MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
NỘI DUNG 7
Chương 1: Cơ sỞ lý luẬn vỀ phát triỂn du lỊch sinh thái và du lỊch bỀn vỮng 7
1.1. Du lịch sinh thái 7
1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái 7
1.1.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái 7
1.1.3. Các yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 8
1.2. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác. 12
1.2.1. Du lịch dựa vào thiên nhiên. 12
1.2.2. Du lịch dựa vào văn hóa. 12
1.2.3. Du lịch công vụ. 13
1.2.4. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch bền vững . 13
1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái 14
1.3.1. Tài nguyên tự nhiên, văn hoá bản địa phong phú còn tương đối nguyên sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái. 14
1.3.2. Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc phát triển du lịch bền vững 15
1.3.3. Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, giá trị đạo đức trong kinh doanh của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị kinh doanh. 15
1.3.4. Có sự cố vấn giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ. 16
1.3.5. Nguồn khách du lịch sinh thái có đặc điểm tiêu dùng tương thích với sản phẩm du lịch sinh thái 16
1.4. Phát triển du lịch bền vững. 17
1.4.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững. 17
1.4.2. Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. 17
1.4.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững . 20
Chương 2 : THỰC trẠng phát triỂn du lỊch sinh thái Ở Cát Bà21
2.1. Khái quát về Cát Bà. 21
2.2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà. 22
2.2.1. Vị trí, địa lý. 22
2.2.2. Lịch sử. 22
2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái 22
2.2.4. Tài nguyên nhân văn. 24
2.2.5. Khu dự trữ sinh quyển. 26
2.2.6. Điều kiện kinh tế-xã hội 26
2.2.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật 27
2.3. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái theo quan điểm phát triển du lịch bền vững tại Cát Bà 28
2.3.1. Đóng góp của du lịch vào sự phát triển kinh tế - xã hội 28
2.3.2. Các chủ thể tham gia tạo sản phẩm du lịch sinh thái 29
2.3.3. Thực trạng về các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch sinh thái 30
2.3.4.Thị trường khách du lịch. 35
2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà. 36
Chương 3 MỘt sỐ giẢi pháp phát triỂn du lỊch sinh thái theo hưỚng phát triỂn du lỊch bỀn vỮng tẠi Cát Bà 39
3.1. Định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà. 39
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững tại Cát Bà 40
3.2.1. Công tác quy hoạch tổng thể. 40
3.2.2. Công tác giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái 41
3.2.3. Bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái. 43
3.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng. 49
3.2.5. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng cáo du lịch. 50
3.2.6. Huy động vốn đầu tư và chính sách đầu tư. 51
3.3. Các kiến nghị 51
3.3.1. Kiến nghị với Tổng cục Du lịch. 51
3.3.2. Kiến nghị với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 52
3.3.3. Uỷ ban nhân dân Huyện Cát Bà. 52
3.3.4. Với các nhà đầu tư. 52
3.3.5. Với cư dân địa phương. 53
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN56
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN57
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, đã có nhiều bước phát triển trong lĩnh vực du lịch, du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái không chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một số quốc gia, nó không được quan tâm phát triển. Song ở nhiều nước khác, thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng cáo thương mại công cộng. Du lịch sinh thái mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Velezuela, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba Lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đó thiết lập một số vùng Thiên nhiên và Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế và giao lưu quốc tế giúp cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực. Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong tương lai gần hoạt động du lịch được coi là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Cát Bà - Hải Phòng, còn gọi là đảo ngọc, được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cát Bà được thiên nhiên ban tặng với rừng nguyên sinh nhiệt đới có nhiều động thực vật quý hiếm, nhiều hang động, bãi tắm đẹp Thiên nhiên Cát Bà vẫn còn giữ được nét hoang sơ rất có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái.
Do vậy, em đã chọn đề tài:” Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng phát triển du lịch bền vững” , với mong muốn có thể hiểu về du lịch sinh thái, và nghiên cứu về tình hình phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó đưa ra một số kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng phát triển bền vững.
Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu tổng quan về du lịch sinh thái, mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững.Đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà.Đưa ra những giải phát nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng phát triển bền vững.
Nhiệm vụ của đề tài
Tìm kiếm và thu thập thông tin chính xác và đầy đủ để phục vụ cho việc trình bày và làm sáng tỏ đề tài.Sau khi thu thập thông tin đầy đủ, sẽ tiến hành tổng hợp và phân tích tài liệu để hoàn thành đề tài.
Đối tượng nghiên cứu
Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của Cát Bà.Các tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó để khai thác hợp lý và ứng dụng vào việc phát triển du lịch sinh thái ở đây.
Phạm vi nghiên cứu
Khu du lịch Cát Bà- Cát Hải- Hải Phòng.
Phương pháp nghiên cứu
Thu thập thông tin, tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, đặc biệt là nét đặc trưng của khu du lịch sinh thái Cát Bà qua sách, báo, internetPhương pháp nhiên cứu phân tích,tổng hợp.Phương pháp thực địa.
56 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2998 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng phát triển du lịch bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m. Trừ chi phí, mỗi năm gia đình ông Bình thu nhập 20 đến 40 triệu đồng từ hoa quả và dịch vụ du lịch.
Nhiều gia đình ở Gia Luận, Xuân Đàm, Trân Châu…mạnh dạn phát triển mô hình vườn- rừng, đưa phương thức canh tác bền vững trên đất dốc và sản xuất, vừa phủ đất xang trống, đồi trọc, vừa tạo sản phẩm du lịch sinh thái. Ngoài cam giấy, nhiều gia đình ở Gia Luận, Xuân Đám mở rộng diện tích trồng thông khai thác nhựa kết hợp nuôi ong mật, trồng cây hồng, vải, nhãn.. tạo những sản phẩm đặc thù ở khu vực khu dự trữ sinh quyển Cát Bà .
Chủ tịch UBND xã Trân Châu Đỗ Văn Lượng cho biết, tuyến đương du lịch sinh thái dẫn vào khu leo núi mạo hiểm ở thôn Liên Minh là sự kết hợp phát triển kinh tế vườn dịch vụ mà nhiều hộ dân tận dụng. Thực tế, đây là một khu vực có nhiều vườn đồi cây ăn quả thu hút đông khách đến dã ngoại, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên. Một số gia đình kết hợp cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng khám phá vườn đồi với chế biến nhiều món ăn đặc trưng gà Liên Minh, dưa chuột rau xanh vườn đồi.. Khách du lịch không chỉ khách nước ngoài, mà nay những người đến từ Hà Nội, Đà Nẵng hoặc người dân phương Nam luôn kèm theo lời nhắn: “hãy đưa chúng tôi đến những nơi mà du khách chưa ai đến”. Và họ cảm thấy thật sự mãn nguyện khi được sống trong thiên nhiên hoang dã và cảm giác lạ thật sự.
Tuy nhiên, để phát triển mô hình rộng rãi, hiệu quả và nâng cao chất lượng, ngoài sự tìm tòi, tự làm của người dân, rất cần những định hướng phát triển theo vùng, chính quyền huyện và người dân về vốn, kỹ thuật phát triển cây trồng vườn đồi. Mặt khác, hỗ trợ cách thức quảng bá, thu hút du khách đến , bên cạnh thăm các vịnh, hệ thống bãi tắm, vườn quốc gia, còn được thưởng thức khám phá du lich sinh thái tự nhiên, hấp dẫn, với nhiều người dân, làm du lich sinh thái là phải đi bộ phải ăn ngủ trên nhà sàn ở tận trong rừng, phải sống trong hơi thở của rừng nguyên sinh theo kiểu “du lich sạch” và gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Và cái quan trọng nhất coi như một bí quyết là dựa vào người dân, chủ lực trong giữ rừng cùng làm hưởng lợi. Ngoài ra, cần nghiên cứu, hợp tác triển khai những mô hình sinh thái cụ thể nhiều sản phẩm du lich mới.
2.3.3.2. Các sản phẩm du lịch sinh thái tại Cát Bà
Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Phòng dã được phê duyệt năm 1997 trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2010 và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010, du lịch thành phố được chia làm 3 cụm:
Đồ Sơn-Cát Bà
Thành phố Hải Phòng và phụ cận
Kiến An-Thuỷ Nguyên-Tiên Lãng-Vĩnh Bảo
Trong số các cụm du lịch trên, Đồ Sơn-Cát Bà gắn với di sản Hạ Long có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch Hải Phòng, đặc biệt Cát Bà nằm trong khu vực Hạ Long-Cát Bà-Đồ Sơn đã được xác định là vùng trọng điểm phát triển du lịch quốc gia. Và hiện nay quần đảo Cát Bà đã được công nhận là khu bảo tồn sinh quyển thế giới, vườn quốc gia Cát Bà có hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên núi đá vôi với tính đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài quý hiếm, tiêu biểu là Voọc đầu trắng.
Một số sản phẩm du lịch đặc trưng được định hướng phát triển cho Cát Bà trên cơ sở phân tích những đặc thù về tài nguyên du lịch và vị trí của Cát Bà trong hoạt động phát triển du lịch của Hải Phòng, bao gồm:
Tham quan cảnh quan vịnh Lan Hạ
Tham quan, nghiên cứu các giá trị về cảnh quan, sinh thái và đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Cát Bà
Bảo tàng sinh thái biển tự nhiên trên cơ sở khai thác đặc điểm tự nhiêncủa hệ thống rất đặc trưng và riêng biệt ở Cát Bà để phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch yêu thiên nhiên.
Mặc dù đã dược quy hoạch định hướng phát triển, nhưng theo kết quả điều tra nghiên cứu thực tiễn cho thấy các sản phẩm du lịch chủ yếu hiện nay được khai thác là:
Đi bộ qua rừng quốc gia.
Đi xe đạp từ thị trấn Cát Bà- Gia Luận-thị trấn Cát Bà.
Đi tàu từ Cát Bà đến vịnh Hạ Long và ngược lại.
Đi từ vịnh Lan Hạ kết hợp trèo thuyền cắm trại, tắm biển, thăm rừng quốc gia, nghỉ đêm trên tàu.
Trong chương trình này, các nhà điều hành và công ty du lịch chỉ coi Cát Bà là điểm trung chuyển. Các hãng lữ hành và các nhà điều hành tour lớn, các nhóm khách nhiều thường không thích nghỉ tại Cát Bà. Khách du lịch nghỉ đêm ại đảo Cát Bà chủ yếu là khách du lịch tự do, khách có ngân sách hạn hẹp.
Trong hầu hết các tour dến đảo Cát Bà, khách du lịch thường kết hợp mục đích thăm quan Cát Bà với vịnh Hạ Long và ngược lại. Chương trình này tạo ra một tour một đến một hoặc nhiều nơi rồi quay về:
Hà Nội-Hải Phòng-Cát Bà-Hạ Long-Hà Nội
Hà Nội-Hạ Long-Cát Bà-Hà Nội
Việc khai thác các sản phẩm này cũng chỉ ở mức độ sơ khai, mang tính chắp vá, chưa có xác định mục tiêu chiến lược lâu dài và chưa có những nghiên cứu mang định hướng phá triển từng sản phẩm.
2.3.3.3. Các dịch vụ
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống: khách sạn nhỏ , nhà nghỉ chưa đạt tiêu chuẩn,không có các khách sạn cũng như chuỗi khách sạn cao cấp; ít nhà hàng ăn ngon, không có các món ăn truyền thống ,dân gian. Tuy nhiên, đến với Cát Bà du khách sẽ được thưởng thức những món ăn hải sản được chế biến từ nguồn thực phẩm địa phương như: cá song, cá hồng, tôm, cua, đặc biệt là tu hài Cát Bà-món ẩm thực đặc trưng của đảo ngọc.
- Không có các hoạt động vui chơi giả trí mang nét du lịch sinh thái, nhiều quán bar sàn nhảy ầm ĩ.
- Hàng lưu niệm
Các mặt hàng lưu niệm rất ít, không phong phú và đa dạng về mẫu mã, chủng loại; không mang nét đặc trưng của địa phương.
2.3.3.4. Hướng dẫn viên
Đội ngũ hướng dẫn viên được đào tạo chuyên ngành du lịch rất ít chủ yếu là các công tác viên nên chất lượng tour thường không cao. Các hướng dẫn viên có trình độ ngoại ngữ chưa cao, còn nhiều hướng dẫn viên chạy theo kinh tế nên không trau dồi, bổ sung thêm kiến thức do đó vẫn còn hiện tượng hướng dẫn viên không hiểu rõ về điểm đến khi thuyết minh cho khách. Các công ty lữ hành hiện nay có rất nhiều hướng dẫn viên tự do, không bị ràng buộc khi không làm tròn trách nhiệm hoặc bị khách than phiền nên dẫn dắt tour qua loa, không chu đáo với khách.
2.3.4.Thị trường khách du lịch
Theo những điều tra của số liệu thống liệu thống kê của Sở du lịch Hải Phòng kết quả cho thấy số khách nội địa chiếm 73% và khách quốc tế chiếm 27% với độ dài lưu trú bình quân là 1,84 ngày.
Phân đoạn thị trường khách quốc tế như sau:
EU(Anh, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Thuỵ Điển) 64,6%
Châu Á(Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) 13,3%
Mỹ và Canada 12,1%
Úc và New Zealand 7%
Khác 3%
Hầu hết khách du lịch ở độ tuổi 20-35 và khi hỏi đến mục đích tham quan Cát Bà, thì 37,31% tới để tắm nắng và tắm biển, 59% tới để tham quan, 51% tới để đi bộ trong vườn quốc gia.60% câu trả lời là kết hợp tham quan Cát Bà và vịnh Hạ Long. 90% là khách lần đầu tiên đến với Cá Bà, trong khi chỉ có rất ítcác nhà nghiên cứu và các doanh nhân đi tìm cơ hội kinh doanh và với mục đích khác
28% biết Cát Bà qua bạn bè, 24% qua Internet, 36% qua các nhà điều hành tour và hang lữ hành, 0,36% biết Cát Bà qua phương tiện thông tin đại chúng.
Trong số khách tới Cát Bà 81,5% mua tour trọn gói qua công ty lữ hành và 18,5% tự tổ chức chuyến đi của mình.
Phương tiệnvận chuyển chủ yếu tới Cát Bà là xe buýt và tàu cao tốc. 95% thỏa mãn với dịch vụ lưu trú .77% hài lòng với cảnh đẹp của Cát Bà. Thật ngạc nhiên, 83% cho rằng họ mong muốn trở lại Cát Bà khi có dịp.
Số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng trong thời kỳ từ tháng 5dến tháng 8là thời gian dành cho khách nội địa và khách quốc tế chủ yếu đến đây trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 4 do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa.
2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà
* Điểm mạnh:
- Thiên nhiên đặc trưng với môi trường được bảo vệ tốt, hệ sinh thái đa dạng, cảnh quan thiên nhiên gồm núi đá vôi, rừng quốc gia hang động, đảo, bãi biển nguyên sơ, trang trại nuôi ngọc trai, rừng ngập mặn vịnh.
- Du lịch sinh thái: bảo tàng sinh thái tự nhiên, leo núi, đi bộ qua rừng và các hoạt động chèo thuyền.
- Tầm quan trọng về văn hoá: các khu khảo cổ,lễ hội truyền thống
- Nằm ngay vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận
- Cư dân địa phương thân thiện, hiếu khách, không có tệ nạn xã hội, hệ thống chính trị ổn định, điểm đến an toàn, môi trường kinh tế năng động.
*Điểm yếu
- Thiếu các chương trình du lịch hấp dẫn(các nhà điều hành và các công ty du lịch thường sử dụng một chương trình giống hệt nhau khi quảng bá).
- Giao thông, đi lại khó khăn( không thể tiếp cận bằng đường hàng không, các dịch vụ về tàu thuỷ còn ít, mất nhiều thời gian mới có thể đến được điểm đến).
- Không có các khách sạn cũng như chuỗi khách sạn cao cấp,có ít nhà hàng ăn ngon.
- Nhiều quán bar, sàn nhảy ầm ĩ, không nhiều các hoạt động vui chơi giải trí, không có trang web chính thức, tờ rơi, bản đồ, trung tâm thông tin.
- Thiếu sự phối hợp giữa các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực du lịch.
- Ngân sách địa phương không phân bổ cho các hoạt động xúc tiến du lịch hàng năm.
- Quá trình đô thị hoá như nhà cao tầng mọc lên làm phá vỡ cảnh quan tự nhiên, do việc xây dựng làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến hệ sinh thái; ít đầu tư phát triển du lịch.
- Lực lượng lao động trong ngành du lịch thiếu tính chuyên nghiệp.
- Chính quyền địa phương không tuân thủ chặt chẽ quy hoach tổng thể phát triển du lịch.
- Không có các mặt hàng lưu niệm đăc trưng.
- Ít các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương.
*Thời cơ
- Kế hoạch phát triển dài hạn của VNAT ưu tiên phát triển du lịch sinh thái
- Trong tam giác phát triển kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
- Phát triển cơ sở hạ tầng.
*Thách thức
- Ô nhiễm môi trường: là vấn đề rất đáng được quan tâm tại Cát Bà hiện nay, lượng tàu sử dụng máy dầu đang làm ô nhiễm nguồn nước, vấn đề rác thải do những khách du lịch thiếu trách nhiệm thải ra trong những khu vực tham quan, các công trình xây dựng tác động mạnh đến hệ sinh thái.
- Tàn phá rừng: người dân địa phương không có ý thức trong công tác bảo vệ rừng trên đảo, gây nguy hiểm cho hệ thực vật, động vật.
- Thiên tai tự nhiên
- Quy hoạch đô thị không phù hợp: tình trạng xây dựng tự do kông theo quy hoạch, nhiều loại hình kiến trúc khác nhau, nhà cao tầng phá vỡ cảnh quan.
- Gia tăng các tệ nạn xã hội, mất bản sắc văn hoá.
- Thiếu nước ngọt.
Nhận thức hiện nay về đảo Cát Bà trong khách du lịch còn rất hạn chế. Địa điểm này không đáp ứng được mong đợi của khách du lịch. Vì Cát Bà không tuân theo một mẫu quy hoạch du lịch bền vững, và điều này phản ánh qua việc phát triển đô thị không hấp dẫn đã tiến hành trước đây, những khu vực không được khai thác và không được chú ý như rừng quốc gia… Nếu chính phủ và chính quyền địa phương mong muốn du lịch trở thành một ngành tạo ra thu nhập thì cần phải chấn chỉnh ngay thực trạng này.
Chương 3
MỘt sỐ giẢi pháp phát triỂn du lỊch sinh thái theo hưỚng phát triỂn du lỊch bỀn vỮng tẠi Cát Bà
Định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà
Quần đảo Cát Bà chính thức được tổ chức Văn hoá-Khoa học-Giáo dục của Liên Hợp Quốc(UNESCO) công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ ngày 19/12/2004. Cát Bà là điểm du lịch độc đáo của Hải Phòng, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Vì vậy, cần có những định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà.
Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008-2015, phê duyệt đièu chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025, và tầm nhìn đến năm 2050, là cơ sở cho hang loạt các dự án được Chính phủ định hướng đầu tư để đưa du lịch Hải Phòng, đặc biệt là đảo Cát Bà đi lên thành khu vực du lịch tập trung có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Hiện tại Chính phủ đang rất ưu tiên xúc tiến thực hiện các dự án do Trung ương đầu tư trực tiếp vào Hải Phòng. Cụ thể là những dự án đường ôtô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng(đường 5B), dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Đình Vũ-Cát Hải, cảng Đình Vũ tiếp tục hoang thành giai đoạn II, cải tạo nâng cấp các bến tàu khách Cát Bà, Gia Luận, Bến Bèo, cảng hàng không quốc tế Cát Bi xây dựng sân bay taxi ở Đồ Sơn, Cát Bà, Bạch Long Vĩ phục vụ du lịch và cứu hộ.
Phát triển du lịch là một chính sách được Chính phủ tập trung ưu tiên phát triển tại Hải Phòng, trong đó Cát Bà là trọng điểm. Đảo Cát Bà có lợi thế là khu dự trữ sinh quyển thế giới đang ngày càng biết đến như một địa điểm tham quan đầy lrs tưởng với khách du lịch. Nói một cách chính xác, lượng du lịch đến với Cát Bà đang đóng góp vào mức tăng trưởng du lịch hàng năm của Hải Phòng và tạo ảnh hưởng tích cực đến ngành du lịch Việt Nam.
Ông Vũ Tiến Bảy-Trưởng phòng VH,TT&DL huyện Cát Hải cho biết:”cơ sở hạ tầng, để phát triển kinh doanh du lịch, gồm nhà hàng, khách sạn ít, quy mô thấp không đáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của khách du lịch,nhất là khách nước ngoài.Cát Bà được đánh giá là khu du lịch đẹp của Việt Nam, nhưng mức độ đầu tư chưa tương xứng nên chất lượng dịch vụ thấp, thiếu chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Cát Bà chắc chắn sẽ trở nên hấp dẫn hơn nhờ những công trình lớn mà Chính phủ đang triển khai, cộng với sự đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng phát triển du lịch như dự án Cát Bà Amatian(Dự án khu đô du lịch Cát Giá-Cát Bà) với chủ đầu tư là công ty Vinacenx-ITC.”
Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Thành chỉ ra những tiềm năng, lợi thế là khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu bảo tồn biển và công viên địa chất, những thách thức trong quá trình phát triển và bảo tồn đảo Cát Bà là không nhỏ với yêu cầu cần tăng cường kết nối Cát Bà với thành phố và các trung tâm du lịch khác; công tác quy hoạch chưa theo kịp sự phát triển; cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch cao cấp còn thiếu…
Chủ tịch chỉ đạo, các ngành liên quan phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với huyện Cát Hải để đẩy nhanh công tác quy hoạch theo hướng phát triển du lịch dịch vụ sinh thái; tiếp cận và đón bắt dịch vụ mới khi Cát Bà nằm liền kề với cảng nước sâu; gắn phát triển với bảo tồn giá trị của quần đảo, đặt con người làm trung tâm; hoàn thiện quy hoạch lồng bè trong quý 2 theo hướng giảm 50% số ô lồng và chỉ để 5000 đến 6000 ô lồng.
Chủ tịch yêu cầu huyện phối hợp Sở Văn hóa- thể thao và du lịch tổng kiểm tra, đánh giá lại tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, cảnh quan, cơ sở hạ tầng, các vịnh và bãi tắm, cơ sở lưu trú, hệ thống điện nước, xử lý rác và nước thải trên đảo để có định hướng phát triển bền vững và xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho du lịch; tăng cường phân cấp gắn với kiểm tra trong quá trình quản lý nhà nước, trước mắt thí điểm về giải pháp cho giao thống ra đảo; cơ chế quản lý vịnh; mức thu phí tham quan vịnh; giao cho chủ tịch huyện chịu trách nhiệm về cơ chế quản lý môi trường trên các vịnh.
Chủ tịch đề nghị các ngành và huyện chủ động, nhanh chóng tháo gỡ, xử lý vướng mắc khó khăn của các dự án đầu tư phát triển du lịch và phục vụ dịch vụ du lịch trên đảo, đồng thời thực hiện nghiêm ngặt việc xem xét, phê duyệt thẩm định các dự án trên cơ sở tuân thủ tiêu chuẩn, tiêu chí, trong đó ưu tiên dự án phát triển du lịch sinh thái, xanh, sạch và thân thiện với môi trường.
Các giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững tại Cát Bà
Công tác quy hoạch tổng thể
Để Cát Bà xứng tầm khu du lịch quốc gia và quốc tế, trước hết công tác quy hoạch phát triển du lịch phải đặt lên hàng đầu, trong đó quy hoạch tổng thể cũng như chi tiết cần có tầm nhìn xa, nhưng lại phải cụ thể, để có sự đầu tư thích đáng cho ra tấm, ra miếng, có sự phân kỳ vừa sức. Trong buổi làm việc với huyện Cát Hải cuối tháng 3 vừa qua, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn Thành chỉ đạo: “Cần triển khai nghiêm ngặt việc xét duyệt, thẩm định các dự án đầu tư vào Cát Bà, bảo đảm tuân thủ các tiêu chuẩn, tiêu chí, trong đó ưu tiên các dự án du lịch xanh, sạch, thân thiện với môi trường”. Việc xây dựng hệ thống nhà hàng, khách sạn quy mô lớn, hiện đại với chất lượng quốc tế, các điểm du lịch trên đảo và dưới biển phong phú như sân golf, khu du thuyền, lặn biển, khám phá khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà là cần thiết. Thành phố, huyện đảo tiếp tục huy động các nguồn lực đầu tư nâng cấp và xây mới các cơ sở, dịch vụ du lịch ở Cát Bà, đẩy nhanh dự án khu nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp Resort Cát Cò 2; dự án sân golf 9 lỗ ở Xuân Đám; dự án khu nghỉ dưỡng và suối khoáng nóng Xuân Đám; khu đô thị du lịch Cái Giá… Cát Bà phù hợp với nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như tắm biển, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao mạo hiểm, tham quan rừng biển, du lịch văn hoá... Huyện Cát Hải cũng đề nghị thành phố Hải Phòng và các sở ngành quan tâm bổ sung quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế, xã hội huyện Cát Hải, lập quy hoạch chi tiết các xã, thị trấn khu vực Cát Bà và quy hoạch phát triển một số ngành kinh tế, đặc biệt là là ngành du lịch; sớm công bố quy hoạch huyện Cát Hải, triển khai nhanh các dự án xây dựng 3 hồ chứa nước trên đảo, đầu tư hệ thống cấp nước từ suối Gôi( xã Xuân Đám) về thị trấn Cát Bà, tiếp tục thực hiện dự án mở rộng và nâng cấp hai tuyến đường xuyên đảo; đầu tư nâng cấp và nghiên cứu cơ chế quản lý, vận hành hai tuyến phà Đình Vũ-Ninh Tiếp, Bến Gót-Cái Viềng; đẩy mạnh tiến độ triển khai dự án đầu tư các trạm biến áp và đường dây tải điện 110KV Chợ Rộc-Cát Bà; điều chỉnh và cấp chứng chỉ quy hoạch xây dựng nhà máy xử lý rác thải thị trấn Cát Bà, dự án nạo vét vịnh Cát Bà, thành lập ban quản lý vịnh Lan Hạ; có phương án giải quyết để triển khai tuyến xe búyt, điều chính các điểm cho tàu du lịch lưu trú qua đêm trên vịnh Lan Hạ…
Đó là hướng đi để Cát Bến trở thành điểm đến hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước, xứng đáng là trọng điểm du lịch quốc gia và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của thành phố trong giai đoạn mới.
Công tác giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái
Giải pháp thiết yếu nhất và quan trọng nhất để phát triển du lịch sinh thái là giáo dục và tuyên truyền về du lịch sinh thái cho những đối tượng có liên quan đến du lịch sinh thái. Đối tượng giáo dục bao gồm: các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên, các nhà hoạch định chính sách liên quan đến bảo tồn và du lịch, các hướng dẫn viên, cộng đồng địa phương, khách du lịch trong và ngoài nước.
Giáo dục tuyên truyền đối với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và các nhà hoạch định chính sách liên squan đến bảo tồn và du lịch có thể làm cho họ quan tâm hơn đến việc quy hoạch du lịch sinh thái. Đối với ho cần phải nhấn mạnh đến tiêm lực kinh tế mà du lịch sinh thái có thể mang lại cho bảo tồn. Cũng phải lưu ý họ về tầm quan trọng của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn.
Đào tạo giáo dục hướng dẫn viên nên được tiến hành chính quy trong các trường đại học, cac đẳng, trung cấp dậy nghề. Nên ưu tiên đào tạo các hướng dẫn viên địa phương.
Khách du lịch là một đối tượng giáo dục hiển nhiên. Bản thân giáo dục tại hiện trường cho du khách cũng nằm trong định nghĩa của du lịch sinh thái. Hay nói cách khác giáo dục về thiên nhiên là một phần tạo nên du lịch sinh thái. Những nội dung giáo dục phải phù hợp, giúp du khách liên hệ trực tiếp những điều họ đã từng nghe, từng đọc với những điều mắt thấy tai nghe khi họ đến thăm khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu làm được việc này du khách sẽ ý thức hơn trong khi tiếp xúc với động vật hoang dã, và họ sẽ thấy chuyến đi của mình bổ ích hơn và sẽ mong muốn trở lại hoặc đến một khu thiên nhiên khác để học được những điều tương tự.
Đối với cộng đồng địa phương, chương trình giáo dục phải dựa trên nhiều hình thức.Nên sử dụng những hình thức dễ hiểu, dễ nhớ chẳng hạn như băng hình,tranh ảnh,các chương trình biểu văn nghệ... Giáo dục cộng đồng địa phương trước hết tập trung vào đối tượng chủ chốt là những nhà lãnh đạo địa phương (huyên, xã ), những người có uy tín trong cộng đồng chẳn hạn như những người lớn tuổi, những người có trình độ học vấn như thầy giáo, những người đứng đầu các tổ chức đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân … Nếu có thể tuyên truyền giáo dục cho các đối tượng này thì việc giáo dục cho toàn thể cộng đồng trở nên dễ dàng hơn rất nhiều bởi họ luôn được dân nghe theo. Nên lấy người địa phương làm nhà quản lý khu du lịch sinh thái nếu có thể .
Không chỉ giáo dục đối với cộng đồng địa phương nơi có khu bảo tồn thiên nhiên, mà nên có những chương trình giáo dục đối với cộng đồng người Việt Nam nói chung, vì họ là những du khách tương lai của các điểm du lịch sinh thái. Chương trình giáo dục phải khuyến khích họ và làm cho họ có mong muốn được đi du lịch theo hình thức du lịch sinh thái. Đối tượng chủ yếu của Việt Nam có lẽ là học sinh, sinh viên trong các nhà trường. Họ là những người thường xuyên tổ chức các chuyến đi thăm quan thiên nhiên, nhưng nhiều khi chưa ý thức hết được vai trò quan trọng của thiên nhiên. Hậu quả những chuyến đi dã ngoại của họ trong các khu thiên nhiên thường là những bãi rác sau khi họ ăn trưa và nhiều tác động tiêu cực khác. Tuy nhiên, thay đổi hành vi, thói quen của họ cũng không phải là việc dễ dàng làm trong ngày một ngày hai.
Đối với học sinh, sinh viên nên có những chương trình giáo dục du lịch sinh thái kết hợp với giáo trình của nhà trường. Vấn đề này sẽ liên quan đến Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nên có chương trình giáo dục ngay từ cấp một vì càng nhỏ các em càng dễ tiếp thu hơn đối với những gì được dạy. Đối với những đối tượng lớn hơn nên chỉ lưu ý họ, thuyết phục họ chứ không nên ra lệnh vì lớp trẻ thường thích làm trái lời để thể hiên sự trưởng thành của mình, mặc dù đó không phải là cách tốt nhất để làm vậy.
Không chỉ tuyên truyền, giáo dục đối với người dân trong nước, cần phải tuyên truyền du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên cho cả đối tượng khách nước ngoài. Nên khuyến khích họ sử dụng dịch vụ và mua sản phẩm quà lưu niệm địa phương, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái.
Trong nhiều năm qua,Cát Bà đã được xác định là điểm du lịch sinh thái quan trọng thu hút 500 nghìn lượt khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, với áp lực của hoạt động du lịch đã tác động không nhỏ đến môi trường tại Cát Bà. Cuối năm 2008, Ban quản lý Vườn quốc gia Cát Bà đã tiến hành khảo sát điều tra với 300 lượt khách trong và ngoài nước về những tác động đến môi trường tự nhiên. Theo đó, cho thấy nguyên nhân chính gây tác động đến môi trường là do hoạt động du lịch và do cộng đồng địa phương. Ngoài ra, còn do các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch và các thành phần kinh tế khác. Các nguồn gây tác động đến môi trường bao gồm nước thải, rác thải tuy chưa đến mức độ ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước và không khí, nhưng gây tác động không nhỏ đến động thực vật biển. Hệ thống thu gom rác thải tại các địa phương chưa toàn diện, các thùng rác đã co mặt tại các điểm công cộng nhưng còn hạn chế, hệ thống thu gom rác thải trên mặt nước còn chưa hiệu quả, khu vệ sinh công cộng còn thiếu, hệ thống thông tin chỉ dẫn về môi trường chưa hoàn thiện…Một nguyên nhân không kém phần quan trọng tác động đến môi trường tự nhiên ở Cát Bà là do hoạt động của hàng ngàn tàu đánh cá, tàu khách, tàu chở dầu.. đều xả thẳng nước và rác thải xuống biển làm môi trường biển bị ô nhiễm, làm chết các rạn san hô và các sinh vật biển. Như vậy, cần có những giải pháp để bảo vệ môi trường không làm ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên, cũng như gây được ấn tượng tốt trong lòng khách du lịch. Chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan cần tiến hành đồng bộ các biện pháp như:
Cần lắp đặt thêm các biển hướng dẫn nhắc nhở khách bỏ rác đúng nơi quy định, đặt thêm các thùng rác công cộng, có biện pháp xử lý nước thải, rác thải tốt hơn.
Tăng cường hệ thống thông tin về môi trường nhằm hướng dẫn thực hiện đúng quy định về bảo vệ môi trường, đồng thời cảnh báo cho khách biết về tình trạng môi trường và trách nhiệm của mỗi cá nhân; xây them các khu vệ sinh công cộng.
Chính quyền địa phương cần xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng địa phương để họ tự giác chấp hành quy chế bảo vệ môi trường, không xả rác thải bừa bãi; có chế tài cho các công trình xây dựng ven biển, hoạt động du lịch, dịch vụ, các khu vui chơi giải trí; trên biển buộc phải có hệ thống xử lý rác thải, đảm bảo nước thải không gây ô nhiễm theo quy định; có các biện pháp mạnh nhằm xử lý nhiêm khắc những người vi phạm về luật bảo vệ môi trường.
Ngoài việc bảo vệ môi trường thì việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái là rất quan trọng trong việc phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững.
Bảo vệ tài nguyên đất
Chiến lược sử dụng và bảo vệ môi trường tài nguyên đất Hải Phòng phải gắn với chiến lược phục hồi rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phục hồi rừng ngập mặn. Đến năm 2005 phải có chính sách bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất, tăng cường hỗ trợ việc khai thác bền vững tài nguyên đất.
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, chiến lược, chính sách, quy hoạch và sử dụng bền vững tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất. Áp dụng có hiệu quả công cụ quản lý để giải quyết hài hoà các vấn đề liên ngành trong sử dụng đất, khai thác tài nguyền khoáng sản với việc bảo vệ môi trường, với các lĩnh vực phát triển khác.
Phải sử dụng một cách có hiệu quả và hết sức tiết kiệm qũi đất cho phát triển công nghiệp. Phải quy hoạch thành các khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng, xử lý chất thải tập trung để tiết kiệm quỹ đất và hạn chế ô nhiễm đất. Khi di dời các cơ sở công nghiệp, cần đánh giá mức độ ô nhiễm đất để có kế hoạch xử lý ô nhiễm và tái sử dụng hợp lý.
Cần kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Khắc phục tình trạng lạm dụng các loại phân vô cơ và hoá chất trong sản xuất nông nghiệp làm bạc màu, thoái hoá đất, ô nhiễm các nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học các vùng nông thôn của Hải Phòng, đặc biệt các vùng đất có năng suất cao. Nghiên cứu thay đổi phương thức canh tác theo hướng đảm bảo cân bằng sinh thái và bền vững, nâng cao chất lượng đất, giảm diện tích đất thoái hoá, bạc màu. Áp dụng các biện pháp canh tác trên đất dốc một cách khoa học, chống rửa trôi, xói mòn.
Bảo vệ tài nguyên nước
Tiến hành kiểm kê, phân loại các dạng tài nguyên nước : nước ngọt, nước lợ, nước mặn, dưới đất để có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm, phù hợp với đặc điểm sinh thái, ngăn ngừa và phòng ô nhiễm, làm cho tài nguyên nước kiệt đi và mất khả năng tự phục hồi về lượng. Đối với Hải Phòng, cần có chính sách bảo tồn tài nguyên nước lợ, nước chứa đựng các tài nguyên sinh vật và dạng tài nguyên khác rất đa dạng và phong phú. Nghiên cứu sử dụng nước biển trong làm sạch công nghiệp.
Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm; có kế hoạch đầu tư phát triển tài nguyên nước và ban hành các quy định cụ thể về khai thác nguồn nước ngầm.
Tài nguyên nước khoáng, nước nóng cần tiếp tục được điều tra thăm dò, đánh giá trữ lượng để khai thác cho nhu cầu chữa bệnh, du lịch giải trí, kể cả nguồn năng lượng địa nhiệt. Bảo vệ tài nguyên nước các đầm, hồ ao, đất ngập nước cần nghiên cứu nuôi trồng các loại thuỷ sản như sen, súng, tôm cá, ba ba...
Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về tài nguyên nước theo hướng khai thác bền vững nguồn nước mặt và nước ngầm. Thực hiện việc quy hoạch và quản lý các lưu vực sông chính như: Sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Văn úc, đặc biệt là các sông cung cấp nguồn nước ngọt như sông Giá, sông Rế, sông Đa Độ.
Tiến hành thu phí sử dụng tài nguyên nước theo Luật Tài nguyên nước đã ban hành.
Bảo vệ rừng và đa dạng sinh học
Phục hồi và phát triển vốn rừng (rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phân tán, rừng ngập mặn..) và nâng diện tích che phủ thực vật.
Nội dung phát triển diện tích rừng gồm trồng mới 2658 ha rừng, trong đó: rừng phòng hộ môi sinh là: 1319 ha, rừng phòng hộ ven biển là 629 ha, rừng phòng hộ ven sông là 710 ha. Huy động các xã tăng cường trồng mới các loại rừng phân tán tại những nơi đất trống. Đặc biệt, chú trọng việc khôi phục diện tích các khu vực rừng phòng hộ chắn sóng, bảo vệ rừng Quốc gia Cát Bà, nâng cao chất lượng rừng nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, phát huy hiệu quả bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phát triển đa dạng sinh học.
Nghiêm cấm việc phá huỷ rừng ngập mặn, các hệ sinh thái nhạy cảm cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; phòng ngừa cháy rừng song song với việc phục hồi các hệ sinh thái và các khu rừng ngập mặn…
Đối với rừng trồng trên đồi núi thấp, rừng phân tán trên đồng bằng cần nghiên cứu các loại cây có giá trị kinh tế cao có thể xuất khẩu như long nhãn và vải thiều, kết hợp với nhu cầu tại chỗ. Mở rộng diện và đối tượng bảo tồn trong vườn quốc gia Cát Bà bao gồm các rạn san hô, các giống loài đặc hữu ven bờ biển, đảo...
Tăng tỷ lệ cây xanh trong đô thị và khu công nghiệp, đến năm 2010 đảm bảo tỷ lệ qui định đối với đô thị cấp1,cấp Quốc gia.
Thực hiện các chương trình xanh hoá khu vực nội thành, các khu vực thị xã, thị trấn và các khu công nghiệp. Các khu công nghiệp cần bố trí hệ thống công viên nối với nhau tạo ra không gian cây xanh có giá trị môi trường. Nâng diện tích công viên, khuôn viên cây xanh khu vực nội thành, trồng cây dọc tuyến đường giao thông quan trọng.
Nghiên cứu quy hoạch cây xanh và thảm thực vật nội thành theo hướng đô thị hiện đại và đảm bảo chất lượng môi trường sống cao.
Bảo vệ và phát triển Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà khi được công nhận. Mở rộng diện và đối tượng bảo tồn trong vườn quốc gia Cát Bà.
Coi nhiệm vụ bảo tồn thiên nhiên có tầm quan trọng như nhiệm vụ phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Bảo tồn thiên nhiên góp phần cân bằng sinh thái, tạo sự ổn định tự nhiên. Bảo tồn các hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái ven biển hạn chế thiên tai, lũ lụt, giữ được sự ổn định mực nước mặt và nước ngầm. Tiến hành khoanh vùng bảo tồn các hệ sinh thái đặc thù, có tính đa dạng sinh học cao, theo quy chế đặc biệt nhằm tăng số lượng vùng và diện tích bảo tồn trên phạm vi toàn thành phố. Quy hoạch khu bảo tồn phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Vườn Quốc gia Cát Bà đã, đang và sẽ là Khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam và Thế giới. Thành lập cơ quan quản lý và điều hành và tăng cường kiểm soát mọi hoạt động phát triển đảm bảo giữ đúng tính chất của các vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, đảm bảo phát triển bền vững đi đối với bảo tồn Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà
Bảo vệ đa dạng sinh học, đặc biệt sinh học biển (quanh khu vực Cát Bà, Bạch Long Vỹ), bao gồm các rạn san hô, các giống loài đặc hữu ven bờ biển, đảo, đất ngập nước, rừng ngập mặn...
Phân vùng chức năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển Cát Bà-Đồ Sơn, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển. Trước mắt, cần khoanh định, bảo vệ các khu rừng ngập mặn có giá trị sinh thái cao dọc theo dải bờ biển, áp dụng các phương thức khai thác, nuôi trồng thuỷ hải sản theo hướng an toàn sinh thái. Chú trọng đánh giá tác động môi trường đối với mọi hoạt động có khả năng gây suy thái tài nguyên, suy giảm nguồn lợi hải sản, tổn thất đa dạng sinh học qua việc phá huỷ nơi cư trú, rạn san hô, ô nhiễm chất thải từ đô thị, khu công nghiệp, các hoạt động giao thông vận tải biển, du lịch. Đặc biệt, Hải Phòng còn chịu ảnh hưởng của ô nhiễm xuyên biên giới do dòng hải lưu từ phía Bắc xuống và phía Nam lên.
Kiểm soát, ngăn chặn triệt để việc buôn bán các động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao như voọc đầu trắng, san hô. Loại bỏ các phương thức khai thác huỷ diệt, đặc biệt là trong khai thác thuỷ sản; đẩy mạnh các biện pháp bảo tồn nội vi kết hợp với biện pháp bảo vệ ngoại vi.
Kiên quyết bằng nhiều biện pháp về luật pháp, hành chính, khuyến khích kinh tế, chấm dứt khai thác đi đến cạn kiệt nguồn, huỷ diệt môi trường sinh thái, phá huỷ các nơi cư trú của các giống loài thực vật biển. Mọi dự án khai hoang lấn biển, phát triển trên bờ biển, khai thác tài nguyên biển đều phải đánh giá tác động môi trường và có biện pháp bảo vệ hữu hiệu môi trường biển.
Đất ngập nước các huyện Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên là một hợp phần đặc biệt quan trọng của môi trường Thành phố. Bảo vệ các nguồn đất ngập nước là nhằm sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa dạng sinh học trong vùng, đồng thời duy trì các chức năng sinh thái, kinh tế, xã hội của những vùng đất này.
Quy hoạch lại vùng nuôi trồng hải sản ven bờ biển, bảo vệ phát triển rừng ngập mặn, bảo vệ các đầm phá, bãi triều, các rạn san hô, các nguồn tài nguyên biển là những nhiệm vụ phức tạp nặng nề nhưng lại rất bức xúc ở vùng nông thôn ven biển. Một sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền và cộng đồng làng bản, tư nhân có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành bại của chiến lược đối với vùng ven bờ biển và biển.
Kiểm soát chặt chẽ sự xâm lấn sinh học từ cửa khẩu cảng biển do các tàu biển từ nước ngoài đưa đến.
Tăng cường nghiên cứu khoa học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, trong xử lý chất thải.
Theo tinh thần Nghị quyết 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 của Trung ương Đảng về định hướng phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Chỉ thị 36/CT-TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ của khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường phải tập trung vào các nhiệm vụ như: nghiên cứu cơ bản hiện trạng môi trường và tài nguyên của Thành phố nhằm thống kê và dự báo môi trường, xây dựng hệ thống quan trắc về diễn biến chất lượng môi trường không khí, nước, đất, dự báo những khả năng xảy ra tai biến môi trường; nghiên cứu điều kiện môi trường và tự nhiên vùng Hải Phòng làm luận cứ hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội theo hướng bền vững; nghiên cứu các giải pháp chiến lược, chính sách về bảo vệ môi trường; qui hoạch môi trường; nghiên cứu luận cứ tổ chức dân cư và giao thông đô thị; nghiên cứu quản lý tổng hợp môi trường dải ven biển; nghiên cứu các giải pháp bảo vệ môi trường nông thôn, giải pháp bảo vệ các hệ sinh thái đặc thù Cát Bà, chống xâm nhập mặn các sông; nghiên cứu áp dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch hơn.
Nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp môi trường, ứng dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường. Sử dụng các giải pháp khoa học, công nghệ nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng chống giảm nhẹ tác hại thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ sinh học trong nông nghiệp và xử lý chất thải và điều tra tài nguyên, môi trường, dự báo khí tượng thuỷ văn, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường, xây dựng chiến lược phát triển và bố trí hợp lý không gian lãnh thổ và dân cư, bảo vệ đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái.
Phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là những hấp dẫn thứ cấp bổ sung cho các hấp dẫn chính là tài nguyên thiên nhiên của các khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu không có các hấp dẫn thứ cấp này sẽ mất đi một số lượng không nhỏ những du khách cần đến chúng như một điều kiện cho chuyến đi của mình. Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở cũng như các phương tiện phuc vụ nên sử dụng công nghệ hợp môi trường và mang tính tự nhiên. Các phương tiện phục vụ nên được xây dựng từ các nguyên liệu và sử dụng các kiến trúc địa phương, nhưng không được làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của địa phương. Sử dụng các phương tiện phục vụ mang tính địa phương, người dân sẽ không cảm thấy nền văn hoá của họ bị ảnh hưởng, mặt khác họ còn có cảm giác như mình là người chủ thực sự của điểm du lịch sinh thái. Điều này rất có ý nghĩa đối với việc tranh thủ sự ủng hộ đối với các hoạt động và dịch vụ du lịch .
Các ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm :
Thiết kế và xây dựng nơi ăn nghỉ cho khách theo kiểu nhà nghỉ sinh thái.
Xây dựng các tuyến đường nội bộ, đường mòn thiên nhiên với hệ thống chỉ dẫn, chỉ báo đầy đủ cả về số lượng và nội dung .
Xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường . Hiện tại Cát Bà đã và đang xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường nhưng nội dung trưng bày còn nghèo nàn.
Hiện trạng cơ sở hạ tầng ở đảo Cát Bà:
Ngoài hệ thống cấp nước sạch hiện trạng ở đảo, Sở du lịch Hải phòng đang triển khai thực hiện đầu tư dự án nhà máy nước sạch có công suất 7.000m3 ngày/đêm để cung cấp cho thị trấn Cát Bà.
Hệ thống cung cấp điện, ngoài đường dây 35Kv hiện có, Công ty Điện lực Hải phòng đang xúc tiến việc đầu tư nâng cấp đảm bảo đáp ứng đủ điện cho công cuộc phát triển kinh tế Huyện đảo.
Hệ thống thông tin liên lạc trên đảo đã được đầu tư từ nhiều năm trước đến nay đang phát huy hiệu quả.
Mạng lưới đường giao thông trên đảo đã và đang được nâng cấp và hoàn thiện, đảm bảo việc đi lại trên toàn đảo bằng xe ô tô ngày càng thuận tiện.
Tuyến tàu đi từ Tuần Châu-Hạ long-Quảng Ninh sang bến Gia Luận (Cách trung tâm huyện đảo 20km) đã được hoàn thành và sẽ đưa vào vận hành trong thời gian tới. Theo kế hoạch tuyến tàu này sẽ có thể vận chuyển được các xe ô tô 4 đến 9 chỗ ngồi của khách du lịch sang đảo Cát Bà.
Tuyến đường cao tốc song song với Quốc lộ 5 hiện nay đang được thực hiện, việc giao thông từ Hà Nội đến Hải Phòng sẽ rút ngắn được rất nhiều, từ Hà nội đến Cát Bà sẽ được đi chỉ khoảng không đến 3 giờ đồng hồ.
Theo thống kê của các khách sạn nhà nghỉ trên đảo cùng các thông tin từ các dịch vụ cho thuyền đi du lịch vịnh cho biết, trong hè năm 2005 này, số lượt khách du lịch đến đảo tăng gấp đôi so với năm trước.
Chính phủ đang rất ưu tiên xúc tiến thực hiện các dự án do Trung ương đầu tư trực tiếp vào Hải Phòng.Cụ thể là những dự án: Dự án đường ôtô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (đường 5B), dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Đình Vũ – Cát Hải; cảng Đình Vũ tiếp tục hoàn thành giai đoạn II; cải tạo nâng cấp các bến tàu khách Cát Bà, Gia Luận, Bến Bèo, cảng Hàng không Quốc tế Cát Bi, xây dựng sân bay taxi ở Đồ Sơn, Cát Bà, Bạch Long Vĩ phục vụ du lịch và cứu hộ.
Tiềm năng du lịch của đảo càng ngày càng được phát huy, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội càng ngày càng được hoàn thiện, hệ thống hạ tầng du lịch, đảm bảo môi trường ngày càng được hoàn chỉnh nhắm tới mục tiêu xây dựng Đảo Cát Bà thành trung tâm du lịch không chỉ trong phạm vi quốc gia mà là khu du lịch tầm cỡ Quốc tế...
Đẩy mạnh xúc tiến, quảng cáo du lịch.
Cùng với việc xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng cần chuẩn bị để thực hiện những chương trình xúc tiến du lịch cụ thể như sau:
Cát Bà là điểm du lịch mới vì vậy việc xúc tiến của các doanh nghiệp lữ hành là rất quan trọng.Họ là những ngưới có thể nâng ngay sức mua của khách du lịch và có thể mang lại lượng lớn khách du lịch.
Xây dựng logo, khẩu hiệu và hình ảnh đặc trưng cho du lịch Cát Bà thông qua tổ chức cuộc thi sáng tác biểu trưng, khẩu hiệu, ảnh đẹp để tìm ra hình ảnh ấn tượng khái quát nhất.
Khi hoàn thành xây dựng các sản phẩm đặc trưng, tổ chức giới thiệu sản phẩm mới thông qua viếc tổ chức mời các phóng viên quốc tế, các doanh nghiệp lữ hành lớn trên thế giới đến tiếp cận thực tế.
Tạo ra các sự kiến quốc tế lớn tại Cát Bà
Xây dựng một website đủ lớn để quảng bá Cát Bà
Họp báo giới thiệu sản phẩm mới với các công ty lữ hành và các phương tiện thông tin đại chúng trong nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Biên tập sản xuất các loại ấn phẩm giới thiệu về Cát Bà bằng nhiều hình ảnh( tờ rơi, bản đồ, đĩa CD, bưu ảnh, quà lưu niệm mang hình ảnh Cát Bà).
Quảng cáo giới thiệu hình ảnh Cát Bà trên các tạp chí du lịch và các hãng hàng không có uy tín ở Châu Á như Destinasean, Tourism Aisa…
Tham gia các hội trợ du lịch quốc tế trong khu vực và Châu Âu.
Huy động vốn đầu tư và chính sách đầu tư
Uỷ ban nhân dân huyện Cát Bà cần có chính sách đầu tư thích đáng vào du lịch sinh thái và có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước vào việc phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà. Tuy nhiên du lịch sinh thái không cần đầu tư nhiều trên phương diện tiền vốn, vì trang thiết bị cơ sở hạ tầng của du lịch sinh thái rất đơn giản, phù hợp với tự nhiên. Nhưng việc thiết kế cho du lịch sinh thái cần đầu tư nhiều về thời gian, nỗ lực của nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Phát triển du lịch sinh thái không nên thu hút đầu tư nước ngoài. Vì các lý do:
Các công ty nước ngoài lấy đi một phần doanh thu
Đầu tư nước ngoài vào du lịch sinh thái lợi tức sẽ quay lại nước đầu tư.
Những áp lực lạm phát tại địa phương có liên quan đến nước đầu tư nước ngoài
Mất chủ quyền do người nước ngoài chiếm giữ
Thiếu sự tham gia của người địa phương vào các hoạt động của du lịch sinh thái
Các kiến nghị
Kiến nghị với Tổng cục Du lịch
Trước hết, là phải phân định rõ đâu là điểm du lịch sinh thái, khu sinh thái cấp quốc gia và cấp địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở chiến lược phát triển du lịch sinh thái Việt Nam đề nghị với Nhà nước có chính sách ưu tiên cho loại hình du lịch sinh thái.
Thứ ba, ban hành các tiêu chuẩn và quy tắc của điểm du lịch sinh thái và khu du lịch sinh thái, xây dựng nội dung giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho chiến lược phát triển du lịch sinh thái của Quốc gia.
Thứ tư, xúc tiến cần tăng cường và tập trung nhiều hơn vào sản phẩm du lịch sinh thái của Việt Nam.
Kiến nghị với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật để phân định rõ vai trò, chức năng và quyền hạn để các Ban quản lý và các khu bảo tồn theo đó ban hành rất khoát những khu vực không có chức năng kinh doanh.
Uỷ ban nhân dân Huyện Cát Bà
Điều chỉnh quy hoạch tổng thể và định hướng đến năm 2020 cho phù hợp với luật du lịch và quy hoạch tổng thể phát triẻn du lịch Việt Nam. Rà soát lại quy hoạch cụ thể các khu du lịch và các điểm du lịch tại Cát Bà theo như Luật du lịch :
Thứ nhất, phân định rõ tên gọi của từng loại là điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch cấp quốc gia hay cấp địa phương.
Thứ hai, cho phép thành lập hội du lịch sinh thái.
Thứ ba, một mặt các dự án đầu tư vào điểm và khu du lịch sinh thái không nên khuyến khích đầu tư nước ngoài. Mặt khác các dự án sẽ phê duyệt phải tuân theo nguyên tắc của phát triển bền vững và các yêu cầu của du lịch sinh thái và các nguyên tắc bảo tồn.
Thứ tư, các dự án sẽ phê duyệt ngay từ bây giờ phải có sự điều chỉnh, yêu cầu khắt khe việc tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường.
Thứ năm, phát động phong trào thi đua xanh sạch đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức cuộc thi tìm hiểu về du lịch sinh thái cho cư dân địa phương.
Thứ sáu, tích cực tìm kiếm các nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ và cá nhân vào phát triển du lịch sinh thái.
Thứ bảy, thực hiện thống kê khách môt cách chi tiết hơn theo đầy đủ các tiêu chí: mục đích ,độ tuổi, giới tính, quốc tịch, nghề nghiệp…
Với các nhà đầu tư
Thứ nhất,lựa chọn các dự án đầu tư cho tương thích với loại hình du lịch sinh thái. Với loại hình du lịch này thì việc tạo ra sản phẩm và dịch vụ phải sử ụng tối đa các yếu tố địa phương: lao động địa phương, nguyên nhiên vật liệu của địa phương để tạo ra các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí…
Thứ hai, các nhà kinh doanh sản phẩm du lịch sinh thái nhất thiết phải mang lại lợi ích trực tiếp cho cộng đồng dân cư.
Thứ ba, bảo đảm chất lượng các dịch vụ hang hoá.
Thứ tư, phải có sự phối hợp chặt chẽ trên cơ sở phân chia lợi ích để tạo động lực cho các nhà kinh doanh lữu hành thu hút khách du lịch.
Thứ năm, phải có trách nhiệm và nhận rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng , bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Với cư dân địa phương
Thứ nhất, nêu cao tinh thần truyền thống mến khách của dân tộc, tôn trọng khách du lịch không chèo kéo khách…
Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hoá và phong tục tập quán của địa phương
Thứ ba, tôn trọng và làm theo pháp luật
KẾT LUẬN
Vai trò của du lịch sinh thái được xem như một mắt xích với cơ cấu phát triển du lịch bền vững, vừa phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội theo xu hướng chung của thế giới, vừa đảm bảo mục tiêu bảo tồn các hệ sinh thái. Đầu tư vào du lịch sinh thái chính là kích thích kinh tế phát triển, đem lại nguồn ngoại tệ , giải quyết công ăn việc làm cho cư dân địa phương đồng thời phát triển du lịch sinh thái góp phần vào việc bảo tồn thiên nhiên, môi trường sinh thái, bảo tồn di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh…Nhưng để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi hoạt động du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch phải được thiết kế, tổ chức phù hợp với điều kiện cho phép, đảm bảo môi trường, không tổn hại đến tài nguyên thiên nhiên.
Cát Bà được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan đẹp, tài nguyên rừng, biển phong phú…Cát Bà hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, môi trường sinh thái biển trong lành, tài nguyên du lịch đa dạng, đã tạo cho Cát Bà có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái. Nhưng hiện nay, các nhà điều hành và các công ty du lịch chỉ coi Cát Bà là một điểm trung chuyển. Vì vậy, để phát triển du lịch sinh thái Cát Bà theo hướng bền vững, các ngành các cấp có liên quan cần thực hiện tổng thể các biện pháp. Trước hết công tác quy hoạch tổng thể cần được chính quyền địa phương quan tâm hàng đầu. Chính quyền địa phương nên ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng phục vụ du lịch. Các công ty lữ hành nên tiến hành xây dựng các sản phẩm du lịch mới đặc trưng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ khách sạn có chất lượng cao. Một công tác cần được tiến hành là tuyên truyền cho người dân địa phương về các lợi ích của việc phát triển bền vững, từ đó nâng câo ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và phong tục tập quán của địa phương, bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên. Hy vọng trong tương lai không xa, Cát bà sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái độc đáo, bền vững, thu hút nhiều khách du lịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Đình Hòa – “Du lịch cộng đồng và xóa đói giảm nghèo”. Tạp chí kinh tế phát triển số 136 – 2008
Phạm Trung Lương “ Du lịch sinh thái” NXB GD 2002
Nguyễn Văn Mạnh “ Phát triển sản phẩm du lịch sinh thái tại Ninh Bình”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
Cẩm nang Marketing và xúc tiến du lịch bền vững ở Việt Nam. Nghiên cứu điển hình du lịch đảo Cát Bà
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Hà Nội, ngày….tháng 05 năm 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
.........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Hà Nội, ngày….tháng 05 năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng phát triển du lịch bền vững.doc