LỜI MỞ ĐẦU
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, tạo ra nhiều thời cơ và thách thức. Trong điều kiện đó, nhiều trung gian tài chính đã xuất hiện, trong đó có Công ty Tài chính. Chúng có tính chuyên môn hoá cao trong một số loại hình dịch vụ nhất định mà bản thân hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống không đáp ứng được.
Về cơ bản, hoạt động của các Công ty Tài chính giống các ngân hàng thương mại, chúng chỉ khác nhau về hướng chuyên môn hoá trong hoạt động. Trong khi các ngân hàng thương mại truyền thống hoạt động chủ yếu và mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng là hoạt động tín dụng, thì hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận cho các Công ty Tài chính lại là hoạt động đầu tư tài chính.
Tại Việt Nam thì mô hình Công ty Tài chính mới chỉ xuất hiện trong những năm gần đây và là mô hình Công ty Tài chính trực thuộc các Tổng công ty Nhà nước. Công ty Tài chính Bưu Điện, là một trong năm Công ty Tài chính trên cả nước, trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trong tương lai sẽ trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Hoạt động của Công ty khá đa dạng song hoạt động chủ yếu của một Công ty Tài chính là hoạt động đầu tư tài chính lại chưa phát triển đúng mức tại Công ty Tài chính Bưu Điện. Trước những cơ hội của thời kỳ đổi mới, cùng với những yêu cầu đặt ra của việc chuyển đổi Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam sang mô hình Tập đoàn kinh doanh thì việc tìm kiếm giải pháp để phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đồng thời được sự hướng dẫn của thầy giáo – TS. Đặng Ngọc Đức và sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Công ty Tài chính Bưu Điện, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề thực tập gồm ba chương:
- Chương I: Công ty Tài chính và hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính.
- Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện.
- Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện.
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p nhận hy sinh cái lợi trong ngắn hạn để kỳ vọng vào sự phát triển hơn trong tương lai. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác sẽ được trình bầy cụ thể hơn trong phần đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty.
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN:
2.3.1 Những thành công và thuận lợi:
2.3.1.1 Những thành công:
Các hoạt động đầu tư cũng như danh mục đầu tư của PTF ngày càng đa dạng, tận dụng được những tiềm năng và lợi thế của mình để có được sự phát triển đáng khích lệ trong những năm qua. Danh mục đầu tư tài chính được đa dạng hoá, giảm thiểu rủi ro cho Công ty. Nên PTF đã dần tạo được sự tin tưởng của VNPT trong việc phân tích các cơ hội đầu tư, giúp cho VNPT đầu tư có hiệu quả vào một số dự án, góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các doanh nghiệp ngoài ngành và việc lập các dự án đầu tư ra nước ngoài. Đây là một trong những điều kiện tiền đề để PTF có thể thực hiện chức năng đầu tư tài chính của mình trong VNPT, đặc biệt khi VNPT chuyển đổi hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh.
Để đạt được kết quả trên chính là nhờ sự cố gắng nỗ lực của chính PTF. Ngay từ khi Công ty mới thành lập, lãnh đạo Công ty đã rất chú trọng phát triển hoạt động đầu tư tài chính như đào tạo những cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực đầu tư chứng khoán, đầu tư theo dự án, tìm kiếm các cơ hội đầu tư và thực hiện phân tích đầu tư, thực hiện kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Quan điểm của PTF trong hoạt động đầu tư là có thực hiện đầu tư tốt cho chính bản thân Công ty thì mới có thể thực hiện được đầu tư tốt cho VNPT, nó thể hiện tính trách nhiệm, cũng như một cam kết về uy tín và hiệu quả của Công ty.
Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam có những biến động thất thường, trong một thời gian dài chỉ số VN-Index liên tục giảm nhưng PTF vẫn thực hiện kinh doanh chứng khoán, và kết quả là hoạt động này đã không những bảo đảm an toàn vốn mà còn thu được lợi nhuận. Mặt khác, do bị giới hạn về quy mô và phạm vi đầu tư, chỉ được đầu tư trong ngành, các cơ hội đầu tư góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty thành lập mới trong ngành rất ít nhưng PTF đã luôn bám sát và không bỏ qua bất cứ cơ hội đầu tư nào. Và kết quả đáng mừng là trong thời gian gần đây, PTF đã tham gia đấu giá mua cổ phần của nhiều công ty trong ngành và đã trúng thầu với số lượng lớn nhưng vẫn đảm bảo giá trúng thầu mang lại hiệu quả đầu tư cao cho PTF. Bị hạn chế về phạm vi đầu tư nhưng PTF vẫn luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tư ra bên ngoài để nếu không trực tiếp đầu tư được (do không được VNPT chấp thuận hoặc trong thời gian chờ đợi sự chấp thuận của VNPT thì cơ hội đầu tư đã qua đi ) thì PTF sẽ triển khai hình thức nhận uỷ thác đầu tư, tư vấn cho các chủ đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư cho dự án.
2.3.1.2 Thuận lợi:
Nền kinh tế nước ta trong những năm vừa qua có sự tăng trưởng ổn định, đặc biệt là thị trường tài chính tiền tệ. Hệ thống các kênh huy động và luân chuyển vốn ngày càng hoàn thiện hơn. Thị trường chứng khoán hoạt động sôi nổi, với hai trung tâm giao dịch ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp thêm nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư.
Môi trường pháp lý của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện, các chính sách kinh tế của Nhà nước đang được sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn, khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư để phát triển đất nước. Đối với Công ty Tài chính thì đó là việc Chính phủ đã ban hành Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính, tạo ra hành lang pháp lý cho những hoạt động của Công ty có điều kiện phát triển, đặc biêt là hoạt động đầu tư tài chính.
Là một công ty thành viên trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam tương lai trong năm 2006 sẽ trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, PTF có nhiều lợi thế về nguồn vốn và những quan hệ đối tác trong đầu tư. Hơn nữa, Bưu chính Viễn thông còn là ngành có tốc độ phát triển mạnh nhất trong những năm qua nên nhu cầu về đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển mạng lưới là rất lớn, mang lại tiềm năng lớn cho hoạt động đầu tư của PTF.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
2.3.2.1 Những hạn chế:
PTF chưa thực sự thực hiện được chức năng là công cụ đầu tư tài chính cho VNPT. PTF chưa giúp cho VNPT mở rộng lĩnh vực hoạt động, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, giảm thiểu rủi ro và tìm kiếm những nguồn thu mới từ những ngành nghề có khả năng sinh lời cao. Hiện nay, PTF mới chỉ dừng ở đầu tư tài chính cho chính bản thân Công ty. Mặc dù đã được quan tâm chú trọng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhưng tỷ trọng đầu tư tài chính của Công ty còn thấp cả về lượng vốn đầu tư và doanh thu nếu so sánh với doanh số và doanh thu của hoạt động tín dụng, nó chưa phản ánh đúng tiềm năng của PTF trong hoạt động này.
Phạm vi đầu tư của PTF bị hạn chế trong các đơn vị thành viên của VNPT, việc đầu tư ra bên ngoài phải được sự chấp thuận của hội đồng quản trị VNPT. Việc này hạn chế cơ hội đầu tư thu lời của PTF, đồng thời những khó khăn về sử dụng vốn đầu tư lại tác động ngược lại làm giảm nhu cầu huy động vốn của Công ty nên cho đến nay các hoạt động phát hành giấy tờ có giá vẫn chưa được thực hiện tại PTF.
Hoạt động nhận uỷ thác đầu tư tài chính từ VNPT và các đơn vị thành viên được coi là hoạt động đầy tiềm năng đối với PTF nhưng đến nay vẫn chưa được thực hiện.
PTF chưa thể hiện được vai trò là tổ chức tài chính trung gian giúp VNPT khai thác triệt để sức mạnh trên thị trường tài chính tiền tệ thông qua việc quản lý tập trung thống nhất các nguồn tài chính, điều hoà tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, đảm bảo điều hoà vốn linh hoạt, phát huy tối đa năng lực nội sinh thông qua việc kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.
2.3.2.2 Nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ quan từ Công ty Tài chính Bưu Điện
Mặc dù, đầu tư tài chính là hoạt động trọng tâm được ban lãnh đạo PTF quan tâm phát triển ngay từ khi thành lập, nhưng do thời gian đi vào hoạt động chưa lâu nên đội ngũ cán bộ nhân viên của PTF tuy có trình độ chuyên môn nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, do vậy trong hoạt động đầu tư tài chính đôi khi còn chưa đáp ứng được yêu cầu về tiến độ và hiệu quả. Về hoạt động thẩm tra quyết toán các dự án đầu tư của VNPT thì PTF chưa đào tạo đủ nhân sự do vậy không đáp ứng được kịp thời yêu cầu đặt ra của VNPT.
Công tác tiếp xúc, tiếp thị với các khách hàng là các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, các công ty liên doanh, các công ty cổ phần có vốn góp của VNPT để tìm hiểu nhu cầu đầu tư và giới thiệu các dịch vụ đầu tư tài chính mà PTF cung cấp còn chưa được Công ty thực hiện một cách thường xuyên và đạt hiệu quả.
Do Điều lệ của Công ty được ban hành từ khi mới thành lập, hiện nay đã tỏ ra có nhiều điểm không còn phù hợp. Trong năm 2005, Công ty đã sửa đổi và đang chờ sự phê duyệt của Tổng công ty. Trong thời gian này thì thị trường hoạt động chủ yếu của PTF vẫn tập trung trong VNPT và các đơn vị thành viên, chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc mở rộng phát triển hoạt động đầu tư tài chính ra bên ngoài để chuẩn bị tiền đề vững chắc khi VNPT trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, kinh doanh đa ngành nghề và đa sở hữu trong năm 2006 tới đây.
Là một Công ty còn non trẻ nên mô hình tổ chức của PTF trong những năm vừa qua không ổn định, thường xuyên thay đổi cho phù hợp với thực trạng kinh doanh, do vậy nhân sự cũng liên tục bị thay đổi theo, ảnh hưởng tới tâm lý của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
*Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân từ VNPT:
Mức vốn điều lệ VNPT cấp cho PTF là quá nhỏ so với đặc thù hoạt động của một tổ chức tín dụng, hạn chế hạn mức đầu tư tài chính của PTF. Mặt khác, trong khi hầu hết các Công ty Tài chính khác đã nhiều lần được Tổng Công ty trực thuộc tăng vốn điều lệ, như Công ty Tài chính Dầu Khí, Công ty Tài chính Cao Su, Công ty Tài chính Tàu thuỷ thì mức vốn mà VNPT cấp cho PTF vẫn không thay đổi từ khi thành lập cho tới nay.
VNPT chưa thực sự tin tưởng vào năng lực hoạt động của PTF nên vẫn chưa coi PTF là đầu mối đầu tư tài chính cho VNPT. Trong các dự án của Tổng công ty PTF đều không được tham gia hoặc tham gia chỉ với vai trò hỗ trợ. Các hoạt động đầu tư tài chính của VNPT hiện nay vẫn được tiến hành trực tiếp thông qua các Ban chức năng của VNPT như Ban Kế toán Thống kê Tài chính, Ban Hợp tác Quốc tế, Ban Khoa học Công nghệ Công nghiệp, hoặc do các đơn vị thành viên của VNPT đảm nhiệm.
VNPT vẫn chưa có chính sách uỷ thác vốn cho PTF đầu tư tài chính hoặc cơ chế khuyến khích PTF đầu tư tài chính vào các đơn vị thành viên của VNPT được cổ phần hoá và các Công ty cổ phần mới thành lập mà VNPT là cổ đông sáng lập.
VNPT hiện nay vẫn chưa có chính sách quản lý, điều hành tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi tại VNPT và các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Các đơn vị có nguồn vồn tạm thời nhàn rỗi như các khoản doanh thu phải nộp điều tiết về VNPT nhưng chưa nộp, các quỹ tạm thời chưa sử dụng...thường gửi vào các tài khoản mở tại các tổ chức tín dụng để hưởng lãi suất thấp hoặc không có lãi suất, trong khi các đơn vị thành viên đang thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh lại phải đi vay các NHTM với lãi suất cao, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi trong VNPT thấp. Tuy nhiên, VNPT vẫn chưa có cơ chế giao cho PTF thực hiện việc điều hoà vốn trong nội bộ VNPT, hoặc uỷ thác cho PTF đầu tư tài chính nhằm sử dụng hiệu quả vốn nhàn rỗi.
VNPT vẫn còn can thiệp quá sâu vào điều hành hoạt động của PTF thể hiện qua việc VNPT quyết định cho phép hay không việc đầu tư tài chính ra ngoài ngành của PTF. Công ty Tài chính Bưu Điện là một thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, hoạt động được sự chỉ đạo trực tiếp và giám sát của Ban Giám đốc Tổng công ty. Hoạt động đầu tư của PTF phải nằm trong chiến lược phát triển chung do VNPT quyết định. Hoạt động đầu tư của PTF phải ưu tiên cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong VNPT, trong ngành trước rồi mới đến các doanh nghiệp khác. Chính điều này đã bó buộc hoạt động đầu tư tài chính của PTF.
Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh:
Việt Nam được xếp vào các nước đang phát triể̉n. Tuy đạt tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định nhưng do xuất phát điểm thấp, từ một nền nông nghiệp lạc hậu đi lên, và ngay đến tận bây giờ vẫn phụ thuộc quá nhiều vào cây lúa nước nên tiềm lực kinh tế - tài chính quốc gia vẫn còn quá nghèo nàn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các yếu tố của thị trường đang từng bước hình thành. Các công cụ của thị trường tài chính còn chưa đầy đủ và hoàn thiện. Đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp phát triển thị trường tài chính là sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam vào năm 2000, đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, giúp cho môi trường đầu tư được cải thiện. Thị trường chứng khoán ra đời là phù hợp với chính sách phát huy nội lực để phát triển. Đồng thời, thị trường chứng khoán ra đời cũng là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp thay đổi phương thức hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao hơn, cung cấp các cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, thực tế hoạt động trên thị̣ trường chứng khoán trong thời gian qua còn rất hạn chế với lượng hàng hoá nghèo nàn, giá trị giao dịch thấp bởi các công ty Việt Nam vẫn chưa thay đổi tư duy theo kinh tế thị trường, nhiều công ty đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán lại không dám niêm yết do những lo ngại về thông tin và về quyền sở hữu… những công ty đã niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán thì lại không trung thực trong việc công bố thông tin làm giá chứng khoán không phản ánh đúng giá trị. Các nhà đầu tư trên thị trường thực hiện mua bán chứng khoán theo phong trào, mang tính “tâm lý bầy đàn”. Do vậy, việc tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán tập trung của PTF còn nhiều hạn hẹp, do rủi ro kinh doanh trên thị trường này là quá cao so với lợi nhuận có thể đạt được. PTF là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng đồng thời cũng là một doanh nghiệp Nhà nước, nên việc đầu tư kinh doanh trên thị trường chứng khoán cần phải đảm bảo an toàn, không mạo hiểm.
Ngoài ra, môi trường cạnh tranh hiện nay trên thị trường tài chính tiền tệ là rất gay gắt, gây ra những khó khăn nhất định cho một công ty còn non trẻ như PTF. Bên cạnh những tổ chức tài chính được thành lập trước, đặc biệt là những công ty tài chính nước ngoài thì kinh nghiệm hoạt động đầu tư tài chính của PTF là thiếu, quy mô vốn hoạt động còn quá nhỏ bé.
Nguyên nhân từ môi trường pháp lý:
Theo Quyết định số 492/2000/ QĐ-NHNN5 ngày 28/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng thì PTF được đầu tư góp vốn, mua cổ phần tối đa không vượt quá 40% vốn điều lệ và mức góp vốn vào một doanh nghiệp không quá 20% vốn điều lệ. Quy định này không phù hợp với một Công ty Tài chính bởi Công ty Tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng với hoạt động kinh doanh chủ yếu là tín dụng, đầu tư tài chính và cung cấp dịch vụ tư vấn. Trong đó hoạt động mang lại lợi nhuận nhiều nhất là tín dụng và đầu tư tài chính. Trong khi hoạt động tín dụng bị hạn chế không được nhận tiền gửi ngắn hạn và làm dịch vụ thanh toán thì những quy định trên đối với hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính là một sự kìm hãm sự phát triển của Công ty Tài chính. Càng bất cập hơn khi chức năng chủ yếu của PTF trong VNPT đầu tư tài chính. Do vậy, VNPT không thể giao vốn cho PTF để thực hiện đầu tư tài chính cho VNPT, đặc biệt là khi VNPT chuyển đổi hoạt động theo mô hình Tập đoàn thì quy định này lại càng không phù hợp.
Theo Điều lệ tổ chức và hoạt động thì PTF chỉ được góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các đơn vị thành viên trong VNPT, khi đầu tư ra bên ngoài phải được sự chấp thuận của Hội đồng quản trị VNPT. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính thì các Công ty Tài chính được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác, nhưng quan điểm của VNPT hiện nay vẫn là hạn chế việc PTF đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các đơn vị ngoài VNPT. Mặt khác, các doanh nghiệp cổ phần hoá trong VNPT có số lượng cổ phiếu phát hành cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp không nhiều trong khi nhu cầu đầu tư thì lớn gấp nhiều lần. Do vậy, hoạt động đầu tư tài chính của PTF bị hạn chế rất nhiều, khi mà có nhiều dự án đầu tư bên ngoài nhưng thời gian chờ xin phép Hội đồng quản trị VNPT chấp thuận đầu tư thường dẫn đến mất cơ hội đầu tư.
Ngoài ra, theo Quyết định số 153/QĐ/ĐTPT-HĐQT ngày 25/04/2001 của VNPT, với các dự án đầu tư trên 3 tỷ đồng thì PTF phải trình Hội đồng quản trị VNPT xét duyệt. Thực tế, hầu hết các dự án đầu tư đều lớn và đều phải xin phép VNPT, điều này làm mất tính chủ động, linh hoạt của PTF trong các quyết định đầu tư.
Như vậy, PTF là đơn vị thành viên hạch toán độc lập của VNPT, đóng vai trò là tổ chức tài chính trung gian giữa VNPT và các đơn vị thành viên, giữa VNPT và các đơn vị thành viên với thị trường tài chính, với chức năng chủ yếu là đầu mối huy động vốn, tư vấn cho VNPT quản lý và sử dụng vốn tối ưu. Những năm vừa qua, những kết quả đạt được của PTF trong hoạt động đầu tư tài chính là rất đáng khích lệ, tuy nhiên cũng còn nhiều tồn tại hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và phản ánh đúng tiềm năng của PTF. Vì thế, để phát triển hoạt động đầu tư tài chính của PTF trong tương lai, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò là đầu mối đầu tư tài chính của PTF trong VNPT, góp phần thúc đẩy việc thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam thì việc tìm ra các giải pháp thích hợp là hết sức cần thiết.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN TRONG TỔNG CÔNG TY BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM:
3.1.1 Định hướng phát triển của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam:
Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, từng bước tiến tới hội nhập với nền kinh tế thế giới. Để khai thác tốt nhất các cơ hội, thế mạnh; khắc phục những khó khăn, vượt qua thách thức; đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước, VNPT đã triển khai xây dựng chiến lược hội nhập và phát triển đến năm 2010 với các mục tiêu phát triển như sau:
Đến năm 2010, VNPT là một Tập đoàn kinh tế - kỹ thuật; có cơ sở hạ tầng thông tin vững mạnh; hoạt động trên nhiều lĩnh vực, kinh doanh đa dịch vụ và đa sở hữu theo hướng: kinh doanh Bưu chính Viễn thông là nòng cốt, nâng dần tỷ trọng các loại hình kinh doanh tài chính, bảo hiểm, công nghiệp Bưu chính Viễn thông. Từng bước chuyển sang mô hình Tập đoàn kinh doanh hoạt đông theo mô hình “Công ty mẹ - Công ty con”, trong đó Công ty mẹ đầu tư tài chính vào các Công ty con (Công ty thành viên) hoặc các Công ty “cháu” có vị trí then chốt trong Tập đoàn; Tập đoàn quản lý tập trung một số mặt như huy động, điều hoà, quản lý vốn; nghiên cứu triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm - dịch vụ, chiến lược đầu tư.
Tập trung mọi nguồn lực để đạt được tốc độ tăng trưởng doanh thu phát sinh bình quân là 8-10%/năm. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ Bưu chính-Viễn thông- Tin học, hoạt động tài chính, du lịch…
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đặc biệt chú trọng đến các nguồn vốn chiến lược có tính chất lâu dài, bền vững như vốn tự tích luỹ, nguồn vốn từ cổ phần hoá, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình; đồng thời tranh thủ các nguồn vốn ODA có lãi suất thấp, nguồn vốn huy động từ cán bộ công nhân viên; thu hút thêm các nguồn vốn nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các địa phương, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để hợp tác xây dựng, khai thác và phổ cập các dịch vụ Bưu chính Viễn thông.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc giảm bớt các thủ tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, thanh quyết toán nhằm sớm đưa các công trình vào sử dụng; đẩy mạnh các hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như liên doanh, góp vốn, mua cổ phần; quản lý, sử dụng và điều hoà tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; chủ động tham gia kinh doanh trên thị trường tài chính trong nước và tiếp tục đầu tư ra thị trường nước ngoài.
Phát triển các định chế tài chính trong Tập đoàn (Công ty Tài chính Bưu điện, Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện, Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện) nhằm phát huy tối đa năng lực nội sinh thông qua các hoạt động kinh doanh tiền tệ, đầu tư tài chính tiến đến hình thành Ngân hàng Bưu điện trong mô hình Tập đoàn.
Tổng vốn đầu tư cho giai đoạn 2001-2010 là 71.220 tỷ đồng, trong đó: giai đoạn 2001-2005 là 31.720 tỷ đồng, bình quân là 6.344 tỷ đồng/năm, giai đoạn 2006-2010 là 39.500 tỷ đồng, bình quân là 7.900 tỷ đồng/năm.
3.1.2 Định hướng phát triển của Công ty Tài chính Bưu Điện:
Trong năm 2006 Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ chuyển đổi thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông hoạt động theo mô hình “Công ty mẹ - Công ty con”. Định hướng phát triển của PTF trong giai đoạn từ năm 2006 – 2010 là phấn đấu trở thành đầu mối huy động và đầu tư vốn cho Tập đoàn, phấn đấu trở thành trung gian tài chính tin cậy, điều hoà vốn hiệu quả giữa các thành viên trong Tập đoàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các thành viên trong Tập đoàn.
Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Hoạt động huy động vốn có hiệu quả mới tạo điều kiện cho hoạt động sử dụng vốn phát triển, bởi vốn huy động với chi phí thấp sẽ tạo cho hoạt động sử dụng vốn của Công ty có tính cạnh tranh cao hơn, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đến lượt mình, sự phát triển của hoạt động sử dụng vốn sẽ tạo thêm nhu cầu về vốn thúc đẩy hoạt động huy động vốn phát triển.
Với những tiềm năng sẵn có của mình, Công ty quyết tâm thực hiện đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, mở rộng thực hiện nốt các hoạt động kinh doanh còn bỏ ngỏ, với mục tiêu tiến tới kinh doanh đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ như một Công ty Tài chính trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Hoàn thiện bộ máy cơ cấu tổ chức, giảm bớt chi phí quản lý hành chính, điều hành của Công ty; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người lao động trong Công ty, tạo dựng một môi trường làm việc năng động, cạnh tranh lành mạnh và có hiệu quả; xây dựng hệ thống thông tin hoàn chỉnh trong nội bộ Công ty, giữa Công ty với Công ty mẹ, với các công ty thành viên trong Tập đoàn và đặc biệt đối với khách hàng, công chúng- thể hiện tính minh bạch trong kinh doanh của Công ty.
3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện:
Vấn đề đối với các tổ chức tín dụng nói chung và các Công ty Tài chính nói riêng không chỉ là mở rộng quy mô đầu tư tài chính - đầu tư theo chiều rộng - mà còn nâng cao hiệu quả đầu tư - đầu tư theo chiều sâu. Hiệu qủa hoạt động đầu tư tài chính của PTF trong những năm qua là không khả quan, chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động đầu tư tài chính trong những năm tới là một mục tiêu phấn đấu của Công ty. Để làm được điều đó thì định hướng phát triển hoạt động đầu tư của PTF trong những năm tới là:
Lập kế hoạch phân bổ và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi một cách khoa học; xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
Đẩy mạnh hoạt động đầu tư vào các công ty cổ phần bằng nguồn vốn nhận uỷ thác bởi đây là nguồn vốn đầy tiềm năng, ổn định và chi phí thấp tạo ra tính cạnh tranh cho Công ty.
Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán là hoạt động kinh doanh có lợi nhuận kỳ vọng cao và cũng là biện pháp để đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư của các Công ty tài chính.
3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN:
Dựa vào những điều kiện để phát triển hoạt động đầu tư tài chính đã trình bày ở chương I, muốn phát triển hoạt động đầu tư tài chính thì Công ty tài chính phải tìm những giải pháp để tăng quy mô, thay đổi cơ cấu, tăng doanh thu, giảm chi phí. Công ty Tài chính muốn tăng doanh thu thì phải mở rộng quy mô đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh hứa hẹn khả năng thu lời cao. Việc giảm chi phí đầu tư tài chính phụ thuộc vào việc tìm kiếm được những nguồn vốn tài trợ lớn, ổn định với lãi suất thấp. Căn cứ vào chiến lược phát triển chung của VNPT đến năm 2010, định hướng phát triển của PTF, định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính Công ty, đồng thời qua tìm hiểu và phân tích cụ thể hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động đầu tư tài chính của PTF như sau:
3.2.1 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn để giảm chi phí cho hoạt động đầu tư tài chính:
3.2.1.1 Huy động vốn từ VNPT và các đơn vị thành viên của VNPT
Huy động vốn từ nguồn vốn tự tích luỹ và vốn ODA của VNPT
Những năm qua, nguồn vốn tự tích luỹ và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đóng một vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của VNPT. Nguồn vốn ODA của VNPT trong giai đoạn 2001-2010 dự kiến là 10.700 tỷ đồng, chiếm 15,02% tổng nguồn vồn đầu tư của VNPT. Nguồn vồn này có đặc điểm lãi suất thấp và thời gian trả nợ dài nên chủ yếu được sử dụng đầu tư vào các dự án trọng điểm có số vốn đầu tư lớn, khả năng sinh lợi thấp để đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực mạng lưới hoặc các dự án mang tính công ích cao như: các dự án cáp quang biển, phát triển viễn thông nông thôn và Internet phục vụ cộng đồng… Nguồn vốn tự tích luỹ của VNPT trong giai đoạn 2001-2010 dự kiến là 32.620 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng là 45,8% tổng nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn tự tích luỹ của VNPT chủ yếu được hình thành từ:
Nguồn vốn khấu hao cơ bản từ tài sản cố định của các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc ( trừ trường hợp đơn vị tự vay tự trả), các đơn vị sự nghiệp, và một phần khấu hao của các đơn vị hạch toán độc lập.
Nguồn vốn từ quỹ đầu tư phát triển tập trung của VNPT, từ quỹ đầu tư phát triển của các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và một phần quỹ đầu tư phát triển của các đơn vị hạch toán độc lập ( tối đa 10% ).
Theo quy định hiện hành, nguồn vốn này được quản lý, sử dụng tập trung ở Tổng công ty để phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển tập trung của VNPT, nó do 3 Ban chức năng là Ban Kế toán Thống kê Tài chính, Ban Đầu tư Phát triển và Ban Kế hoạch trực tiếp theo dõi, quản lý, cân đối và trình Lãnh đạo VNPT quyết định phân bổ tái đầu tư vào dự án tập trung mà VNPT trực tiếp ra quyết định đầu tư.
Thực trạng tình hình đầu tư xây dựng cơ bản của VNPT những năm vừa qua cho thấy trong quá trình quản lý, sử dụng các nguồn vốn tự tích luỹ tập trung, nguồn vốn ODA đã phát sinh một số tồn tại như:
Các đơn vị thành viên sau khi trích lập khấu hao thường chưa chuyển ngay về VNPT theo đúng thời gian quy định mà tạm chiếm dụng để sử dụng vào các mục đích khác.
Trong thời gian chưa sử dụng để tái đầu tư vào các dự án, nguồn vốn tự tích luỹ tập trung ở VNPT chủ yếu được gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng với lãi suất rất thấp.
Trong quá trình sử dụng vốn ODA, các thủ tục trình duyệt dự án, hợp đồng của cả bên Việt Nam và đối tác nước ngoài đều rất phức tạp, qua nhiều khâu, gây chậm trễ chung cho toàn bộ dự án.
Các Ban chức năng của VNPT do số lượng cán bộ chuyên viên có hạn mà phải đảm trách nhiều nhiệm vụ nên chưa thực hiện được tốt chức năng tham mưu giúp lãnh đạo VNPT sử dụng có hiệu quả các khoản vốn tích luỹ tập trung ở VNPT đang tạm thời nhàn rỗi vào những lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, hoặc quản lý sử dụng vốn vay ODA hiệu quả và đảm bảo tiến độ triển khai dự án.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tự tích luỹ và vốn ODA của toàn VNPT, theo tôi PTF nên trình VNPT uỷ thác cho PTF quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Với vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ chắc chắn rằng PTF sẽ quản lý tốt nguốn vốn này, đảm bảo nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư, đẩy nhanh thủ tục giải ngân, tiến độ thanh quyết toán công trình để sớm thực hiện khấu hao tài sản cố định, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và phát triển hoạt động chung của VNPT.
Để thực hiện giải pháp này, tôi đề xuất:
Đối với VNPT: Ban hành quyết định uỷ thác cho PTF quản lý nguồn vốn tích luỹ và vốn ODA của VNPT; đồng thời thông báo cho các đơn vị thành viên được uỷ quyền làm chủ đầu tư các dự án biết để các đơn vị tiếp nhận vốn đầu tư từ PTF; VNPT quy định mức phí uỷ thác PTF được hưởng; chỉ đạo cho PTF và các đơn vị thành viên khác giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đối với PTF: Đề nghị các đơn vị liên quan gửi đầy đủ hồ sơ về dự án đầu tư, tiến hành thẩm định hồ sơ và hướng dẫn các đơn vị thực hiện tiến độ giải ngân theo đúng quy định của Nhà nước và của VNPT; phải báo cáo VNPT tiến độ triển khai dự án theo định kỳ 3 tháng 1 lần vào cuối mỗi quý; phân tích, đánh giá tình hình sử dụng nguồn vốn do VNPT uỷ thác và đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trình VNPT theo định kỳ 6 tháng, năm.
Huy động vốn từ nguồn vốn phát hành trái phiếu của VNPT
Hiện nay, do bị hạn chế bởi hạn mức tín dụng 15% vốn tự có ( 10,5 tỷ đồng ) đối với một khách hàng, mà theo quy định thì VNPT và 70 đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của VNPT cũng chỉ được coi là một khách hàng của PTF, nên PTF phải huy động vốn bằng hình thức nhận uỷ thác đầu tư từ các tổ chức tín dụng là chủ yếu. Tuy nhiên, đặc điểm nguồn vốn này thường có lãi suất cao hơn nhiều so với nguồn vốn huy động trực tiếp từ các tổ chức và cá nhân. Do vậy, giải pháp quan trọng nhằm gia tăng nguồn vốn và giảm chi phí huy động vốn đối với PTF hiện nay là cần chủ động xây dựng các phương án phát hành trái phiếu trình VNPT, trong đó VNPT là chủ thể phát hành trái phiếu và PTF chỉ đóng vai trò là tổ chức nhận uỷ thác phát hành và giải ngân vốn cho các dự án đầu tư của VNPT.
Đây là hình thức huy động vốn có tính khả thi cao đối với VNPT do VNPT là một tổ chức có uy tín trên thị trường nên có thể thu hút được lượng vốn lớn với lãi suất thấp thông qua việc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu và giải ngân vốn VNPT nên uỷ thác cho PTF thực hiện, do để quản lý và sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu có hiệu quả cao thì VNPT cần phải có kế hoạch giải ngân vốn chính xác và kế hoạch quản lý nguồn vốn trả nợ tối ưu, nhưng thực tế do số lượng dự án và lượng vốn đầu tư hàng năm của VNPT là quá lớn nên VNPT không có điều kiện và khả năng để thực hiện.
Trong quá trình thực hiện nhận uỷ thác phát hành trái phiếu và giải ngân vốn, PTF cần liên hệ chặt chẽ với các đơn vị thành viên được uỷ quyền là chủ đầu tư để đảm bảo tiến độ giải ngân vốn phù hợp với thời điểm huy động vốn, định kỳ báo cáo VNPT về kế hoạch giải ngân và trả nợ, đề xuất các giải pháp với VNPT nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Huy động vốn từ các đơn vị thành viên của VNPT
VNPT là một Tổng công ty lớn bao gồm nhiều đơn vị thành viên có tiềm lực mạnh về kinh tế. Trong đó, Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI), Công ty Tiết Kiệm Bưu Điện (VPSC) là hai trong các định chế tài chính của VNPT, các Công ty thường có nguồn vốn nhàn rỗi lớn. PTF cần tiếp xúc với PTI, VPSC tạo mối quan hệ khách hàng, đối tác để̉ có thể huy động được nguồn vốn này thông qua hình thức nhận uỷ thác đầu tư để cho vay, đầu tư vào các dự án của VNPT.
Ngoài ra, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập trong VNPT, các Công ty cổ phần, liên doanh mà VNPT có vốn góp chi phối cũng sẽ là nguồn thu hút vốn tiềm năng của PTF. Các đơn vị này thường có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và được gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng với lãi suất thấp, do vậy PTF có thể huy động vốn từ các đơn vị này dưới hình thức vay vốn hoặc nhận uỷ thác đầu tư.
3.2.1.2 Huy động vốn từ các tổ chức tài chính:
Trong chiến lược phát triển của VNPT đến năm 2010 thì nguồn vốn vay tín dụng dự kiến là 18.960 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư 26,6%. Như vậy, nguồn vốn vay tín dụng vẫn sẽ là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng thiết yếu đối với VNPT. PTF được thành lập với chức năng là đầu mối huy động vốn cho VNPT nhưng thực tế thì VNPT vẫn tiến hành giao dịch trực tiếp với các ngân hàng dẫn tới có nhiều trường hợp cả VNPT và PTF cùng tiến hành giao dịch huy động vốn với một ngân hàng. Như vậy trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với VNPT hiện có hai đầu mối là VNPT và PTF, dẫn tới sự bất hợp lý và không hiệu quả, PTF luôn bị động vì không biết được hạn mức tín dụng, không được chỉ đạo về lãi suất vay, không biết về kế hoạch vay và nhiều lúc PTF trở nên thừa vì các tổ chức tín dụng chỉ muốn quan hệ trực tiếp với VNPT mà không muốn thông qua một tổ chức tài chính trung gian khác, trong khi PTF có đầy đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ mà VNPT giao cho. Như vậy, theo tôi, VNPT nên uỷ quyền cho PTF làm đầu mối huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, làm thế sẽ tránh được sự quan hệ chồng chéo dẫn đến không hiệu quả. Nếu PTF là đầu mối huy động vốn từ các tổ chức tín dụng thì PTF có thể chủ động trong việc đàm phán với các tổ chức tín dụng, giúp VNPT quản lý vốn giải ngân hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho PTF trong công tác thẩm tra quyết toán các dự án đầu tư của các đơn vị trong VNPT do PTF đã nắm bắ́t được rõ quá trình đầu tư, giải ngân vốn của dự án, thẩm định được tính hiệu quả của dự án.
Mặt khác, để gia tăng vốn huy động theo hình thức vay vốn hoặc nhận uỷ thác đầu tư từ các tổ chức tài chính, PTF cần phải có các chính sách đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các tổ chức này. Ngoài các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng Liên doanh, các Công ty Tài chính trong nước, PTF cần mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các Quỹ đầu tư, Công ty bảo hiểm vì đây là những tổ chức tài chính chuyên nghiệp có khả năng đáp ứng cao nhu cầu vay vốn đầu tư của VNPT và PTF.
Bên cạnh đó, thông qua VNPT, PTF nên dần tiếp cận với các tổ chức tín dụng nước ngoài, để xác lập được quan hệ vay vốn cho VNPT và PTF. Hiện nay, việc huy động vốn từ nguồn vốn này còn chưa hấp dẫn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn kiểm soát, quản lý chặt chẽ các khoản vay từ nước ngoài nên thủ tục thẩm định, xét duyệt lâu và cần phải được Chính phủ hay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh. Tuy nhiên, đây sẽ là nguồn vốn quan trọng đối với VNPT vì nó có thể đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ từ nước ngoài bằng ngoại tệ mạnh. Ngoài ra, hình thức này còn giúp cho PTF có thể tìm kiếm những nguồn vốn lãi suất thấp, thời hạn vay dài. Với uy tín và danh tiếng VNPT đã tạo lập được trên thị trường, với mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính quốc tế trong nhiều năm qua dưới hình thức tín dụng thương mại thì việc tiếp cận, khai thác nguồn vốn này là hoàn toàn có tính khả thi cao.
3.2.1.3 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư:
PTF nên nhanh chóng triển khai thực hiện hoạt động huy động vốn thông qua hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm của các tổ chức và cá nhân; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn như Công ty Tài chính Dầu Khí đã thực hiện. Để thực hiện có hiệu quả, trước hết, PTF có thể triển khai hình thức huy động này trong phạm vi các đơn vị và cán bộ công nhân viên trong Ngành, từ đó đúc rút được kinh nghiệm để mở rộng thực hiện ra bên ngoài. Tuy nhiên, do bị hạn chế về mạng lưới giao dịch nên PTF khó có thể thực hiện trực tiếp các nghiệp vụ này. Trước mắt, PTF có thể thuê Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện, đơn vị thành viên của VNPT, là đại lý nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá cho PTF. Tuy nhiên, PTF là một tổ chức tài chính trung gian mới trên thị trường nên PTF, để cạnh tranh có hiệu quả với các tổ chức tín dụng khác, Công ty cần tính toán sao cho lãi suất huy động và các quyền lợi của nhà đầu tư khi mua trái phiếu phải đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nhưng vẫn mang lại hiệu quả cho PTF.
3.2.2 Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính:
3.2.2.1 Nhận uỷ thác đầu tư và quản lý phần vốn góp của VNPT tại các Công ty cổ phần, Liên doanh:
Để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý phần vốn Nhà nước của VNPT tại các doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của các Công ty cổ phần, Liên doanh mà VNPT có vốn góp, tôi cho rằng PTF nên đề xuất với VNPT phương án: VNPT uỷ thác cho PTF thực hiện quản lý vốn góp của VNPT tại các doanh nghiệp. Trách nhiệm của PTF sẽ là theo dõi, quản lý phần vốn góp của VNPT tại các doanh nghiệp, sau đó gửi các báo cáo phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, phân tích các báo cáo tài chính, đề xuất các phương án xử lý những khó khăn vướng mắc và phương án phân phối lợi nhuận đến đại diện của VNPT tại các doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp với VNPT. Để có thể kiểm soát chặt chẽ hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của các Công ty cổ phần, Liên doanh mà VNPT vốn góp thì PTF có thể đề xuất với VNPT đề cử người của PTF tham gia vào Ban Kiểm soát Công ty. Như vậy sẽ đảm bảo việc kiểm soát hoạt động của Công ty và cụ thể là kiểm soát vốn đầu tư của VNPT hiệu quả hơn.
Ngoài ra, các cơ hội đầu tư tài chính trên thị trường hiện nay là rất phong phú, hiệu quả đầu tư có thể là cao hơn hoặ̣c thấp hơn so với các hình thức đầu tư khác của VNPT. Tuy nhiên, VNPT với mục tiêu đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động, tiến tới thành lập Tập đoàn kinh doanh cũng đã và đang có chủ trương gia tăng đầu tư tài chính. Do vậy, PTF với vai trò là tổ chức tài chính trung gian giữa VNPT với thị trường tài chính, là công cụ đầu tư tài chính của VNPT nên chú trọng vào việc tìm kiếm, nghiên cứu, phân tích và đề xuất các cơ hội đầu tư tài chính có hiệu quả cho VNPT, sau đó nhận uỷ thác đầu tư từ VNPT để thực hiện góp vốn liên doanh, mua cổ phần và thực hiện quản lý số vốn này sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Để sẵn sàng nhận uỷ thác đầu tư và quản lý vốn góp hiệu quả cho VNPT, điều kiện tiên quyết đối với PTF là phải có một đội ngũ chuyên viên đầu tư lành nghề, có trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết sâu về pháp luật. Do vậy, PTF phải có chiế́n lược đào tạo cán bộ và cơ chế phân cấp quyết định đầu tư cho các cán bộ này để các cán bộ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm đầu tư.
3.2.2.2 Đa dạng hoá danh mục đầu tư tài chính:
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, sắp xếp lại doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã thực hiện cổ phần hoá các đơn vị thành viên hạch toán độc lập như sản xuất công nghiệp, xây lắp, thương mại và hiện đang tiến hành cổ phần hoá hơn 10 công ty xây lắp trực thuộc các Bưu điện tỉnh, thành và dự kiến trong thời gian tới VNPT sẽ thực hiện cổ phần hoá toàn bộ các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc không kinh doanh dịch vụ công ích, đường trục thông tin; đồng thời VNPT cũng có chủ trương tham gia thành lập mới các Công ty cổ phần hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn như thông tin di động, công nghệ thông tin… Chủ trương đó tạo ra những cơ hội đa dạng hoá danh mục đầu tư cho PTF. Do vậy, PTF cần phải theo sát tiến trình cổ phần hoá của các Công ty, sau đó tiến hành phân tích, xây dựng các phương án tham gia đấu giá, mua cổ phần của các Công ty này sao cho mua được cổ phần nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả của việc đầu tư. Đây là một trong những bước chuẩn bị giúp PTF sẵn sàng cho việc nhận uỷ thác quản lý vốn góp của VNPT tại các Công ty cổ phần, Liên doanh.
Trong thời gian Điều lệ tổ chức và hoạt động của PTF chưa được sửa đổi cho phù hợp với Nghị định 79/2002/NĐ-CP thì PTF nên xin VNPT cơ chế đầu tư góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các doanh nghiệp ngoài VNPT theo phân cấp mức đầu tư hợp lý. Như vậy, PTF mới gia tăng được lượng vốn đầu tư tài chính vào các dự án bên ngoài, làm quen dần với các ngành nghề kinh doanh khác để chuẩn bị sẵn sàng khi VNPT chuyể̉n đổi hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh đa ngành nghề, đa sở hữu thì PTF sẽ đảm trách được vai trò là đơn vị thực hiện chức năng tư vấn, đầu tư tài chính cho Công ty mẹ.
Ngoài ra, PTF cũng cần đẩy mạnh việc tham gia đầu tư và kinh doanh chứng khoán niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu như là một trong những giải pháp nhằm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, nhằm tăng lợi nhuận, giảm dần lượng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng; đồng thời tập trung đào tạo đội ngũ chuyên viên đầu tư của PTF. Để làm được điều đó, PTF cần phải thiết lập hệ thống thu thập các thông tin có ảnh hưởng đến giá chứng khoán để có những giải pháp kinh doanh kịp thời và hiệu quả.
3.2.2.3 Một số giải pháp khác:
PTF là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và tín dụng thì năng lực tài chính của Công ty là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Và một trong những chỉ tiêu nói lên khả năng tài chính của Công ty chính là vốn chủ sở hữu. Các Công ty có vốn chủ sở hữu càng lớn thì khả năng tự chủ về tài chính càng cao, vốn chủ sở hữu như một tấm lá chắn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Do vậy, để nâng cao năng lực tài chính của PTF, PTF nên trình VNPT bổ sung vốn điều lệ, ngoài ra PTF có thể xin VNPT cho phép phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Trong đó VNPT nắm giữ cổ phần chi phối để vẫn duy trì sở hữu Nhà nước trong PTF. Hình thức phát hành cổ phiếu là hình thức huy động vốn có tính khả thi cao, ngoài việc gia tăng lượng vốn điều lệ của PTF, nó còn góp phần gia tăng lượng vốn cho PTF từ chính các cổ đông.
Phát triển nguồn nhân lực cả về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ trong từng lĩnh vực, đặc biệt trong hoạt động đầu tư tài chính, bố trí cán bộ, chuyên viên vào những vị trí phù hợp với trình độ, năng lực và ngành nghề đã được đào tạo để họ có thể phát huy hết khả năng của mình trong công việc. Cán bộ nhân viên phải có thái độ hoà nhã và tận tình với khách hàng. Hình thức đào tạo có thể kết hợp tự đào tạo nội bộ và đào tạo bên ngoài, kết hợp đào tạo chuyên ngành tài chính - ngân hàng với đào tạo về lĩnh vực Bưu chính - Viễn thông. PTF cần thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, thảo luận để trao đổi kiến thức, kinh nghiệm trong xử lý công việc.
Các đơn vị thành viên của VNPT có địa bàn hoạt động trải rộng khắp cả nước, do vậy PTF cần thúc đẩy việc mở chi nhánh tại các thành phố lớn trong nước, trước mắt là ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp đến là ở Đà Nẵng… Việc mở thêm các chi nhánh tạo điều kiện cho PTF tìm hiểu cũng như gây dựng những mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị trong ngành và các đối tác khách hàng bên ngoài. Từ đó, PTF có thể tìm kiếm được những cơ hội đầu tư mới tiềm năng hơn.
PTF cần đầu tư trang bị hệ thống tin học hiện đại, chương trình phần mềm quản lý nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, đảm bảo tính chính xác và an toàn cao, đồng thời thiết lập chương trình cập nhật các văn bản pháp lý liên quan đến nội dung hoạt động của PTF.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phân tích thị trường, xác định thị trường tiềm năng, thị trường hiệu quả và có các chính sách Marketing khách hàng, nhằm thu hút khách hàng, duy trì và phát triển khách hàng. Để cạnh tranh tốt thì chỉ không phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm mà Công ty cung cấp, ngày nay khi mà đã có sự đồng dạng nhất định về các sản phẩm giữa các Công ty thì yếu tố mang lại lợi thế cạnh tranh là các dịch vụ đi kèm theo sản phẩm. Chính vì thế PTF cần phải thực hiện tốt chính sách chăm sóc khách hàng sau khi đã cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Nâng cao năng lực quản trị điều hành của đội ngũ cán bộ PTF, thông qua việc cử cán bộ tham dự các lớp đào tạo về quản trị nhân sự, quản trị kinh doanh và các lớp nâng cao kiến thức nghiệp vụ.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
Để đảm bảo cho các giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính của PTF trong VNPT có tính khả thi và đạt hiệu quả cao, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước:
Kiến nghị với Chính phủ sớm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các Công ty Tài chính, đặc biệt là các Công ty Tài chính trong Tổng công ty Nhà nước; cho phép các Công ty tài chính được mở rộng lĩnh vực kinh doanh ra ngoài Tổng công ty, cho phép các Công ty tài chính trong các Tổng công ty Nhà nước hoạt động bình đẳng như các tổ chức tài chính khác trên thị trường. Cụ thể, Chính phủ nên xem xét bổ sung Nghị định 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính cho phép các Công ty tài chính trong Tổng Công ty được phép có thêm các hoạt động như quản lý, sử dụng các quỹ, vốn tạm thời nhàn rỗi trong Tổng Công ty.
Kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sửa đổi Quyết định số 492/2000/ QĐ-NHNN5 ban hành ngày 28/11/2000 quy định về việc góp vốn mua cổ phần của các tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng được đầu tư góp vốn, mua cổ phần tối đa không vươt quá 40% vốn điều lệ và mức góp vốn vào một doanh nghiệp không quá 20% vốn điều lệ. Quy định này là phù hợp đối với các ngân hàng thương mại bởi hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại vẫn là hoạt động tín dụng, quy định này sẽ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Nhưng đối với các Công ty Tài chính thì như vậy là kìm hãm sự phát triển. Chính vì vậy, tôi kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nên sưa đổi Quyết định này theo hướng quy định tỷ lệ riêng đối với hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các Công ty Tài chính.
Các cơ quan quản lý Nhà nước nên có những giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường chứng khoán, tạo thêm thị trường đầu tư cho các Công ty Tài chính nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư và tăng lợi nhuận cho Công ty. Các biện pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là: thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, quy định thêm các chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, sẽ tăng thêm hàng hoá cung cấp trên thị trường; thúc đẩy việc thành lập các Quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lý quỹ; hoàn thiện cơ chế chính sách cho hoạt động của thị trường chứng khoán, nâng cao trình độ cho các chuyên viên hành nghề chứng khoán.
3.3.2 Đối với Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam:
Tăng cường năng lực tài chính cho PTF thông qua việc tăng vốn điều lệ cho Công ty. Tiềm lực tài chính hiện nay của PTF còn thấp hơn nhiều so với một số đơn vị thành viên của VNPT và so với các tổ chức tín dụng trên thị trường. Tính đến tháng 6/2006 thì vốn điều lệ của PTF vẫn là 70 tỷ đồng, việc tăng vốn tự có bằng việc bổ sung vốn từ các quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển của PTF hàng năm rất nhỏ. Như vậy, tôi cho rằng VNPT cần nghiên cứu cấp bổ sung vốn điều lệ cho PTF, sao cho tương xứng với vai trò và khả năng hoạt động kinh doanh của PTF, giúp PTF tăng khả năng tự chủ về tài chính và phát triển các hoạt động kinh doanh.
Phân định rõ chức năng nhiệm vụ giữa Ban Kế toán Thống kê Tài chính và PTF, trong đó xác định rõ chức năng nhiệm vụ của PTF là trung gian tài chính - cầu nối giữa VNPT, các đơn vị thành viên của VNPT với các tổ chức tài chính, thị trường tài chính trong và ngoài nước.
Thay đổi Quyết định số 153/QĐ/ĐTPT-HĐQT ngày 25/04/2001 theo hướng cho phép PTF đầu tư vào các dự án trên 3 tỷ mà không cần phải trình Hội đồng quản trị VNPT xét duyệt. Hoặc giải pháp khác là VNPT cần sớm đề cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của PTF. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện cho VNPT tại PTF. Có như vậy, PTF mới kịp thời nhận được các ý kiến chỉ đạo từ Hội đồng quản trị khi thực thi những công việc mà như hiện nay cần phải xin phép VNPT. Khi đó, PTF sẽ có thể nâng cao hiệ̣u quả hoạt động kinh doanh và thúc đẩy được vai trò của mình trong Tổng Công ty.
Giao cho PTF làm tổ chức đầu mối huy động vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Uỷ thác cho PTF quản lý nguồn vốn tự tích luỹ và nguồn vốn ODA của VNPT để tái đầu tư phát triển.
Uỷ thác cho PTF quản lý phần vốn góp của VNPT tại các Công ty cổ phần, Công ty Liên doanh; giao cho PTF làm đại diện trực tiếp quản lý phần vốn góp của VNPT tại doanh nghiệp này.
Uỷ thác cho PTF thực hiện hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp trong và ngoài Ngành.
Giao cho PTF xây dựng các phương án huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu của VNPT và uỷ thác cho PTF giải ngân nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu.
Hoàn chỉnh mô hình Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trong đó xác định rõ vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của PTF trong Tập đoàn sao cho phát huy hiệu quả nhất vai trò của PTF trong Tập đoàn.
KẾT LUẬN:
Khái niệm Công ty Tài chính và hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính là những khái niệm rất mới đối với Việt Nam trong những năm gần đây. Những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này còn rất ít. Những kết quả tổ chức, quản lý Công ty Tài chính và hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính đều được đúc rút, học tập từ những nước có nền kinh tế phát triển hơn và hiện nay nó đang dần được hoàn thiện để phù hợp với đặc điểm riêng của nền kinh tế Việt Nam - Công ty Tài chính trực thuộc Tổng công ty Nhà nước.
Trong những năm qua, hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện đã đạt được những thành tựu nhất định, quy mô đầu tư tài chính của Công ty tăng đều đặn hàng năm, kinh doanh luôn đảm bảo thu được lợi nhuận. Tuy nhiên nó vẫn chưa xứng tầm là hoạt động kinh doanh chủ yếu của một Công ty tài chính, chưa tận dụng được hết những ưu thế của mình, là một đầu mối đầu tư tài chính cho Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam - một trong những Tổng công ty Nhà nước có tiềm lực và quy mô lớn nhất nước. Nguyên nhân của tình trạng này có thể chia thành hai nhóm nguyên nhân: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan là chính bản thân Công ty Tài chính Bưu Điện chưa thực sự phát huy được hết thế mạnh của mình. Còn nguyên nhân khách quan là xuất phát từ những quy định, những bất cập trong quản lý của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam; xuất phát từ môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa thực sự phát triển; và cuối cùng là xuất phát từ môi trường pháp lý của chúng ta vẫn chưa hoàn thiện, chưa tạo ra được hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính. Qua nghiên cứu cụ thể tình hình hoạt động đầu tư tài chính của Công ty tài chính Bưu Điện, đồng thời dựa vào những nguyên nhân nêu trên, chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em mong đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện. Hy vọng những giải pháp đó có thể có những giá trị thiết thực cho sự phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Công ty.
Hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo – TS. Đặng Ngọc Đức, sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Công ty Tài chính Bưu Điện.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo trình tài chính doanh nghiệp, PGS.TS. Lưu Thị Hương, Nhà xuất bản thống kê.
Giáo trình ngân hàng thương mại, TS. Phan Thị Thu Hà, Nhà xuất bản thống kê.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, F.Mishkin, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
Phân tích hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp, PGS.TS Nguyễn Năng Phúc, Nhà xuất bản tài chính.
Đầu tư tài chính, Trần Thị Thái Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Vũ Từ Huy, Học viện chính trị quốc gia.
Nghị định 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính.
Quyết định số 492/2000/QĐ-NHNN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng.
Quyết định số 153/QĐ/ĐTPT-HĐQT ngày 25/04/2001 của VNPT.
Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện.
Quyết định số 75/QĐ/KT-NQ của Giám đốc Công ty Tài chính Bưu Điện về ban hành Quy chế tài chính.
Tạp chí Kinh tế phát triển số 98, tháng 8/2005.
Tạp chí Công nghiệp kỳ 1, tháng 8/2005.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 12, tháng 12/2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Tài chính Bưu Điện.doc