiến hành nghiên cứu ở nước ta với việc xây dựng các chính sách vĩ mô và ban hành các luật định cụ thể trong việc thực hiện như một sự hỗ trợ tích cực đối với sự phát triển bộ mặt nông thôn và gia tăng việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nhất là trong quá trình phát triển hiện nay của đất nước ta, khi tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp là đất đai đang dần bị thu hẹp, nhường chỗ cho các dự án công nghiệp, dịch vụ thì việc phát triển du lịch nông thôn tại những địa phương có tiềm năng du lịch cần được quan tâm nhiều hơn nữa để góp phần giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập từ dịch vụ cho nông dân.
Bước vào thời kì hội nhập, nông nghiệp và nông thôn Thái Bình có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội tại địa phương. Xuất phát từ việc khảo sát thực tế, nhận thấy Thái Bình là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn nhưng du lịch nông thôn ở đây lại chưa phát huy được hết những tiềm năng đó nên tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình” là đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu tất cả các tiềm năng phát triển du lịch nông thôn của các làng quê ở tỉnh Thái Bình từ đó đề xuất giải pháp phát triển du lịch nông thôn Thái Bình.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm nền tảng.Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm: sử dụng các dữ kiện thông tin thứ cấp đã được công bố để phân tích, so sánh, khái quát , thực hiện các phán đoán suy luận.
4. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp cơ sở lý luận về du lịch nông thôn.Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình.Đưa ra một số giải pháp để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình.
5. Kết cấu
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn
Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
Chương III. Giải pháp phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
Sau đây là nội dung cụ thể của từng chương.
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3683 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng lại đánh rơi sách, rơi bút, bị thầy quát, thầy đánh đòn, vừa nhặt vừa chạy vừa xoa mông cho đỡ đau. Thầy ngồi khoanh chân lên chiếc chiếu trải sẵn góc sân đình, sách để trên tráp, một tay mở sách, một tay quất roi; trò khép nép đứng bên. Thầy đọc trước, trò đọc theo; thầy đọc sai trò cãi, thầy đánh; thầy hỏi một đằng, trò trả lời một nẻo, những lúc như thế từng tràng cười giòn giã vang lên khuyến khích lớp diễn hấp dẫn.
Góc sân đình bên cạnh là lớp trò "công" với vai ông thợ mộc. Bộ đồ nghề của ông thợ gồm cưa, đục, rìu… Ông thợ cứ hì hục làm, khi thì đẽo một cái chày giã cua, khi thì cưa tre đóng một cái chuồng gà, lúc thì nhổ đinh, vừa làm vừa nghe tiếng đế theo của khán giả tạo ra không khí vui nhộn.
Ở một góc sân khác, lớp trò "cổ" (hay "thương") diễn ra tấp nập giữa kẻ bán và người mua. Kẻ bán quẩy đôi quang gánh trong đó có đủ thứ: mắm, muối, rau củ, hoa quả, bánh trái…đi rao, rao thế nào để gây cười và bán được càng nhiều hàng càng tốt. Tiếng người mua ngã giá, mặc cả, tiếng người bán chanh chua, ngoa ngoắt khi người mua trả giá quá rẻ… đan xen lẫn nhau tạo ra nhiều tràng cười vui vẻ.
Náo nhiệt nhất vẫn là lớp trò "nông". Trên một góc sân đình, một "mảnh ruộng" nhỏ đã được be bờ, tát nước và thả sẵn bèo hoa dâu. Đàn ông hóa trang thành bà cấy, đầu chít khăn mỏ quạ, mặc yếm đào, độn ngực, váy cuốn cao như các cô thôn nữ đi làm đồng. Người nữ đóng ông thợ cày đầu chít khăn mỏ rìu, vác cày hoặc bừa làm bằng bẹ chuối và lá dọc dừa, quần xắn cao quá đầu gối, tay cầm roi tre, vừa đi vừa quát "trâu". Người đóng vai "trâu cày" là khổ nhất, đi phải cúi khom lưng, thỉnh thoảng lại bị ông thợ cày quất cho một roi vào mông vì không cày thẳng hàng. Đầu "trâu" làm bằng chiếc gầu giai phất giấy màu đen, thân "trâu" là chiếc bồ. Khi bị đánh "trâu" lồng lên té ướt cả bà cấy và người xem, có lúc "trâu" tỏ ra ngoan ngoãn, thong thả bước, có lúc còn trêu ghẹo "cắn" vào mông bà cấy, bà cấy giật mình chạy té ướt mọi người; mấy ông vạc bờ cuốc góc thỉnh thoảng lại ve vãn bà cấy gây cười, hoặc đối đáp hát ví von.
Trước đây, trò diễn có chấm giải, chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị công phu và tính hài hước của từng trò mà đánh giá. Nay trò diễn không chấm điểm, không xếp hạng nhưng giáp nào cũng lo chuẩn bị công phu, độc đáo để còn nhận được tiếng thơm của dân làng và trò diễn luôn được thôn La Vân 1-2-3 duy trì đều đặn và nhận được sự cổ vũ nhiệt tình của dân làng.
Hoạt động hội từ 20 đến 26 tháng ba âm lịch đã trở thành sức sống mãnh liệt trong mỗi dịp làng mở hội. Trong hội có rất nhiều các nghi lễ cổ, các trò chơi, trò diễn dân gian hết sức phong phú như tục rước tế, chơi cờ người, tổ tôm điếm, chọi gà, đấu vật… thu hút sự tham gia của dân làng và các du khách gần xa. Sau màn múa lân, múa rồng rộn rã, lễ rước Thành hoàng làng về dự hội được tiến hành .
Đám rước được bắt đầu từ hậu cung đình ra miếu và chùa cổng sau đó trở về đình làm lễ. Đường đi của đám rước theo một vòng quanh làng. Đội múa lân đi trước dọn đường, kế là đội cờ, phường bát âm, đoàn người mang cờ, trống, đồ bát bảo, nhang án, võng lọng. Tiếp đến là kiệu Thánh (Nguyễn Minh Không), kiệu Thần, kiệu Quan, kiệu Phật, kiệu Mẫu, đoàn quân hội múa kéo chữ, đoàn hành lễ, đoàn đại biểu và dân chúng dự hội. Các vị trong đội tế chân đi hia, đầu đội mũ cánh chuồn, quần áo tế sặc sỡ, đủ màu sắc. Đám rước đi một đường, về một đường, đi trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng người dự hội tạo nên không khí sôi động, nhộn nhịp. Sau khi đi vòng đường làng, qua những bờ ngô bãi mía xanh tươi, đám rước trở về đình. Trên sàn tế, chính giữa đình nghi lễ được bắt đầu. Kiệu và tượng Thánh được đặt vào vị trí trang trọng nhất tại đình. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn để tế Thánh. Lễ vật tế Thánh ngoài hương, nến, trầu cau, rượu, mâm ngũ quả còn có một mâm xôi trắng và sỏ lợn.
Trong đình làng khói hương nghi ngút, người trong làng, khách thập phương ra vào lễ Thánh tấp nập cầu chúc năm mới nhiều may mắn, người khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa… ngoài sân đình các trò chơi, trò múa kéo chữ, trò diễn dân gian như chơi cờ người, đấu vật, đua thuyền, chọi gà, đánh đu… cũng đồng thời được tiếp diễn. Người ta đua nhau vui chơi, thi thố tài năng để giành giải thưởng, thử vận may.
Chiều ngày 26 tháng ba, dân làng tổ chức rước kiệu Thánh từ đình về miếu và làm lễ yên vị, kết thúc một mùa hội tưng bừng, náo nhiệt trong sự cộng cảm, hào hứng của hàng ngàn người lao động trong vùng và du khách thập phương.
Bao hàm những nội dung mang tính lịch sử và văn hóa truyền thống, hội làng La Vân đã và đang được phát huy tác dụng tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở một vùng quê lúa.
Hội đền Đồng Bằng
Đền Đồng Bằng xã An Lễ (Quỳnh Phụ-Thái Bình) là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đền có sắc phong: Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Thượng Đẳng Thần (vào đời Vua Hùng thứ 18). Tới thời Tiền Lê, đền được xây dựng mở rộng thành năm cung và bốn ban thờ Công Đồng khang trang và được liệt vào “Tứ cố cảnh”. Từ cuối thế kỷ 13, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng Hoàng thân Quốc thích nhà Trần trong 3 lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Động xưa.
Đã thành thông lệ, hàng năm đền Đồng Bằng khai hội vào ngày 20/8 (âm lịch). Trong lễ hội ngoài phần “lễ” là các nghi lễ tế thần, dâng hương, diễn lại tích xưa vua cha đi đánh giặc, còn phần “hội” cũng diễn ra khá sôi động với những trò chơi mang đậm tính dân gian như: hát văn, kéo co, bơi trải, chọi gà, cờ tướng... thu hút rất đông người dân tham gia. Đến với lễ hội, du khách không chỉ bái vọng mà còn được tham quan, chiêm ngưỡng nhiều đồ tế khí có giá trị, cùng các bài vị từ thời Nguyễn, những công trình kiến trúc đồ gỗ độc đáo như: cuốn thư, hoành phi, câu đối, đại tự... từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, giặc dã tàn phá song đền vẫn giữ được nét xưa. Quần thể di tích đền Đồng Bằng gồm 1 đền chính (đền Đức Vua) và 5 đền nhỏ khác: đền Sinh, quan Đệ Nhị, quan Đệ Tam, quan Điều, quan Đệ Bát trong khuôn viên rộng 11.000m2. Từ khi được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1986, đền đã được các cấp uỷ đảng, chính quyền cùng du khách phát tâm, góp công tôn tạo di tích ngày càng uy nghi, tráng lệ. Mỗi năm đền đón hàng chục vạn lượt khách thập phương trong và ngoài nước đến thăm quan, chiêm bái dự hội, đóng góp hàng tỷ đồng cho ngân sách địa phương. Các ban ngành chức năng đang quan tâm đầu tư xây dựng gắn lễ hội Đồng Bằng với tuyến du lịch làng nghề chiếu cói trong vùng trong thời gian tới.
Hội Sáo Đền - một lễ hội thả diều độc đáo
Về Thái Bình người ta thường chỉ biết đến hội chùa Keo, ít ai biết được trên đường đi hội chùa Keo còn có một lễ hội khá độc đáo còn tồn tại đến ngày nay- đó là hội Sáo Đền. Hội Sáo Đền diễn ra từ ngày 20 đến 27 tháng 3 hàng năm tại xã Song An, huyện Vũ Thư. Những ngày diễn ra lễ hội bà con địa phương cùng du khách thập phương về với lễ hội trong niềm vui hân hoan. Vì về nơi đây người ta còn tìm về một trong những cái nôi của làn điệu chèo ngọt ngào nổi tiếng.
Sáo Đền được biết đến với trò chơi thả diều độc đáo. Cũng như mọi lễ hội khác, ngoài phần lễ là phần hội. Phần hội với đủ các trò chơi như: chọi gà, cờ người, bắn cung, bắt vịt... và trò thi diều sáo. Đã từ hàng trăm năm nay luật chơi không hề thay đổi. Người chủ diều chọn đúng hướng gió kéo dây. Ban tổ chức cắm hai cây sào trên đầu có buộc hai lưỡi mác rất bén, cắm hai cây sào đó hai bên dây diều, khoảng cách của hai cây sào là 50cm. Việc đó được làm với tất cả cánh diều nào vào cuộc thi. Khi nghe hồi trống lệnh nổi lên, các chủ diều chỉnh diều kéo căng dây và đâm lên. Cánh diều nào không chuẩn đảo qua đảo lại, dây diều sẽ chạm phải hai lưỡi mác trên hai ngọn sào là đứt dây ngay. Như vậy cánh diều đó bị loại khỏi cuộc chơi, cứ thế diều nào đậu được đến ngày cuối cùng của hội thì chủ diều đó đoạt giải. Những người cao tuổi trong làng cho biết: mỗi năm chỉ duy nhất một người đoạt giải, có năm không có ai đoạt được giải diều. Thi diều phải nhờ ở gió trời, vậy mà có năm vào ngày hội mà không có gió trời hoặc gió không đủ mạnh để đâm diều sáo, đến ngày 25 mà vẫn không có gió, sáng 26 là chính hội gió chỉ hiu hiu. Mọi người đến với lễ hội đã biểu hiện tâm trạng buồn vì có lẽ năm nay không được thi và xem thi thả diều. Nhưng đúng 11 giờ 15 phút trưa ngày 26 năm đó bắt đầu có từng cơn gió và sang đầu chiều gió đã đủ để tổ chức hội thi diều. Quả thực điều này khiến nhiều người phải ngạc nhiên, khó giải thích, theo các cụ nói đó là ''gió thần'', vậy là nhờ ''gió thần'' hội Sáo Đền không năm nào bị gián đoạn.
Diều được giải nhất ngoài việc đậu đến hết hội ở giữa hai lưỡi mác thì sáo diều phải thật hay. Sáo hay là bộ sáo gồm 2 sáo trở lên, tiếng sáo trong trẻo, âm thanh giữa các sáo trong bộ sáo phải phối hợp cho nhau hài hoà, ngọt ngào, du dương... Nói về sáo, ngày xưa chơi diều còn buông bằng dây tre, làm cánh diều khung bằng 4 cây tre nối lại. Bộ sáo của chiếc diều có 2 chiếc. Chuyện còn kể lại rằng khi diều bổ xuống cánh đồng, chủ diều chưa kịp mang về, có người ăn xin đã chui được lọt vào chiếc sáo to của diều đó ngủ. Câu chuyện này được người dân nơi đây lấy làm tự hào và luôn kể cho khách thập phương về dự lễ hội.
2.2.2.5. Đặc sản địa phương
Ổi Bo
Thái Bình nổi tiếng là quê hương của trái ổi Bo. Đã từ lâu, ổi Bo Thái Bình đã trở nên quen thuộc với mọi người không chỉ đối với những người con sinh ra ở đất Thái Bình mà còn được biết đến ở nhiều tỉnh thành khác. Ổi Bo đã trở thành "đặc sản” được nhắc đến trong văn hoá ẩm thực của người Thái Bình.
Ổi thì dường như ở miền quê nào cũng có, nhưng ổi Bo Thái Bình không bị hoà trộn với bất cứ loại ổi nào, bởi dường như nó đã hội tụ những gì tinh tuý nhất của đồng đất và con người quê hương Thái Bình. Những ai đã từng một lần thưởng thức ổi Bo hẳn sẽ rất ấn tượng với vị thơm ngọt man mát, cùi dầy, ít hạt, thơm dòn. Quả ổi Bo cũng có nhiều loại: có loại quả nhìn giống như quả cam dẹt, có loại quả lại như quả lê (hay quả đu đủ nhỏ), lại có quả giống như quả găng có năm múi và năm khe. Nhưng chất lượng và vị ngon của giống ổi Bo chính hiệu - tức là loại quả được trồng trên đất nguyên thổ của làng Bo, với chất đất phù sa nhẹ tốt, mỗi năm chỉ cho thu hoạch một vụ vào tháng 7 hằng năm thì không giống ổi ở đâu sánh bằng. Cũng là giống ổi Bo nhưng khi trồng ở vùng đất khác, quả không được thơm ngon mà thường thì chát hơn, rắn hơn và không to. Cây ổi Bo cũng thể hiện nét riêng đặc biệt của mình đối với người trồng và thưởng thức nó: khi hái ổi phải hái bằng nèo không được trèo lên cây, và cành ổi cũng không được rũ xuống gần đất có như vậy ổi mới không bị chua. Khi ăn ổi Bo không nên dùng dao để cắt như vậy ăn miếng ổi sẽ thấy chua, phải ăn một cách bình dị dân dã là dùng răng và cắn vào thịt quả ổi thì mới cảm nhận được hương vị đặc trưng của nó. Đầu tiên là thấy vị chát, sau là chua dịu, rồi vị ngọt thấm dần vào đầu lưỡi, vào khoang miệng và lưu lại trong cổ họng. Chính những hương vị đặc trưng đó, mà ổi Bo đã trở thành một thứ đặc sản mang đậm hồn quê, như nhắc nhở những người xa luôn nhớ về quê lúa Thái Bình.
Bánh cốm Thanh Hương
Dù ai đó không thích đồ ngọt đi chăng nữa, nhưng đã nếm bánh cốm Thanh Hương một lần hẳn nhớ mãi hương vị. Những hạt nếp xanh màu lá lúa, thơm nức, ngọt ngào, từ bao đời làm nên thứ bánh ''quốc tuý, quốc hồn'' dân tộc là bánh chưng, bánh dầy. Cái tinh tuý của hạt gạo mới ấy thời kinh tế thị trường vẫn có cơ hội nổi trội giữa trăm ngàn loại bánh ngon, của lạ trong ngoài nước. Bánh cốm Thanh Hương, thành lễ vật ngày ăn hỏi, chạm ngõ nối duyên chồng vợ. Thưởng thức món quà từ hạt gạo quê, nào mấy ai biết rằng, những hạt cốm đó lại có xuất xứ từ làng Thanh Hương, xã Đồng Thanh (Vũ Thư), một xã nằm ven sông Hồng êm ả, vốn thanh bình như tên gọi.
Mỗi rằm tháng 8 đón tết Trung thu, mỗi gia đình trong làng đều không thể thiếu đĩa cốm xanh gói lá sen ăn với chuối tiêu trứng cuốc, hay chục hồng Thanh Hương khi ngắm trăng rằm lồng lộng. Tháng 10 mùa gặt nếp cái hoa vàng, tiếng chày giã cốm rải hương lúa mới khắp làng. Quanh năm, chồng cày, vợ cấy, mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày, đón tay hạt cốm thơm lành cũng là đón mùa vàng no ấm.
Muốn có cốm dẻo ngon, không thể không kén thóc. Nhà nào cấy nếp, thợ làm cốm đến xem tận ruộng, trả giá rồi định ngày gặt. Vì quen nghề, nên phải gặt lúc thóc vừa đỏ đuôi. Non quá khó giã bết dính, già quá, khi rang thóc nở thành nẻ. Gặt về, tuốt thóc đem đãi sạch sẽ, hạt lép, đem rang bằng chảo gang vũm lòng, đun bằng củi. Rang xong cho ngay vào cối giã, rồi sàng sảy sạch. Để tạo màu xanh của hạt cốm có nhiều cách, nhưng chủ yếu vẫn là dùng lá cơm nếp, lá lúa, lá gừng hoặc lá cau, giã lấy nước cốt rồi hoà vào cốm, đảo đều tay.
Thóc già đã phơi nỏ, đem về ngâm nước lã hoặc nước ấm tay trong một đêm. Vớt ra thúng hoặc rá cho ráo nước. Mỗi mẻ rang không nhiều, chỉ miệng bơ đong gạo 8 lạng là vừa. Chảo rang đặt trên bếp than, phía trên chảo có dụng cụ cải tiến, đảo liên tục cho thóc chín đều. Khi nào nghe thấy tiếng nổ tách tách của hạt thóc là xúc ra cho vào máy giã. Cần cối làm bằng gỗ nhóm 4, nhóm 5, có bộ phận cắm điện, để cối giã tự động. Một người ngồi đầu cối dùng 1 đĩa sắt tây đảo liên tục. Sau khi giã cho vào máy gần giống máy sát, thổi hết vỏ trấu và loại các phôi thóc. Để tạo ra thành phẩm sạch hơn, còn phải sàng sảy hoàn toàn thủ công. Từng đó công đoạn mới cho ra hạt cốm mộc, không nhuộm màu. Nếu chủ hàng cần cốm màu vàng thì nhuộm nước dành dành, nghệ, cốm màu xanh dùng màu thực phẩm. Tốt nhất vẫn là dùng nước cốt của lá nếp để nhuộm, vừa thơm vừa dẻo và an toàn. Với gần 100 hộ gắn bó với nghề làm cốm quanh năm và chuyên tráng bánh cuốn, làm đậu, làng Thanh Hương nay đã và đang vươn lên thoát khỏi đói nghèo từ chuyển đổi cây trồng vật nuôi, khôi phục nghề truyền thống. Thanh Hương được công nhận là làng nghề chế biến lương thực năm 2004. Trên trục đường về UBND xã, xuất hiện ngày càng nhiều những ngôi nhà cao tầng kiểu dáng Thành phố của những đại lý nghề cốm... Cấp uỷ, chính quyền và nhân dân ở đây rất mong huyện và ngành chức năng của tỉnh giúp bà con xây dựng thương hiệu cho hạt cốm Thanh Hương, để hạt gạo nếp thơm của quê nhà được khách xa gần biết đến.
Bánh Cáy
Từ các sản vật nông nghiệp dễ có đến hàng nghìn loại bánh, kẹo hoặc hơn nữa được làm ra ở các vùng quê Việt Nam. Bánh chưng, bánh dầy thì đã trở thành bánh của cả dân tộc. Nhưng cũng có những loại bánh được gắn liền với từng vùng quê nơi sinh ra nó như: bánh đậu xanh Hải Dương, mè xửng Huế, bánh phu thê, bánh xèo, kẹo dừa, kẹo cu đơ. Bánh cáy cũng là một loại bánh dân dã mà ngoài quê lúa Thái Bình thì chưa thấy ở đâu có.
Ngay cả ở trong tỉnh Thái Bình, chỉ bánh cáy được làm bởi những nghệ nhân làng Nguyễn (huyện Đông Hưng) mới là loại ngon nhất và có tiếng nhất.
Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới thị trấn Đông Hưng, rẽ trái sang quốc lộ 39, đi một đoạn là tới làng Nguyễn quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm song đồ quí tiến vua thì chỉ có bánh cáy. Các cụ già trong làng kể lại: ngày xưa khi quan đại thần triều đình đi kinh lý vùng châu thổ, khi qua làng Nguyễn được dân dâng lên tiến vua vào mỗi dịp tết đến.
Làm bánh cáy khá phức tạp. Nguyên liệu chính của bánh cáy là gạo nếp, nhưng các nguyên liệu phụ thì rất nhiều như: gấc, quả hoặc là lá dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn.
Gạo nếp làm bánh được chia làm hai phần, một phần đồ xôi với nước quả gấc tạo nên màu hồng thắm; phần còn lại đồ xôi với nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi. Hai loại xôi này đều được giã bằng chày như làm bánh giầy. Sau khi giã nhuyễn đều, cán mỏng, cắt thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mỡ lợn đang sôi đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn.
Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín ròn, xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch trấu, dậy mùi thơm. Mỡ lợn khẩu muối đường hơn nửa tháng, đem ra thái nhỏ như hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước đường, nước gừng, vở quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ.
Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường mía, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào khuôn gỗ được chuẩn bị sẵn có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ được bánh cáy thành phẩm. Bánh không phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để được rất lâu nếu làm đúng kỹ thuật.
Nghe tên bánh cáy nhiều người ngỡ đây là loại bánh làm từ con cáy biển, nhưng không phải. Bánh cáy được làm hoàn toàn bằng gạo nếp, lạc, vừng và các gia vị cũng như các loại hoa lá để tạo mầu cho bánh. Dân gian có truyền thuyết rằng loại bánh này là do thần cáy biển ban cho. Thuở ấy, cả một vùng phía tây tỉnh Thái Bình vẫn còn là những bãi lầy ven biển. cửa biển Đan Nhai cách không xa làng Nguyễn là mấy Không biết truyền thuyết kia đúng được bao nhiêu phần nhưng nếu nhìn kỹ lát bánh cáy, những màu vàng trắng xen lẫn hồng cam cho ta cảm giác nó giống như trứng cáy. Cũng có thể đây là lý do mà loại bánh cổ truyền này có tên là bánh cáy. Nhưng có lẽ do loại bánh cổ truyền này có vị hơi cay khi ăn nên gọi là bánh cay, rồi dần dần gọi lệch sang thành bánh cáy.
Những hôm tiết thời se lạnh, có đĩa bánh cáy xắt miếng, ăn nhẩn nha bên ấm trà xanh nóng thì thật tuyệt vời. Cảm giác ngọt, bùi, béo đan chen độ giòn lép xép, độ dẻo, độ dai mềm mại, người ăn thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Vị gừng hơi cay, nhưng nóng làm cho người ăn cảm giác như khỏe ra, tiết trời như ấm lại.
Những món ăn truyền thống, những sản vật địa phương sẽ rất hấp dẫn với du khách tham gia du lịch nông thôn.
Canh cá Quỳnh Côi
Canh cá Quỳnh Côi là món ăn dân tộc, dân dã mang hương vị thơm ngon của vùng quê Quỳnh Côi Thái Bình. Xưa cư dân địa phương chỉ làm canh cá.
Món bánh đa nghe chừng đơn giản, nhưng đúng bánh đa Quỳnh Côi phải là thứ bánh sợi nhỏ mà đều tăm tắp, và cái màu trong suốt của bánh khi nấu lên lại trở màu trắng tinh, giòn dai và thơm thơm mùi gạo...
Người Quỳnh Côi có nghề làm bánh đa, đó là những chiếc bánh đa gạo tròn to đem nướng giòn chia cho trẻ con hay bánh đa thái sợi, phơi khô để nấu món ăn với thịt, cá, tôm... Bánh đa Quỳnh Côi là bí quyết nhà nghề ít nơi nào sánh được, sợi nhỏ đều tăm tắp, chỉ nhỉnh hơn chiếc tăm tre một chút, được phơi khô có màu trong suốt. Thế rồi khi nấu, sợi bánh nở ra màu trắng tinh, giòn dai và thơm thơm mùi gạo. Thứ bánh đa này là nguyên liệu quan trọng làm nên hương vị món bánh đa cá Quỳnh Côi. Cũng cá, cũng rau, cũng chừng ấy gia vị nhưng không có bánh đa Quỳnh Côi thì món canh bánh đa chưa ra chất đặc sản. Những sợi bánh trắng ngần ấy không dễ kiếm ở các đô thị lớn, cũng không hiện diện trong nhà hàng, khách sạn, chỉ có chợ quê mới tìm được, lại rẻ như một thứ thức ăn bình dân. Nguyên liệu chính của món ăn này là cá quả hoặc cá trắm, trắm đen càng ngon. Người ta đem làm sạch, lóc phần thịt nạc, khéo léo lách bỏ xương, rồi đem thái thành miếng dày chừng hơn nửa phân, ướp với chút nước mắm ngon, tiêu bột và nước cốt nghệ. Để đạt hương vị của món ăn, nhất thiết phải dùng nghệ tươi giã nhuyễn bỏ xác chứ không phải thứ bột nghệ người ta bán sẵn ngoài chợ. Cá được tẩm ướp chừng nửa giờ cho thấm, khi xong lại được cho lên vỉ nướng qua than hoa cho thơm và chín tới, sao cho lớp vỏ ngoài vừa se lại, thịt cá bên trong vừa chín thì bỏ ra khỏi vỉ đem chiên lên tới khi vàng sẫm.
Để miếng cá vừa giòn, vừa dai, vừa thơm, chan nước không bị nhũn ra mà giữ nguyên được độ thơm ngon của cá người ta phải nướng lên trước khi rán. Phần cá dính chút xương vây, người ta đem băm nhuyễn với hành khô, tiêu và ớt quả tươi, nhuyễn đến độ xương không còn lạo xạo mà quyện vào với thịt cá. Khi cá đã nhuyễn, người ta nặn thành từng viên chả đem chiên vàng hai mặt. Chả chiên xong mỏng và xốp, giòn giòn, thơm cay rất đặc trưng. Phần đầu và xương sống cá được ninh để lấy thứ nước dùng trong và ngọt đậm đà. Thêm ít rau gia vị là hành lá, thìa là, rồi cứ mùa nào thức nấy khi thì thêm rau rút vào mùa nóng, khi thì thêm rau cần hoặc rau cúc tần vào mùa lạnh.
2.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
2.3.1. Giới thiệu một số chương trình du lịch nông thôn đang được khai thác ở tỉnh Thái Bình.
Chương trình 1: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - VŨ THƯ - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
(2 ngày, 1 đêm)
Ngày1:
08h00: Xuất phát tại Thành phố Thái Bình, tới thămhh DTLSVH Chùa Keo - công trình kiến trúc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thế kỷ XVII, gác chuông chùa Keo là biểu tượng vĩnh hằng cho văn hoá Thái Bình.
14h30: Thăm quan Làng vườn Bách Thuận, làng nghề trồng dâu - nuôi tằm - dệt vải. Trên đường về Thành phố ghé thăm đình - đền Bổng Điền thờ Quế Hoa (nữ tướng thời Hai Bà Trưng).
18h00: Ăn tối, tự do dạo chơi dọc sông Trà Lý thơ mộng, ngắm cảnh Thành phố về đêm, nghỉ tại Khách sạn
Ngày 2:
08h00: Tham quan Bảo tàng tỉnh, Quảng trường Nguyễn Đức Cảnh, sau đó ghé thăm chùa Tiền.
14h00: Tham quan Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh - xã Tân Hoà, Làng nghề thêu Minh Lãng, mua sắm quà lưu niệm.
17h00: Trở về, kết thúc chuyến đi.
Chương trình 2: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - HƯNG HÀ - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
(2 ngày, 1 đêm)
Ngày 1:
08h00: Khởi hành tới thăm DTLSVH đền Tiên La - thờ nữ tướng anh hùng của thời Hai Bà Trưng - Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục.
13h00: Thăm quan Khu mộ cổ các Vua Trần - mảnh đất Thái Đường xưa - nơi phát tích, đất lăng mộ tôn miếu của một dòng họ, một triều đại hơn 700 năm về trước đã làm vẻ vang lịch sử phong kiến nước nhà.
15h30: Thăm làng nghề chiếu Hới - nơi phát triển nghề dệt chiếu từ thế kỷ X, thăm đền Quan Trạng - thờ Quan Trạng Phạm Đôn Lễ (Thế kỷ XV) - người có công lao lớn canh tân kỹ nghệ dệt chiếu cổ truyền của làng.
18h30: Ăn tối, nghỉ tại Khách sạn.
Ngày 2:
08h00: Tham quan Nhà lưu niệm Bác Hồ, Từ đường Lê Quý Đôn - nhà bác học lỗi lạc lớn nhất Việt Nam thế kỷ XVIII.
14h00: Tham quan Làng nghề dệt Phương La, mua sắm đồ lưu niệm.
Sau đó trở về kết thúc chuyến tham quan.
Chương trình 3: THÀNH PHỐ THÁI BÌNH - QUỲNH PHỤ - ĐÔNG HƯNG - THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
(1 ngày)
08h00: Thăm Khu DTLSVH đền Đồng Bằng - một bảo tàng mỹ thuật điêu khắc gỗ đầu thế kỷ XX, thăm khu di tích A Sào và Khu sinh thái Miễu Sổ - một khu rừng nguyên sinh giữa đồng bằng.
11h00: Ăn trưa, thưởng thức đặc sản canh cá Quỳnh Côi.
14h00: Ghé thăm Làng kháng chiến và múa rối nước Nguyên Xá (làng Nguyễn): thưởng thức nghệ thuật múa rối nước với các tích trò hấp dẫn, hơn nữa du khách còn được thưởng thức Bánh Cáy - món quà đặc sản độc đáo mang hương vị của làng quê truyền thống Thái Bình. Sau đó quý khách có thể tới thăm làng Khuốc, thưởng thức chiếu chèo - một loại hình sân khấu truyền thống của người Thái Bình.
Chiều tối trở về, kết thúc chương trình tham quan.
2.3.2. Đánh giá về tiềm năng và thực trạng khai thác du lịch nông thôn tại Thái Bình.
Điểm mạnh
Điểm yếu
Thái Bình là tỉnh có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch nông thôn:
- Vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu kinh tế và mở rộng hành lang liên kết kinh tế và du lịch với hầu hết các trung tâm kinh tế, du lịch trong toàn quốc và một số nước Đông Nam Á.
- Thái Bình nổi tiếng là vùng đất đai phì nhiêu màu mỡ, nông nghiệp phát triển đạt được năng suất cao.
- Cư dân cần cù, chất phác và mến khách.
- Hệ thống chính trị ổn định, điểm đến an toàn.
- Thái Bình có nhiều làng nghề nổi tiếng và có truyền thống lâu đời
- Thái Bình còn là quê hương của hát chèo và múa rối nước
- Ở đây có rất nhiều những lễ hội truyền thống và di tích lịch sử.
- Những món ăn truyền thống, những sản vật địa phương như: ổi Bo, bánh cáy, cốm… rất thu hút khách du lịch.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật ở nông thôn còn chưa phát triển. Đường sá váo các làng quê tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn nhiều nơi gây khó khăn trong việc đi lại, tham quan.
- Nhân lực phục vụ du lịch ở các làng quê trình độ còn kém trong khi nhân lực chưa qua đào tạo thì lại đang thừa. Tỷ lệ đội ngũ cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành chưa cao, đội ngũ hướng dẫn viên tại một số điểm du lịch chưa được đào tạo bài bản.
- Vệ sinh môi trường tại các làng quê còn kém.
- Chưa tạo ra được thương hiệu cho du lịch nông thôn ở địa phương.
- Các dịch vụ phục vụ du lịch tại các điểm du lịch còn ít và không đạt chất lượng
- Các sản phẩm du lịch còn chưa đa dạng, phong phú về mẫu mã, chủng loại nên không thu hút được nhu cầu mua sắm của khách du lịch.
- Sự liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và chính quyền địa phương chưa chặt chẽ.
- Vốn ngân sách dành cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch gặp nhiều khó khăn.
- Cơ chế ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh du lịch còn chưa phù hợp.
- Sự phối kết hợp giữa các ngành, địa phương trong việc quản lý, phát triển hoạt động du lịch chưa chặt chẽ, đồng bộ.
Thời cơ
Thách thức
- Trong những năm gần đây, loại hình du lịch nông nghiệp rất được khách du lịch quan tâm đặc biệt là du khách nước ngoài.
- Du lịch ngày càng được nhà nước và chính quyền địa phương quan tâm, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt những làng quê ngày càng được quan tâm đưa vào khai thác du lịch.
- Sự đa dạng của một sản phẩm: mỗi một làng quê, mỗi vùng mang một vẻ đẹp riêng, một nét văn hoá riêng biệt vì vậy có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu rất đa dạng của khách du lịch.
- Nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi, rất phong phú. Vì vậy luôn đòi hỏi phải đổi mới sản phẩm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách du lịch.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật ở các làng quê đòi hỏi sự đầu tư một nguồn vốn lớn.
- Đã có rất nhiều nước, nhiều tỉnh thành trong cả nước phát triển thành công du lịch nông thôn nên thị trường khách du lịch nông thôn ở Thái Bình không còn nhiều.
- Môi trường nông thôn đang dần bị ô nhiễm gây ảnh hưởng rất lớn đến sự bền vững của du lịch nông thôn.
- Các điểm di tích lịch sử có dấu hiệu xuống cấp nhưng nguồn vốn dành cho đầu tư, tôn tạo chưa nhiều nên việc nâng cấp để bảo tồn các di tích lịch sử còn chậm. Việc phối hợp giữa khai thác và bảo tồn di tích chưa được nhịp nhàng.
Thái Bình là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn và hiện nay các chương trình du lịch nông thôn cũng đang được khai thác trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, du lịch nông thôn của tỉnh vẫn chưa thực sự phát triển. Để làm được điều này, chúng ta cần phải thực hiện rất nhiều biện pháp.
Chương III. Định hướng, giải pháp và kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình
3.1. Định hướng phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình
3.1.1. Phát triển du lịch nông thôn gắn với phát triển cộng đồng
Phát triển du lịch nông thôn phải đi đôi với hoạt động chú trọng vào việc nâng cao đời sống người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Du lịch nông thôn phải được quy hoạch và quản lý với sự tham gia, ủng hộ và nhất trí của các cộng đồng địa phương, trong đó đảm bảo rằng hoạt động du lịch được tiến hành phù hợp với các nguyện vọng và giá trị của cộng đồng và hoạt động du lịch cũng phải được lồng ghép vào đời sống kinh tế và các hệ thống hành chính của địa phương ở mức độ hợp lý và phù hợp với các mục tiêu phát triển đề ra tại địa phương. Theo đó phát triển du lịch nông thôn phải theo hướng tạo điều kiện cho những hộ gia đình nông dân, ngư dân thành chủ thể cung cấp dịch vụ cho hoạt động du lịch làng quê. Thông qua những hoạt động đó các hộ gia đình có thể sử dụng được các lao động dư thừa lúc nông nhàn, khai thác phát huy được giá trị sử dụng của các cơ sở vật chất hiện có, bán và tiêu dùng được các nông sản và các sản phẩm khác, từ đó người dân địa phương có thêm thu nhập, nâng cao được mức sống, góp phần cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho cộng đồng. Điều đặc biệt quan trọng là hình thức và quy mô của hoạt động du lịch nông thôn phải phù hợp với môi trường và đời sống tại địa phương. Để xác định được điều này đòi hỏi phải: xác định những mong muốn và ưu tiên của địa phương, đánh giá tạm thời sức tải hay mức độ thay đổi mà địa phương có thể chấp nhận được; xác định mức độ dự kiến sẽ lồng ghép du lịch vào các hoạt động cộng đồng và xác định vấn đề quản lý và sử dụng đất tại địa phương. Xem xét các mối quan ngại và nguyện vọng của địa phương và thảo luận những tiềm năng và khó khăn tiềm ẩn là những việc cần thiết để xác định triển vọng phát triển du lịch và xây dựng sự đồng thuận của cộng đồng.
3.1.2. Phát triển du lịch nông thôn gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của làng quê
Việc đề cao và bảo tồn các giá trị văn hóa, truyền thống và tín ngưỡng của địa phương có vai trò quan trọng đối với việc phát triển du lịch nông thôn cũng như đối với các cộng đồng địa phương. Một khi các cộng đồng làm mất đi những điều khiến họ trở nên đặc biệt thì sự độc đáo của họ bị giảm đi và nguồn du lịch của họ bị cạn kiệt. Sự phụ thuộc lẫn nhau về quyền lợi này sẽ khiến mọi người phải sử dụng một cách bền vững những nguồn tài nguyên này. Nếu được phát triển với những mục đích kém sáng suốt, du lịch nông thôn có thể làm hủy hoại những khía cạnh nông thôn quan trọng thông qua quá trình thương mại hóa và cái gọi là “hiệu ứng thể hiện” (do người dân địa phương muốn bắt chước theo du khách tới mức từ bỏ tập quán và truyền thống của chính họ và từ bỏ phương thức kiếm sống truyền thống của mình). Tình trạng thương mại hóa dẫn tới hủy hoại các giá trị văn hóa nông thôn thường là kết quả của việc người ngoài địa phương (hoặc người địa phương) khai thác kinh tế từ các cộng đồng địa phương không được tổ chức.
3.1.3. Phát triển du lịch nông thôn gắn với việc bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên
Những năm gần đây, trước xu hướng hội nhập cùng với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình đã tập trung phát triển các làng nghề, phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh những mặt tích cực thì người nông dân cũng đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm môi trường. Tình trạng ô nhiễm không khí, mùi hôi từ nước thải và phân gia súc không được xử lý, ô nhiễm ở các làng nghề đang là vấn đề nan giải. Vì vậy, toàn tỉnh cần phải tập trung vào việc giải quyết tình trạng ô nhiễm để giữ cho môi trường và cảnh quan luôn sạch đẹp từ đó mới có thể phát triển được du lịch nông thôn bền vững.
3.1.4. Phát triển theo phương châm mỗi làng một sản phẩm
Du lịch nông thôn dựa trên cơ sở phát huy những tài nguyên vốn có của người dân địa phương. Để du lịch nông thôn phát triển hơn nữa, việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch làng quê, mỗi làng phát triển một sản phẩm đặc thù sẽ có vai trò rất quan trọng. Yếu tố này sẽ giúp thu hút khách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể phát triển hệ thống sản phẩm du lịch nông thôn đa dạng hơn.
3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Thái Bình
3.2.1. Giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng
Trước hết chúng ta phải cải thiện tiêu chuẩn tại các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng. Để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình có thể xây dựng các homestay. Đây không phải là các nhà mới xây dựng với tiện nghi hiện đại mà là các nhà cổ truyền có ngăn các phòng cho khách ở với các tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Các nhà phải giữ được phong cách địa phương. Nông dân nào muốn tham gia vào mạng lưới du lịch nông thôn phải sửa chữa nhà cửa của mình cho phù hợp với tiêu chuẩn do chính quyền địa phương đưa ra. Thái Bình có thể xây dựng các loại sau:
Nhà khách: tiếp khách như “bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn ăn với món ăn cổ truyền.
Nhà đón tiếp trẻ em: đón từng nhóm khoảng 10 trẻ em thành thị muốn sống ở nông thôn vài ngày để biết thế nào là nông thôn. Trẻ em được vui chơi, ăn ngủ với trẻ em nông thôn và có người phụ trách.
Trại hè: là một miếng đất gần một di tích văn hóa, lịch sử được tổ chức để có thể căng lều trại, nhà vệ sinh, bếp ăn ngoài trời có thể tiếp các nhóm khoảng 20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng.
Trạm dừng chân: là nhà nghỉ chân trên các lộ trình du lịch đi bộ, xe đạp, xe máy gần các di tích lịch sử để các đoàn du lịch có thể nghỉ chân, ăn uống.
Nhà nghỉ: có thể đón tiếp các gia đình về nghỉ ở nông thôn trong vài ngày.
Nhà sàn vui chơi: tổ chức các nhóm 3 đến 25 nhà sàn có thể tiếp 6 người ăn, ngủ. Xung quanh có các nơi vui chơi như đi câu, đi xe đạp, dạo chơi... ở các di tích lịch sử, văn hóa.
Ngoài ra, chính quyền địa phương Thái Bình cần đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật như hệ thống đường sá ở nông thôn, hệ thống giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng.
3.2.2. Đổi mới sản phẩm du lịch
Để phát triển du lịch nông thôn bền vững, chúng ta cần xây dựng sản phẩm du lịch nông thôn ở Thái Bình mới lạ, hấp dẫn, bền vững. Du khách được trực tiếp tham gia vào những công việc rất giản dị như lội ruộng, tát cá, trồng rau, làm ra các sản phẩm thủ công truyền thống ở các làng quê như làm vườn (ở làng Bách Thuận), thêu (ở làng Minh Lãng), dệt đũi (ở làng Nam Cao)…, được trải nghiệm để trở thành nông dân, thợ thủ công thực thụ.
Ví dụ sản phẩm: Tour du lịch cụm làng Vũ Thư
Ngày
Chương trình
1
Buổi sáng, du khách lên xe trâu dạo quanh làng vườn Bách Thuận. Du khách tham gia làm vườn cùng nông dân như cắt tỉa cây, bắt sâu, tưới nước, nhặt cỏ, tạo dáng cây cảnh.
Buổi trưa, du khách về nghỉ tại nhà dân ở làng Bách Thuận, cùng nấu nướng và thưởng thức bữa trưa.
Buổi chiều, du khách ra đồng mò cua bắt ốc, gặt lúa, tát cá.
Nghỉ tối tại nhà dân ở làng Bách Thuận.
2
Buổi sáng, du khách đi tham quan chùa Keo, tham gia lễ hội chùa Keo.
Buổi chiều, tham quan làng thêu Minh Lãng. Du khách sẽ được hướng dẫn thêu một số sản phẩm.
Buổi tối, du khách nghe hát chèo, xem múa rối nước.
Nghỉ tại nhà dân ở Minh Lãng.
3
Buổi sáng, du khách tham quan miếu hai thôn, đền đình Bổng Điền.
Du khách tạm biệt huyện Vũ Thư, trở về vào buổi chiều.
3.2.3. Xây dựng các chương trình xúc tiến du lịch
Song song với việc xây dựng các sản phẩm du lịch nông thôn đặc trưng cần chuẩn bị để thực hiện những chương trình xúc tiến du lịch:
Xây dựng logo, khẩu hiệu và hình ảnh biểu trưng cho du lịch nông thôn Thái Bình thông qua tổ chức cuộc thi sáng tác biểu trưng, khẩu hiệu, ảnh đẹp để tìm ra hình ảnh ấn tượng, khái quát nhất.
Khi hoàn thành xây dựng các sản phẩm đặc trưng, tổ chức giới thiệu sản phẩm mới.
Tạo ra các sự kiện lớn tại Thái Bình như lễ hội đồng bằng sông Hồng năm vừa qua.
Xây dựng một website đủ lớn để quảng bá du lịch nông thôn Thái Bình sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thống nhất trong website.
Họp báo giới thiệu sản phẩm mới với các công ty lữ hành và các phương tiện thông tin đại chúng trong nước tại các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Biên tập, sản xuất các loại ấn phẩm giới thiệu về du lịch nông thôn Thái Bình bằng nhiều hình thức như: tờ rơi, bản đồ, đĩa CD, bưu ảnh, quà lưu niệm mang hình ảnh nông thôn Thái Bình.
Quảng cáo, giới thiệu hình ảnh nông thôn Thái Bình trên các tạp chí du lịch và hàng không có uy tín ở Châu Á như Destinasean, Tuorism Asia…
Tham gia các hội chợ du lịch quốc tế trong khu vực và Châu Âu.
3.2.4. Giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động du lịch nông thôn
Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch, đưa chương trình đào tạo phát triển du lịch nông thôn vào các chương trình đào tạo. Thái Bình cần xây dựng và thực hiện chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân đến năm 2020. Từ chiến lược đó ngành du lịch có thể lên được những kế hoạch ngắn hạn và dài hạn để phát triển du lịch nông thôn. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi chuyên môn nghiệp vụ để khuyến khích việc rèn luyện nâng cao tay nghề của các cán bộ công nhân viên công tác trong ngành du lịch.
Có các chính sách thu hút các nguồn nhân lực trẻ có trình độ chuyên ngành cao về du lịch. Có những biện pháp thu hút nhân tài về tỉnh, tạo điều kiện để những sinh viên mới ra trường có cơ hội được làm việc trong các đơn vị quản lý du lịch của tỉnh.
Cần phải tổ chức, đào tạo bồi dưỡng kiến thức cộng đồng về phát triển du lịch cho nhân dân bản địa. bởi người nông dân sẽ là những hướng dẫn viên trên chính mảnh đất của mình. Từ đó người dân có thể nhận thức được lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài nhằm tăng cường ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, văn minh du lịch và bảo vệ môi trường cảnh quan du lịch tại các điểm du lịch của tỉnh.
3.2.5. Những giải pháp về quy hoạch phát triển du lịch nông thôn
Lập điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình đến năm 2020 và quy hoạch chi tiết các khu du lịch gắn với công tác nghiên cứu thị trường. việc lập quy hoạch du lịch phải bảo đảm tính thống nhất của các yếu tố trong du lịch là cần thiết và quan trọng, đồng thời phải được đặt trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh và quốc gia. Quy hoạch phải đảm bảo phát triển bền vững bởi vì sự phát triển du lịch chủ yếu phụ thuộc vào các điểm hấp dẫn và các hoạt động có liên quan đến môi trường tự nhiên, các giá trị văn hóa của địa phương. Hoàn thiện việc quy hoạch du lịch cho từng địa phương và tăng cường quản lý để thực hiện các quy hoạch đã được phê chuẩn, tránh tình trạng làm ăn manh mún làm cho du lịch nông thôn kém tính bền vững.
Xây dựng các mô hình du lịch nông thôn phù hợp với từng địa phương khác nhau của tỉnh như mô hình trang trại hay mô hình du lịch theo quy mô làng để du khách có thể tham gia các hoạt động của làng trong vài ba ngày với các tiện nghi dịch vụ có chất lượng.
Về quản lý quy hoạch: Căn cứ luật du lịch 2009, Sở Văn hóa thể thao và du lịch trình Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị giao quyền quản lý quy hoạch du lịch cho ban quản lý của các khu du lịch. Ban quản lý có trách nhiệm giám sát, quản lý và đề xuất Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa Thể thao và du lịch để quản lý kinh doanh du lịch dịch vụ trong khu du lịch mình quản lý theo quy hoạch đã được duyệt nhằm phát huy hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, các ban quản lý, đơn vị được giao quản lý khai thác các khu du lịch phải có trách nhiệm giám sát các hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh dịch vụ du lịch… trong các khu vực quy hoạch, nếu có các hành vi làm trái với quy hoạch và xâm hại đến tài nguyên du lịch phải phối hợp với chính quyền địa phương, công an xử lý nghiêm các hành vi đó và báo cáo ngay bằng văn bản tới ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành, các cấp có liên quan để giải quyết triệt để.
3.2.6. Giải pháp về tăng cường công tác quản lý của địa phương
Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý dịch vụ du lịch, mở các lớp cho cán bộ chính quyền các địa phương nâng cao nhận thức về phát triển du lịch, xây dựng các quy ước của các làng trong khai thác du lịch, tránh tình trạng làm ăn chụp giật.
Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ tỉnh xuống đến huyện, đề nghị bổ sung biên chế chuyên trách về du lịch tại phòng kinh tế huyện. Kiền toàn và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý tại các khu, điểm du lịch trọng điểm của tỉnh. Thành lập các ban quản lý khu du lịch trực thuộc Sở Văn hóa Thể thao và du lịch tại các địa phương, khu du lịch sinh thái, làng nghề trên địa bàn tỉnh. Với các chức năng nhiệm vụ chủ yếu như quản lý và bảo vệ tài nguyên du lịch theo quy hoạch, quản lý quy hoạch và các hoạt động đầu tư xây dựng trong khu du lịch, quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên kinh doanh du lịch, quản lỳ và điều tiết các nguồn thu từ vé danh lam, phí khai thác tài nguyên nộp vào ngân sách tỉnh, cấp phép kinh doanh dịch vụ du lịch cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đủ điều kiện.
Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, cụ thể hóa các văn bản luật, các văn bản quản lý khai thác tài nguyên du lịch có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp tạo nên hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động khai thác tài nguyên du lịch. Căn cứ vào các hướng dẫn thi hành Luật du lịch năm 2009 của chính phủ, ngành du lịch Thái Bình cần tập trung tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng và ban hành quy chế quản lý khai thác bảo vệ tài nguyên du lịch, nội quy, quy định về kinh doanh dịch vụ trong khu du lịch làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý khai thác tài nguyên của các ban quản lý khu du lịch trong giai đoạn tới.
3.4. Các kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
3.4.1. Kiến nghị đề xuất với chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương phải có những chính sách nhằm giới hạn việc khai thác du lịch làng quê. Mọi sự khai thác phát triển đều phải phù hợp với quy hoạch phát triển nông thôn. Đồng thời tuân theo những quy định của pháp luật, những luật lệ hương ước của làng xã.
Chính quyền địa phương phải phối hợp với người dân trong việc kiểm tra giám sát… nhằm bảo đảm an ninh trật tự, an toàn lợi ích cho cả người dân và khách du lịch.
Cần có các nghiên cứu cơ bản về từng vùng nông thôn trong kế hoạch phát triển của tỉnh. Xác định sức thu hút của tài nguyên du lịch trên địa bàn nông thôn trên cơ sở điều tra và đánh giá toàn diện tài nguyên trên 9 tiêu chí chính sau: Mức độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch nông thôn của từng địa phương trong tỉnh, Thời gian khai thác các tài nguyên; Các yếu tố môi trường; Sức chứa của từng vùng; Độ bền vững trong khai thác tiềm năng du lịch nông thôn; Khả năng tiếp cận; Điều kiện hạ tầng; Khả năng phát triển; Hiệu quả kinh tế xã hội. Các tiêu chí trên giúp cho việc lượng hoá tài nguyên theo thang bậc tạo cơ sở để tổ chức khai thác và quản lý, phát triển tài nguyên trong du lịch của từng địa phương.
Thay đổi nhận thức trong sinh hoạt, vệ sinh môi trường của người dân, cần tuyên truyền cho người dân về lợi ích thiết thực của loại hình du lịch nông thôn mang lại để hộ giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá bản địa của mình. Đồng thời, khuyến khích nhân dân củng cố, sưu tầm và phát triển rộng hơn nền nghệ thuật dân ca, dân vũ của mình để phục vụ khách du lịch.
3.4.2. Kiến nghị đề xuất với các công ty du lịch
Công ty du lịch cần có kế hoạch khai thác hợp lý tài nguyên du lịch ở nông thôn. Đồng thời không vì lợi ích trước mắt mà có những hành bi trái pháp luật, làm tổn hại đến cuộc sống của người dân, đến bản sắc văn hóa của làng quê, đến môi trường sống và không gian sống nơi làng quê.
Mặt khác ban quản lý các doanh nghiệp du lịch cũng cần có những hoạt động giám sát, kiểm tra các chương trình hoạt động của mình. Sự kiểm tra giám sát kịp thời sẽ tránh gây ra những hoạt động sai trái trong việc khai thác du lịch nông thôn.
Cần có sự phối hợp tốt giữa doanh nghiệp du lịch và chính quyền, cộng đồng địa phương để giảm thiểu những tổn hại do hoạt động du lịch gây ra.
Các doanh nghiệp khi xây dựng các chương trình du lịch nông thôn cần nghiên cứu kỹ đặc điểm của các địa phương có tài nguyên du lịch và có mối liên hệ chặt chẽ khác trong hệ thống du lịch là chính quyền, dân cư các địa phương và khách du lịch.
3.4.3. Kiến nghị đề xuất với du khách
Hướng dẫn viên cần nhắc nhở du khách tinh thần tôn trọng bản sắc văn hóa làng quê có ý thức trong hoạt động tham quan du lịch.
Du khách cần được hướng dẫn về những phong tục tập quán cơ bản đặc biệt của địa phương để tránh những va chạm xô xát với người dân địa phương do hiểu nhầm.
Du khách cần có trách nhiệm cùng cư dân địa phương bảo vệ môi trường du lịch và chia sẻ quyền lợi từ hoạt động du lịch.
3.4.4. Kiến nghị đề xuất với cộng đồng địa phương
Người dân không nên chạy theo lợi ích trước mắt mà có những hành động làm tổn hại đến cuộc sống lâu dài của làng xóm mình, xâm phạm bản sắc văn hóa của làng quê. Người dân cần có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và nét đẹp làng quê mình nói riêng.
Hơn nữa người dân địa phương cần có thái độ thân thiện cởi mở chào đón du khách đến với làng mình, không nên tỏ thái độ tò mò, dò xét du khách. Chính điều đó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động du lịch làng quê phát triển, nâng cao cuộc sống của chính mình.
Người dân địa phương cần có trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch đặc biệt là môi trường làng nghề, để gìn giữ tài nguyên cũng như đảm bảo tài nguyên phát triển du lịch bền vững.
Như các loại hình du lịch khác, du lịch nông thôn có những điểm thu hút khách du lịch đồng thời cũng có những hạn chế nhất định cần được quan tâm và giải quyết. Bởi vậy, cần có sự phối hợp tốt giữa cộng đồng địa phương, du khách, chính quyền địa phương và những nhà kinh doanh du lịch sao cho các chương trình được thực hiện thành công nhất.
KẾT LUẬN
Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố tích cực và tiêu cực. Một trong những lĩnh vực kinh tế chịu nhiều ảnh hưởng của sự hội nhập là lĩnh vực du lịch. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Thái Bình nói riêng là một ngành hội nhập trước các ngành kinh tế khác, hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội để du lịch phát triển, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi hơn để từng bước thâm nhập vào thị trường kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, thu hút một lượng lớn khách du lịch quốc tế… Bên cạnh đó, du lịch Việt Nam cũng như du lịch Thái Bình sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn như bị chia sẻ thị phần, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt… Vì vậy phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình sẽ giúp Thái Bình tận dụng một cách hiệu quả những tiềm năng du lịch của địa phương,tạo công ăn việc làm cho người dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. Để có được điều này thì rất cần sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương và dân cư địa phương.
Hy vọng trong ương lai không xa du lịch nông thôn ở Thái Bình sẽ tạo ra được thương hiệu riêng có không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, TS. Nguyễn Đình Hòa, “Giáo trình Marketing du lịch”, tháng 9 năm 2008.
T.s Bùi Xuân Nhàn, “Phát triển du lịch nông thôn ở nước ta hiện nay”, tạp chí cộng sản.
T.s Ngô Kiều Oanh, “Mô hình du lịch nông nghiệp là một lối thoát cho chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân”, Viện khoa học công nghệ Việt Nam, ngày 12 tháng 7 năm 2008.
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Hà Nội, ngày….tháng 05 năm 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Hà Nội, ngày….tháng 05 năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình.doc