Cần tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu trong
việc xin cấp các giấy phép hay chứng từ chứng nhận nguồn gốc, phẩm chất,
chất lượng hàng hóa. Bên cạnh đó, sự chỉ đạo của các Bộ ngành có liên quan
cần có sự phối hợp liên kết với nhau, tránh tình trạng chồng chéo.
85 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n dùng
phương pháp L/C để đảm báo chắc chắn hơn khả năng trả tiền của người mua.
Vậy nếu trình độ thanh toán quốc tế của xã hội càng phát triển thì hình thức
nhờ thu sẽ càng thu hẹp.
Thứ tư, hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín
dụng chứng từ (sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau)
2.1.2.4 Kết quả tài chính
Đối với kết quả tài chính, cả 3 năm 2006, 2007, 2008 đều có điểm
chung là chênh lệch lãi suất thực tế thấp (so với kế hoạch đề ra là 0.4%) và cả
3 năm đều có nguyên nhân chung là:
Thăng Long là chi nhánh có số dư thừa nguồn vốn lớn (bình quân trên
2.000 tỷ VND).
Chi nhánh phải thực hiện cho vay Công ty nội ngành theo chỉ tiêu Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam giao, do đó không thể áp
dụng được mức lãi suất cho vay hiện hành (bình quân 700 tỷ VND).
Ngoài ra đối với một số khách hàng lớn có quan hệ tiền gửi, thanh toán,
tín dụng, để giữ và lôi kéo được nguồn vốn, thu dịch vụ, được sự chấp thuận
của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh áp
dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi.
Bảng 2.8: Kết quả tài chính qua các năm 2006 – 2008
Đơn vị: tỷ VND
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tổng thu 1.179 1.531 1.196,7
- Thu tín dụng 1.140 1.495 350
- Thu dịch vụ 8 36 14
Tổng chi (chưa lương) 1.095 1.376 1.071
- Chi trả lãi 994 1.256 842
- Chi khác 101 120 229
Chênh lệch thu – chi
(chưa lương)
83,52 155 126
Lãi suất
- LS bình quân đầu vào 0.55% 0.53% 1.03%
- LS bình quân đầu ra 0.79% 0.79% 1.29%
- Chênh lệch LS thực tế 0.24% 0.26% 0.26%
(Nguồn: Phòng Kế hoạch)
Riêng năm 2007, chênh lệch lãi suất thực tế đã tăng hơn so với năm
trước 0.02% là do phí thừa nguồn hầu hết các tháng đã giảm dưới 0.75%.
Năm 2008 tuy chênh lệch lãi suất thực tế vẫn là 0.26% tuy nhiên Chi nhánh
đã có sự thay đổi đáng kể về chất:
Thu lãi cho vay tăng 39.9% so năm trước.
Chi lãi tiền gửi, tiền vay ổn định do năm 2008 nguồn không kỳ hạn
bình quân tại Chi nhánh bù đắp cho các khoản nguồn có kỳ hạn lãi suất cao
mặc dù có biến động mạnh về lãi suất thị trường chung.
Thu, chi dịch vụ đều tăng do đã thu hút được nhiều khách hàng trong
và ngoài nước, đặc biệt thu – chi về kinh doanh ngoại tệ tăng do cách hạch
toán mua bán ngoại tệ với khách hàng làm doanh số thu – chi tăng đột biến.
Tuy nhiên, chi trích lập dự phòng rủi ro tăng, chi quản lý (vật liệu văn
phòng, chi sửa chữa thường xuyên, chi mua sắm công cụ lao động) tăng do
năm 2008 có thêm các Phòng giao dịch mới thành lập và tại Trung tâm giao
dịch, sửa toàn bộ nhà làm việc số 4 Phạm Ngọc Thạch và một số Phòng giao
dịch trực thuộc.
2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương
thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Thăng Long
2.2.1 Quy trình mở và thanh toán L/C tại Chi nhánh Thăng Long
Theo quyết định số 1998/QĐ-NHNo-QHQT của Tổng giám đốc NHNo
& PTNT Việt Nam về việc Quy định về quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc
tế trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam thì các cán bộ phòng Kinh doanh
ngoại hối của Chi nhánh Thăng Long khi mở L/C cho khách hàng phải tuân
thủ theo quy trình sau:
*) Đối với L/C nhập khẩu
Khi mở L/C
Tiếp nhận hồ sơ mở L/C: thanh toán viên kiểm tra hồ sơ pháp lý của
khách hàng.
Xác định mức ký quỹ và nguồn vốn đảm bảo thanh toán: kiểm tra nội
dung yêu cầu mở L/C của khách hàng; thẩm định các điều kiện và điều khoản
của thư tín dụng, đề xuất tỷ lệ ký quỹ. Sau đó chuyển hồ sơ mở L/C và tờ
trình mở L/C cho phòng Tín dụng thẩm định nguồn vốn thanh toán và trình
giám đốc phê duyệt.
Hạch toán mở L/C: bao gồm hạch toán số tiền ký quỹ mở L/C và hạch
toán ngoại bảng trị giá mở L/C.
Mở L/C: đăng ký số tham chiếu L/C, chọn Ngân hàng thông báo và
nhập dữ liệu vào máy tính.
Khi sửa đổi L/C
Tiếp nhận hồ sơ yêu cầu sửa đổi L/C
Thẩm định các điều kiện và điều khoản sửa đổi L/C
Thẩm định lại mức ký quỹ, nguồn vốn thanh toán theo yêu cầu sửa đổi
L/C.
Hạch toán bổ sung: điều chỉnh số tiền ký quỹ (khi cần thay đổi).
Sửa đổi L/C: thanh toán viên soạn thảo điện sửa đổi L/C, chuyển toàn
bộ hồ sơ cùng điện sửa đổi trình phụ trách phòng, lãnh đạo chi nhánh ký
duyệt.
*) Đối với L/C xuất khẩu:
Tiếp nhận, xác thực L/C (sửa đổi L/C) trước khi thông báo cho khách
hàng, trong trường hợp chi nhánh nhận được L/C hoặc sửa đổi L/C trực tiếp
từ ngân hàng khác (ngân hàng chuyển tiếp thông báo không phải là Sở Quản
lý), chi nhánh phải gửi về Sở Quản lý để xác thực.
Kiểm tra và thông báo L/C.
Thu phí thông báo, phí xác nhận.
Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ.
Gửi chứng từ và đòi tiền.
Thanh toán kết quả đòi tiền.
2.2.2 Một số chỉ tiêu chính
Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong các giao dịch thương mại quốc tế, ở Việt Nam cũng vậy đại đa
số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sau khi thỏa thuận với bên đối tác đều
lựa chọn L/C làm phương thức thanh toán quốc tế giữa đôi bên. Vì vậy,
nghiệp vụ liên quan đến L/C cũng đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong
nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại phòng Kinh doanh ngoại hối của Chi nhánh
Thăng Long nói riêng và trong toàn bộ các ngân hàng thương mại có cung cấp
các dịch vụ thanh toán quốc tế nói chung.
*) Đối với L/C nhập khẩu thì hiện nay Chi nhánh Thăng Long thường
xuyên phục vụ hai loại L/C đó là: L/C trả chậm và L/C trả ngay.
Bảng 2.9: Kết quả hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu
đvị: nghìn USD
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền
Tổng 349 159.706 247 155.133 168 94.659
Mở L/C trả chậm 35 2.758 16 16.704 10 49.727
Mở L/C trả ngay 314 156.948 231 138.429 158 44.932
Thanh toán L/C
nhập khẩu
285 88.146 254 77.312 194 95.365
(Nguồn: Phòng Kinh doanh ngoại hối)
Trong 3 năm qua, số lượng L/C cần mở tại Chi nhánh liên tục giảm
năm 2007 giảm 102 món so với năm 2006, và năm 2008 giảm 79 món so với
năm 2007. Tuy nhiên giá trị các món L/C lại tăng lên so với trước điều này
được thể hiện ở việc số tiền thanh toán L/C hàng năm khá ổn định, mặc dù
năm 2007 giảm nhẹ 12% so với năm 2006 nhưng năm 2008 số tiền thanh toán
L/C nhập khẩu cho khách hàng tăng 23% so với năm 2007.
Hiện nay, các khách hàng của Chi nhánh Thăng Long thường sử dụng
loại L/C phổ biến: L/C không hủy ngang trả ngay. Ngoài ra một số ít loại L/C
khác được mở là: L/C trả chậm, L/C xác nhận... và ngân hàng luôn khuyến
khích khách hàng nhập khẩu sử dụng các loại L/C an toàn để được đảm bảo
quyền lợi.
Các loại ngoại tệ được sử dụng trong các L/C đã được mở trong 3 năm
qua là: EUR, USD, JPY; trong đó USD được sử dụng nhiều nhất, tiếp theo là
JPY và EUR. Các khách hàng của chi nhánh Thăng Long hầu hết là các khách
hàng đã có quan hệ lâu năm, các mặt hàng mà họ thường nhập khẩu có thể kể
đến như: nông sản, xăng dầu, máy móc thiết bị, giấy, linh kiện điện tử...
*) Đối với L/C xuất khẩu
Bảng 2.10: Kết quả hoạt động thanh toán L/C xuất khẩu
đvị: nghìn USD
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền
Gửi L/C xuất 53 2.791 82 8.379 33 6.088
Chiết khấu 5 124 3 126 3 282
Nhận giấy báo có
về
44 2.790 81 8.900 29 5.621
(Nguồn: Phòng Kinh doanh ngoại hối)
Năm 2007 có sự tăng trưởng cả về số món và số tiền thực hiện so với
năm 2006. Cụ thể, năm 2007 Chi nhánh đã gửi đi hơn năm 2006 là 29 món,
tương đương với số tiền 5.588 nghìn USD (tăng khoảng 200%), đồng thời số
lượng giấy báo có về (bên nhập khẩu ở nước ngoài thanh toán tiền cho bên
xuất khẩu ở Việt Nam mà Chi nhánh Thăng Long đứng ra làm ngân hàng đại
lý) tăng 37 món, ứng với 6.110 nghìn USD (tăng khoảng 219%). Đây quả là
một con số ấn tượng sau 1 năm triển khai đề án phát triển hoạt động thanh
toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ được áp dụng ở Chi nhánh Thăng Long,
cộng thêm thời điểm kinh tế Việt Nam ta đang tăng trưởng với tốc độ cao hơn
8%/năm.
Tuy nhiên đến năm 2008 số lượng các món gửi L/C xuất và nhận giấy
báo có về đã giảm mạnh từ con số 82 món gửi L/C xuất xuống còn 33 món
(giảm 49 món), và 52 là số lượng món giảm đi đối với hoạt động nhận giấy
báo có về. Số lượng món giao dịch tại Chi nhánh giảm xuống còn thấp hơn cả
con số năm 2006, mặc dù vậy số tiền giao dịch vẫn ở mức cao. Nếu chia trung
bình giá trị 1 món thì ta có bảng sau:
Bảng 2.11: Giá trị trung bình 1 món thuộc hoạt động thanh toán L/C xuất
đvị: nghìn USD/món
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Gửi L/C xuất 53 102 184
Chiết khấu 24.8 42 94
Nhận giấy báo có về 63 110 194
Mặc dù số lượng các món giao dịch qua Chi nhánh Thăng Long có sự
biến động lên xuống qua các năm tuy nhiên giá trị của các món có thể nói là
tăng. Điều này chứng tỏ khách hàng của Chi nhánh là khá ổn định, gắn bó với
Chi nhánh; số lượng khách hàng không tăng trưởng nhưng từng khách hàng
lại là những doanh nghiệp lớn.
*) Có thể nói hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu và xuất khẩu luôn
chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Chi
nhánh Thăng Long
Bảng 2.12: Tổng hợp hoạt động thanh toán L/C xuất nhập khẩu
Đvị: nghìn USD
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Thanh toán L/C nhập
khẩu
99.165 88.146 95.365
Thanh toán hàng nhập 149.435 177.332 170.814
Thanh toán L/C xuất khẩu 2.790 8.900 5.621
Thanh toán hàng xuất 19.439 41.057 47.381
(Nguồn: Phòng Kinh doanh ngoại hối)
Thanh toán L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng doanh
số thanh toán hàng nhập trong cả 3 năm 2006, 2007, 2008. Tuy nhiên, thanh
toán L/C xuất khẩu lại chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 11%) trong tổng doanh số
thanh toán hàng xuất.
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rất thường xuyên trên thế
giới (chiếm 80%), tuy nhiên ở Việt Nam, cụ thể hơn là các khách hàng ở Chi
nhánh Thăng Long mới sử dụng phương thức này phổ biến cho hoạt động
nhập khẩu; còn với hoạt động xuất khẩu, L/C chưa được sử dụng nhiều phần
mà phương thức chủ yếu để thanh toán hàng xuất đó là “mở tài khoản” (khách
hàng nước ngoài chuyển tiền vào tài khoản cho bên xuất khẩu của Việt Nam).
2.3 Đánh giá hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương
thức tín dụng chứng từ
Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu đã có từ lâu nhưng chỉ là một bộ
phận nhỏ của Chi nhánh Thăng Long không được đầu tư quan tâm. Đặc biệt
từ năm 2007, do định hướng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam cũng như nỗ lực đầu tư, bổ sung nguồn nhân lực mới và
chương trình tìn học mới (IPCAS), hoạt động thanh toán quốc tế thực sự nở rộ
đóng góp lớn vào nguồn thu dịch vụ của Chi nhánh. Tuy nhiên để xem xét kỹ
hơn sự phát triển của hoạt động này thì cần đánh giá kết quả đạt được, hạn
chế cũng như những nguyên nhân dẫn đến tình hình trên.
2.3.1 Kết quả đạt được
đvị: triệu đồng
Biểu đồ 2.1: Thu phí từ hoạt động thanh toán quốc tế
3922
4774
6393
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
(Nguồn: Phòng Kinh doanh ngoại hối)
Hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Thăng Long luôn tăng qua
các năm từ 2006 đến 2008 lần lượt là 21.7% và 33.9%. Trong đó nguồn thu từ
phương thức thanh toán bằng phương pháp tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng
lớn, đóng góp vào doanh thu cho phòng Kinh doanh ngoại hối của Chi nhánh.
Doanh số mở L/C tăng trưởng, cộng thêm việc đầu tư nguồn lực và bối cảnh
kinh tế trong tương lai là những nhân tố quan trọng nhất đảm bảo sự phát triển
của hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức này tại ngân hàng.
Có được kết quả trên là nhờ những nguyên nhân chính sau:
Bối cảnh kinh tế Việt Nam: năm 2007 là năm chứng kiến bước phát
triển mạnh mẽ của Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế, đây là năm đầu tiên khi
Việt Nam gia nhập tổ chức WTO do đó tạo cơ hội rất lớn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hóa ra nước thành viên khác của WTO, đồng thời
doanh nghiệp nhập khẩu cũng có cơ hội lớn khi chúng ta thực hiện đúng cam
kết giảm thuế trong một số mặt hàng. Chính vì vậy, hoạt động thanh toán
quốc tế bằng phương thức L/C tại Chi nhánh Thăng Long có điều kiện tăng
trưởng. Không chỉ như vậy, giá USD trên thị trường giảm mạnh trong một vài
tháng đầu năm 2008 đã làm cho hoạt động nhập khẩu có điều kiện thuận lợi
hơn trước, từ đó mà các khách hàng tại Thăng Long mở những món L/C có
giá trị lớn.
Tín dụng chứng từ vẫn là phương thức phổ biến hiện nay bởi nó đảm
bảo được quyền lợi một cách tương đối cho đôi bên xuất – nhập khẩu. Hơn
nữa, các khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là khách hàng lớn, đã có mối
quan hệ lâu dài với ngân hàng do đó việc tiếp cận vốn vay khá dễ dàng. Từ
đó, họ có điều kiện để thực hiện hoạt động nhập khẩu mà không gặp mấy khó
khăn về vốn thanh toán.
Quy trình mở và thanh toán L/C của NHNo & PTNT Chi nhánh Thăng
Long đã được hoàn thiện, chỉnh sửa bằng quyết định 1998 của Tổng giám đốc
NHNo & PTNT Việt Nam ban hành năm 2005. Từ đó đến nay, quyết định
này đã đi vào thực tiễn và được các thanh toán viên nắm bắt ngày càng thuần
thục nên tạo thuận tiện cho khách hàng mà vẫn đảm bảo được tính chặt chẽ.
Không chỉ như vậy, trong quá trình giao dịch và sử dụng sản phẩm dịch vụ
mà phòng cung cấp, khách hàng luôn nhận được sự hướng dẫn một cách nhiệt
tình và cẩn thận, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Phí dịch vụ liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Nông nghiệp là khá đồng đều với các ngân hàng khác trên địa bàn. Đặc biệt
với cách tính phí đối với hoạt động thanh toán L/C – một trong những hoạt
động được chú trọng tại Ngân hàng Nông nghiệp là có giới hạn tối đa, tối
thiểu đối với các mức phí tính phần trăm trên giá trị L/C. Ví dụ:
Bảng 2.13: Biểu phí của một số sản phẩm, dịch vụ ở Agribank
Loại phí Mức phí Min (USD) Max (USD)
1. Phát hành L/C ký quỹ < 100% 0.1% 30 400
2. Sửa đổi L/C tăng tiền 0.1% 30 500
3. Sửa đổi L/C khác 10
4. Thanh toán L/C nhập 0.2% 20 500
(Nguồn: Phòng Kinh doanh ngoại hối)
Trong khi đó một số ngân hàng khác chỉ tính phần trăm trên giá trị L/C
mà không có giới hạn trên, dưới hoặc giới hạn trên dưới khá cao.
Nhìn chung mức phí giữa các ngân hàng có sự khác nhau nhỏ, tuy
nhiên thực tế với khách hàng mở L/C với giá trị lớn tại Ngân hàng Nông
nghiệp sẽ được hưởng mức phí thấp hơn so với các ngân hàng khác.
Về mặt công nghệ và tác phong làm việc: trong thời gian qua NHNo &
PTNT Việt Nam đã đầu tư công nghệ mới cho các ngân hàng chi nhánh, và
Thăng Long là một trong số đó. Vì vậy, đến với Chi nhánh khách hàng được
phục vụ một cách nhanh chóng và chuyên nghiệp hơn. Thêm vào đó, Chi
nhánh Thăng Long đã được sửa sang lại cho khang trang, hiện đại hơn, đội
ngũ thanh toán viên mặc đồng phục khi làm việc; từ đó mang lại sự tin cậy
hơn trong con mắt khách hàng.
Chi nhánh Thăng Long luôn tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng với
mức ký quỹ hợp lý (trung bình 20%). Tỷ lệ ký quỹ bao nhiêu phụ thuộc vào
phương án sản xuất kinh doanh, uy tín, mối quan hệ của khách hàng với ngân
hàng như thế nào. Với những khách hàng truyền thống như Tổng công ty Vật
tư nông sản, Tập đoàn Hòa Phát… họ được hưởng mức ký quỹ là 5 -10%
(thậm chí là 0% tùy từng món mở L/C). Thêm vào đó, với những khách hàng
có số tiền ký quỹ lớn và đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng thì Chi nhánh
tạo điều kiện để số tiền ký quỹ đấy nằm trong tài khoản tiền gửi có kỳ hạn (có
hạn chế việc sử dụng, đặc biệt là rút tiền) để được hưởng lãi trên số tiền đó.
Nhờ chính sách này mà nhiều khách hàng cam kết gắn bó lâu dài với Chi
nhánh Thăng Long.
2.3.2 Hạn chế
Tuy nhiên bên cạnh kết quả trên, Chi nhánh gặp phải khá nhiều hạn chế
cần khắc phục để không chỉ tăng lên về số lượng, giá trị thanh toán L/C mà
còn tăng lên về chất lượng, đảm bảo nguồn thu phí khá ổn dịnh cho ngân
hàng. Ta phải kể đến một số hạn chế còn tồn tại sau trong phương thức tín
dụng chứng từ tại Chi nhánh Thăng Long sau:
Số lượng L/C mở tại Chi nhánh đã giảm trong 2 năm gần đây, ngân
hàng chưa tạo được mối quan hệ với những khách hàng nhỏ, khách hàng mới
đến giao dịch tại đây.
Loại L/C mở tại ngân hàng khá đơn điệu, chủ yếu là 2 loại L/C không
hủy ngang và L/C không hủy ngang có xác nhận. Chính điều này chưa tạo nên
được nét đột phá, tạo sự khác biệt của Ngân hàng Nông nghiệp với các ngân
hàng khác. Việc lựa chọn L/C nào cho phù hợp với hoàn cảnh giao dịch cũng
như điều kiện riêng của khách hàng chưa được Chi nhánh thực hiện tư vấn,
mà đơn thuần các thanh toán viên chỉ thực hiện theo yêu cầu của khách hàng
và nhắc nhỏ, hướng dẫn họ thực hiện đúng quy trình theo như quy định của
NHNo & PTNT Việt Nam.
Thời gian giao dịch đối với dịch vụ thanh toán quốc tế bằng phương
thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Thăng Long khá lâu, gây cho khách
hàng sự không hài lòng, ảnh hưởng đến lòng tin và sự gắn bó của khách hàng
với ngân hàng.
Nguyên nhân của hạn chế trên:
*) Những nguyên nhân khách quan
Sự cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà
Nội, và đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần. Mặc dù các ngân hàng
cổ phần mới phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, chưa có nhiều kinh
nghiệm cũng như mối quan hệ lâu dài với khách hàng, nhưng họ đã đưa ra
nhiều hình thức khuyến mãi như về mức phí ưu đãi, thời gian giao dịch nhanh
chóng. Từ đó, nhiều khách hàng nhỏ, khách hàng ít giao dịch của Chi nhánh
Thăng Long đã chuyển sang sử dụng dịch vụ của ngân hàng khác.
Chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước năm 2008 làm
dư nợ tín dụng giảm dẫn đến một số doanh nghiệp không đủ điều kiện vay
vốn (mà 70% khách hàng tại Chi nhánh Thăng Long vay vốn để thanh toán
L/C) làm ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của phòng.
Môi trường pháp lý:
Ở nước ta hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt
động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ, mà nguồn văn
bản chủ yếu mà các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp Việt Nam sử
dụng để dẫn chiếu trong các L/C là các văn bản mà ICC ban hành (UCP,
ISBP…). Các văn bản của ICC đều là những thông lệ, tập quán quốc tế chung
nhất chính vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra, phía Việt Nam thường chịu thiệt
thòi vì chưa có luật quốc gia phản ánh các đặc điểm riêng và bảo vệ các hoạt
động đó của Việt Nam. Vì lẽ đó, các cán bộ phòng Kinh doanh ngoại hối của
Chi nhánh Thăng Long đôi khi còn lúng túng trong việc giải quyết xử lý công
việc.
Ngoài ra, thị trường liên ngân hàng của ta còn chưa phát triển hoàn
thiện, tỷ giá hối đoái “chính thức” chưa phản ánh hết cung – cầu của thị
trường, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng, từ đó
ảnh hưởng đến nguồn cung ngoại tệ để thanh toán cho các L/C nhập khẩu.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây đặc biệt là năm 2008, thế giới
đang trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế mà nguyên nhân xuất phát từ nước
Mỹ. Do đó, tỷ giá USD và một số ngoại tệ khác biến động lên xuống khá thất
thường, mà Việt Nam lại là một nước nhập siêu nên nhu cầu ngoại tệ là lớn
hơn so với nguồn cung. Trong những giai đoạn khó khăn, Sở quản lý và kinh
doanh vốn và ngoại tệ của NHNo & PTNT Việt Nam lại có quy định thu phí
giao dịch với Trung ương mà khả năng mua – bán được khối lượng lớn ngoại
tệ là hạn chế. Đúng trong thời điểm đó, khách hàng có nhu cầu ngoại tệ phát
sinh thì Chi nhánh không đáp ứng được gây mất lòng tin cho khách hàng.
Trình độ của khách hàng:
Khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế nhìn chung là chưa
hiểu biết rõ về nghiệp vụ thanh toán, tập quán quốc tế… Chính vì vậy, khi đến
với Chi nhánh Thăng Long, họ gặp nhiều lỗi trong việc chuẩn bị hồ sơ giấy
tờ, từ đó dẫn đến tăng chi phí giao dịch; đôi khi còn gặp trục trặc về vấn đề
thời gian không đúng như quy định trong hợp đồng ngoại thương đã ký kết
với đối tác nước ngoài.
*) Những nguyên nhân chủ quan
Sản phẩm dịch vụ mà Chi nhánh Thăng Long cung cấp cho khách hàng
chưa đa dạng: mặc dù trên thế giới có rất nhiều loại L/C được đưa vào sử
dụng nhưng tại đây mới chỉ sử dụng phổ biến 2 loại L/C. Ngân hàng chưa tạo
nên được sự đột phá, chủ động đưa vào giới thiệu và tư vấn cho khách hàng
sử dụng loại L/C thích hợp và tiện lợi. Mà sự cạnh tranh chủ yếu của Ngân
hàng Nông nghiệp chi nhánh Thăng Long chủ yếu về mặt hàng, lĩnh vực xuất
nhập khẩu mà Ngân hàng ưu tiên cấp tín dụng để thanh toán.
Hạn chế trong chính sách marketing của ngân hàng
Quy trình mở và thanh toán L/C nhập khẩu còn phức tạp: khi khách
hàng muốn mở L/C tại Ngân hàng Nông nghiệp họ phải tiến hành nhiều thủ
tục, giấy tờ (ví dụ: ngoài đơn xin mở L/C, hợp đồng ngoại thương họ phải
chuẩn bị sẵn hợp đồng mua – bán ngoại tệ đã có chữ ký của thủ trưởng cơ
quan…). Có thể nói còn nhiều quy định “bất thành văn” khiến cho khách
hàng mất nhiều thời gian đi lại, giao dịch với ngân hàng.
Công tác tư vấn cho khách hàng chưa được quan tâm đúng mức. Khách
hàng đến giao dịch tại đây đa phần thiếu thông tin về ngân hàng nước ngoài
đôi khi dẫn đến tình trạng không nhắc nhở, thỏa thuận với đối tác nước ngoài
chọn ngân hàng nào có mức phí thấp (bởi phần lớn mức phí của ngân hàng
nước ngoài trong dịch vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C cao hơn
nhiều so với ngân hàng Việt Nam).
Các phòng ban khác liên quan (đặc biệt là phòng Tín dụng) chưa thực
hiện việc marketing giới thiệu tính ưu việt, mức phí cho các sản phẩm của
phòng Kinh doanh ngoại hối để tăng thêm khách hàng mới sử dụng dịch vụ
thanh toán quốc tế tại Chi nhánh.
Công nghệ mới đã được đưa vào sử dụng tại Chi nhánh Thăng Long
nhưng nhìn chung chưa tạo sự khác biệt trong cạnh tranh với các ngân hàng
thương mại khác. Đề án công nghệ mới giai đoạn II của NHNo & PTNT Việt
Nam đã có nhưng vẫn chưa được lắp đặt tại Chi nhánh. Không chỉ như vậy,
tình trạng nghẽn mạch, mạng treo đôi khi vẫn xảy ra làm ảnh hưởng đến thời
gian mở L/C và gửi điện đi nước ngoài đúng thời hạn của khách hàng.
Nhìn chung các cán bộ nhân viên của phòng Kinh doanh ngoại hối đều
trẻ trung, nhiệt tình có ngoại ngữ tốt; bên cạnh đó có những cán bộ mới tuyển
và từ nơi khác luân chuyển tới làm. Vì vậy, họ gặp một số sai sót khi thực
hiện nghiệp vụ trên IPCAS; hơn nữa trong một số giao dịch phức tạp, họ còn
chưa có kinh nghiệm xử lý, đôi khi còn giải quyết công việc thiếu sáng tạo.
Chi nhánh Thăng Long có mạng lưới hoạt động rộng lớn, tuy nhiên tại
các phòng giao dịch trực thuộc chưa có cán bộ chuyên trách về thanh toán
quốc tế nên nghiệp vụ còn kém ảnh hưởng đến việc thu hút khách hàng hay tư
vấn cho họ. Không chỉ như vậy, Chi nhánh Chợ Mơ là chi nhánh thuộc Thăng
Long hỗ trợ rất mạnh nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho phòng nhưng đến năm
2007, Chi nhánh này đã được tách ra độc lập. Vì vậy, một số khách hàng
trước đây đã chuyển sang cho Chợ Mơ, cũng như một phần doanh thu của
Thăng Long bị giảm vì lý do này.
Nguồn cung ngoại tệ hạn chế và còn phụ thuộc rất nhiều vào Sở quản
lý Kinh doanh vốn và ngoại tệ ở Trung ương. Tại chi nhánh Thăng Long lại
chưa lên được kế hoạch cụ thể về nhu cầu ngoại tệ để có sự chuẩn bị kịp thời,
tránh ảnh hưởng đến giao dịch của khách hàng. Hậu quả là đôi khi khách
hàng có nhu cầu cấp bách không được đáp ứng, đã chuyển sang ngân hàng
khác để giao dịch.
Có thể nói, Chi nhánh Thăng Long đã có nhiều cố gắng để thúc đẩy
hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán bằng phương thức tín
dụng chứng từ nói riêng, tuy nhiên vẫn có nhiều mặt tồn tại. Trong số những
hạn chế trên có nhiều điểm tự bản thân Thăng Long có thể khắc phục được.
Vậy, Chi nhánh cần có các biện pháp rõ ràng để khắc phục và phát triển hơn
nữa hoạt động thanh toán bằng L/C.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT THĂNG LONG
3.1 Phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch kinh doanh năm
2009 của Chi nhánh Thăng Long
Xuất phát từ tình hình thực tiễn 2008 và dự báo năm 2009 còn tiếp tục
khó khăn, đòi hỏi cần có những biện pháp điều hành linh hoạt, đáp ứng yêu
cầu cạnh tranh và đảm bảo tài chính. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chương
trình hành động của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam góp phần kìm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mỗ, đảm bảo tăng trưởng lành mạnh. Do vậy trên cơ
sở định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long đề ra chiến lược năm 2009:
Tăng trưởng dư nợ theo nguyên tắc cân đối tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn, đảm
bảo an toàn vốn, sử dụng vốn có hiệu quả kinh doanh.
Riêng với hoạt động thanh toán quốc tế, mục tiêu đặt ra là cần từng
bước mở rộng, phát triển mảng dịch vụ này. Từ đó góp phần tăng thu cho
ngân hàng đồng thời nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng Nông nghiệp trên
thị trường trong và ngoài nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, phòng Kinh
doanh ngoại hối đã đề xuất các phương hướng thực hiện sau:
Tích cực tiếp thị khách hàng mới sử dụng dịch vụ của Chi nhánh đặc
biệt là dịch vụ thanh toán quốc tế để tăng thu về phí dịch vụ.
Tiếp tục công tác đào tạo và tự đào tạo cán bộ trong phòng Kinh doanh
ngoai hối để nâng cao trình độ và đáp ứng yêu cầu công việc, đảm bảo kinh
doanh an toàn và có lãi.
Luôn bám sát thị trường, theo dõi sự biến động của tỷ giá để quyết định
phương án kinh doanh ngoại tệ phù hợp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu
ngoại tệ của khách hàng một cách kịp thời và đầy đủ nhất.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHNo & PTNT
Thăng Long
3.2.1 Bám sát thị trường, theo dõi sự biến động tỷ giá
Trong thời gian vừa qua, cùng với sự biến động kinh tế trên toàn thế
giới, giá đôla Mỹ cũng thay đổi lên xuống thất thường. Hơn nữa hoạt động
mua bán ngoại tệ ngoài “chợ đen” tuy chỉ chiếm 20% tổng khối lượng giao
dịch mua bán ngoại tệ của Việt Nam nhưng lại có tác động, vai trò không nhỏ
đến việc xác định tỷ giá hối đoái chính thức. Bởi thị trường “ngầm” này luôn
phản ánh theo cung – cầu ngoài thị trường, mà ở Việt Nam nhu cầu đôla Mỹ
luôn cao hơn nguồn cung do đó tạo áp lực tăng tỷ giá. Tỷ giá “bên ngoài” cao
sẽ càng hút nguồn cung đôla Mỹ ra ngoài hệ thống ngân hàng. Từ đó, không
chỉ NHNo & PTNT Việt Nam, mà ngay tại chính Chi nhánh Thăng Long
cũng cần phải luôn luôn theo dõi, bám sát thị trường để đưa ra được dự báo về
tỷ giá và ra quyết định mua – bán ngoại tệ cho thích hợp. Điều này không chỉ
giúp cho hoạt động kinh doanh ngoại hối của Chi nhánh thu được lãi, mà còn
đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ trong thanh toán cho khách hàng, từ đó đảm bảo
yên tâm, hạn chế rủi ro cho khách hàng. Với nguồn ngoại tệ được chuẩn bị
chu đáo thì đây cũng là điều kiện để thu hút khách hàng mới, khách hàng
truyền thống sử dụng tối đa các dịch vụ mà Chi nhánh cung cấp.
3.2.2 Tích cực marketing mở rộng phạm vi khách hàng
Hiện nay, Việt Nam ta đang vấp phải nhiều khó khăn xuất phát từ nội
tại nền kinh tế như đầu tư còn kém hiệu quả, lạm phát cao... và chịu sự tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn cầu. Với tình hình thực tế như
vậy một trong những chủ trương chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ là tiếp tục
thúc đẩy, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu để tăng thu ngoại tệ cho
đất nước, đồng thời đáp ứng được nhu cầu sản xuất cũng như tiêu dùng của
người dân. Chính vì vậy mà hoạt động xuất nhập khẩu trong năm 2009 cũng
như trong thời gian tới vẫn được chú trọng phát triển ở Việt Nam. Xuất phát
từ tình hình này, Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long cần chú trọng tới
công tác marketing tiếp thị những khách hàng mới và cũng để duy trì ổn định
mối quan hệ lâu dài với những khách hàng cũ, truyền thống của Chi nhánh.
Chi nhánh đã có phòng Marketing nhưng vẫn nên có bộ phận chuyên
trách tìm hiểu về thị trường tiền tệ và nhu cầu khách hàng, đặc biệt là khách
hàng doanh nghiệp trong đó có khách hàng của phòng Kinh doanh ngoại hối.
- Tiến hành nghiên cứu thị trường
Ngân hàng cần tiến hành tổ chức nghiên cứu thị trường định kỳ, hoặc
khi có thay đổi phát sinh (ví dụ như những thay đổi trong chính sách của Nhà
nước...) bởi hoạt động này sẽ giúp ngân hàng nắm bắt được tình hình thị
trường thực tế, hiểu được đối thủ cạnh tranh từ đó sẽ giúp cho ngân hàng có
những những chính sách hợp lý trong từng thời kỳ, thời điểm.
Trước tiên việc điều tra thị trường sẽ giúp cho ngân hàng nắm bắt được
nhu cầu tiềm năng về xuất nhập khẩu trên các lĩnh vực mà các khách hàng
thường xuyên của Chi nhánh đang tiến hành sản xuất, kinh doanh nói riêng và
các lĩnh vực có điều kiện phát triển trên địa bàn Hà Nội nói chung. Từ những
thông tin có được, ngân hàng có thể thống kê để lên kế hoạch chuẩn bị ngoại
tệ cung ứng cho khách hàng. Ngoài ra, khi tìm hiểu khách hàng ta cũng nắm
bắt được nhu cầu của họ về các sản phẩm của ngân hàng cũng như mức giá cả
dịch vụ. Hiện nay, đã có nhiều ngân hàng cung cấp các sản phẩm thanh toán
quốc tế mới như: quyền chọn (option), bao thanh toán... trong khi Chi nhánh
chưa triển khai sản phẩm này. Vì vậy ngân hàng cần tìm hiểu rõ về các sản
phẩm này, rồi đối chiếu với nguyện vọng của khách hàng để xem có nên đưa
vào những sản phẩm này không, và nếu có thì thời điểm nào và cách tiến hành
ra sao.
Một đối tượng nữa Chi nhánh cũng cần tiến hành điều tra, theo dõi sát
sao hoạt động kinh doanh đó chính là các ngân hàng cạnh tranh. Số lượng các
ngân hàng cổ phần tăng lên rất nhiều, khi mở ra hoạt động thanh toán quốc tế
họ đã có rất nhiều ưu đãi; còn các ngân hàng nước ngoài đang vào Việt Nam
theo đúng lộ trình cam kết hội nhập WTO tuy họ chưa thật sự hiểu rõ hết về
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam nhưng họ lại rất có kinh
nghiệm trong việc triển khai các dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu, cũng như
trình độ nghiệp vụ của nhân viên thông thạo. Do đó, hướng đến đối tượng này
trong marketing là một trong những hoạt động không thể thiếu để giúp cho
ngân hàng nhận ra được các ưu điểm để phát huy và hiểu rõ được nhược điểm
của mình để khắc phục, từ đó có được các quyết sách, chính sách phủ hợp vào
những thời điểm phù hợp.
- Tiếp thị khách hàng
Quầy giao dịch đã được Chi nhánh sửa sang, sắp xếp lại để mang lại
hình ảnh mới trong con mắt khách hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cần chuẩn bị
những tở rơi để ngay tại quầy để trong lúc khách hàng chờ thanh toán viên
thực hiện các thao tác nghiệp vụ, họ có thể tham khảo, tìm hiểu thêm về các
sản phẩm mà có thể họ chưa sử dụng tới, hoặc chưa tận dụng hết tính năng
trong các dịch vụ mà họ đã dùng trước kia (ví dụ như đối với L/C nhập khẩu,
khách hàng của Chi nhánh Thăng Long thường xuyên sử dụng là L/C không
hủy ngang, L/C không hủy ngang có xác nhận, mà họ rất ít khi dùng loại L/C
tuần hoàn, L/C chuyển nhượng với nhiều tính năng và được sử dụng rộng rãi
trên thế giới).
Bên cạnh đó, Chi nhánh có thể triển khai hoạt động khuếch trương qua
mạng internet. Đây là loại phương tiện được sử dụng rất phổ biến ở Việt
Nam, cũng được các doanh nghiệp sử dụng thông thạo. Trên loại hình này,
Chi nhánh không những có thể quảng bá hình ảnh, giới thiệu về các sản phẩm
cung ứng với quy trình và hướng dẫn rõ ràng mà còn nhanh chóng giải đáp
mọi thắc mắc của khách hàng, và cũng là để khách hàng có nguồn dữ liệu để
tìm hiểu kỹ lưỡng và nắm vững yêu cầu khi sử dụng dịch vụ của phòng, tránh
những sai sót không đáng có (đặc biệt trong khâu chuẩn bị chứng từ) và tiếp
kiệm được thời gian đi lại đến ngân hàng.
Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần chú ý và hướng tới khách hàng tiềm năng
(ví dụ như những khách hàng đang sử dụng các dịch vụ khác tại ngân hàng
như mở tài khoản tiền gửi, vay vốn kinh doanh, bảo lãnh... có nhu cầu mà
chưa sử dụng sản phẩm thanh toán quốc tế). Ngân hàng cần đưa ra và giới
thiệu chủ trương, chính sách ưu tiên rõ ràng với đối tượng này.
- Tăng cường quảng bá thương hiệu của NHNo & PTNT
Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động mang lại
nguồn thu lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên do mang đặc thù riêng liên quan đến
hoạt động ngoại thương – là một trong những thế mạnh của một số ngân hàng
như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), ngân hàng xuất nhập
khẩu (Eximbank)... Do đó NHNo & PTNT nói chung và Chi nhánh Thăng
Long nói riêng phải không ngừng quảng bá thương hiệu Agribank, khẳng
định chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng, để họ tin tưởng hơn, quen
thuộc hơn với dịch vụ thanh toán quốc tế tại nơi này.
3.2.3 Củng cố sự liên kết giữa các phòng ban trong toàn Chi nhánh
Khi đến giao dịch với ngân hàng, người duy nhất mà khách hàng tiếp
xúc là các giao dịch viên, thanh toán viên, cán bộ ở các phòng ban liên quan.
Vì vậy chính các cán bộ này sẽ là một nhân viên marketing nhanh nhạy nhất,
đáng tin cậy nhất nếu họ có thể gợi ý, tư vấn cho khách hàng sử dụng các sản
phẩm của phòng ban khác (trong đó có phòng Kinh doanh ngoại hối). Muốn
làm được điều này, trước tiên cần đào tạo, nâng cao trình độ hiểu biết về toàn
bộ hoạt động của ngân hàng. Tiếp theo, phải xây dựng chính sách rõ ràng cho
các khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ tại Chi nhánh này. Hơn nữa, chế độ
khen thưởng cho các nhân viên có thể thực hiện việc “bán chéo” cũng cần
phải cụ thể hóa thể động viên, khích lệ từng cán bộ thực hiện hoạt động này.
Một trong những phòng ban có quan hệ chặt chẽ nhất với phòng Kinh
doanh ngoại hối tại Chi nhánh Thăng Long là phòng Tín dụng bởi phần lớn
khách hàng mở L/C ký quỹ <100%, số tiền còn lại là do họ đi vay. Chính vì
vậy, hai phòng này càng cần có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa, đặc biệt là khâu
thời gian thẩm định chứng từ, thời gian giải ngân vốn vay... để tránh ảnh
hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế vì hai bên xuất nhập khẩu có thống
nhất, thỏa thuận với nhau về thời gian thực hiện hợp đồng, thời gian mở L/C...
trong khi đó thời gian gửi điện đi qua phòng Swift thuộc Sở giao dịch để
chuyển qua cho ngân hàng nước ngoài bị giới hạn (4 giờ chiều các ngày làm
việc). Việc liên kết này không những giúp cho việc giải quyết công việc được
nhanh chóng, tránh ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau của hai phòng khi khách
hàng sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng cùng một lúc mà còn giữ vững được
uy tín của Chi nhánh khi phục vụ khách hàng.
3.2.4 Tiếp tục công tác đào tạo và tự đào tạo cán bộ
Con người luôn là nhân tố quyết định, quan trọng nhất trong cả quá
trình thực hiện nghiệp vụ tại phòng Kinh doanh ngoại hối nói riêng, và cả Chi
nhánh nói chung. Yêu cầu đặt ra là nếu muốn phát triển hoạt động thanh toán
xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ thì cần phải nâng cao
năng lực đội ngũ thanh toán viên bằng cách tiếp tục công tác đào tạo và tự đào
tạo cán bộ.
Tại Chi nhánh Thăng Long, việc đào tạo cán bộ vẫn được quan tâm
thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, quá trình này mới chỉ diễn ra trong nội bộ
Chi nhánh, chủ yếu là những thanh toán viên lâu năm, đã nắm vững nghiệp vụ
chỉ bảo, hướng dẫn những cán bộ mới tuyển, còn non kinh nghiệm. Trong khi
đó hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra rất đa dạng, các quy định mới luôn
được thay đổi cập nhật cho phù hợp với tình hình thực tiễn nên chỉ mới đào
tạo trong ngân hàng thôi thì chưa đủ, thiết nghĩ ngân hàng Nông nghiệp chi
nhánh Thăng Long cần đề xuất với NHNo & PTNT Việt Nam cho phép cử
cán bộ ra nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm xử lý nghiệp vụ và trình độ
quản lý hoạt động thanh toán tiên tiến của nước bạn.
Thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán bằng phương thức tín dụng
chứng từ nói riêng là loại nghiệp vụ yêu cầu sự tỷ mỷ, cẩn thận, nhanh chóng
với độ chính xác cao. Không chỉ như vậy, yêu cầu của công việc này còn liên
quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, đòi hỏi thanh toán viên không những
nắm chắc quy trình nghiệp vụ, mà còn phải linh hoạt, có tinh thần trách nhiệm
cao và thông thạo ngoại ngữ để đọc hiểu các hợp đồng ngoại thương, các văn
bản luật quốc tế... Do vậy, bên cạnh đào tạo về chuyên môn, ngân hàng cũng
cần chú trọng khuyến khích cán bộ phòng Kinh doanh ngoại hối nâng cao
trình độ ngoại ngữ, giúp họ nhận thức một cách đúng đắn và tự giác đức tính,
phẩm chất quan trọng của một thanh toán viên.
3.2.5 Hiện đại hóa công nghệ trong ngân hàng
Ngày nay, công nghệ tin đóng vai trò ngày càng quan trọng, không thể
thiếu đối với sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh. Có được công
nghệ tiên tiến các doanh nghiệp trong đó có các ngân hàng thương mại sẽ
giảm bớt được khối lượng công việc rất nhiều. Hơn nữa, công nghệ máy móc
sẽ giúp cho người lao động thực hiện công việc được chính xác hơn, và họ có
thể tập trung, giành nhiều thời gian hơn cho những công việc mà “máy móc
không thể thay thế”. Đặc biệt với đặc thù của lĩnh vực ngân hàng đó là có rất
nhiều khách hàng, mỗi khách hàng lại có nhiều thông tin, thông số cần phải
quản lý, vì vậy nếu không có được công nghệ tốt thì việc quản lý khách hàng
sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ công việc và khả năng đáp ứng kịp
thời nhu cầu khách hàng.
Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng từ có yêu cầu cao về công nghệ, bởi hiện nay các thư tín dụng (L/C)
đều được mở trên mạng Swift (chứ không còn mở dưới dạng thư nữa). Thực
tế cho thấy, phần mềm IPCAS hiện nay mà Chi nhánh đang sử dụng có nhiều
điểm chưa tốt, đó là tình trạng nghẽn mạng, treo máy... ảnh hưởng đến thời
gian, tiến độ công việc mở L/C hay thanh toán bộ chứng từ cho khách hàng.
Với lý do trên, để phát triển hơn nữa hoạt động này, Chi nhánh cần chú trọng
tới công tác hiện đại hóa công nghệ. Chi nhánh Thăng Long cần đề xuất lên
NHNo & PTNT Việt Nam nhanh chóng triển khai đề án IPCAS giai đoạn II
để phục vụ tốt hơn nữa hoạt động của phòng cũng như tăng khả năng cạnh
tranh với các ngân hàng thương mại khác.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Đối với NHNo & PTNT Việt Nam
NHNo & PTNT Việt Nam là ngân hàng “mẹ” của tất cả các Chi nhánh,
phòng giao dịch trong toàn hệ thống, đây là nơi đưa ra các chỉ tiêu thực hiện
và định hướng hoạt động. Do vậy, nhằm phát triển hơn nữa hoạt động thanh
toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và hoạt
động thanh toán quốc tế nói chung, Chi nhánh Thăng Long cần sự hỗ trợ rất
lớn từ phía Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Theo đó, kiến nghị đề xuất là:
Thứ nhất, NHNo & PTNT Việt Nam cần ban hành các quyết định bổ
sung, chỉnh sửa một số quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong đó có
phương thức tín dụng chứng từ theo hướng linh hoạt, gọn nhẹ và thuận tiện
hơn cho khách hàng sử dụng dịch vụ. Trong đó cần làm rõ những yêu cầu nào
về mặt thủ tục, giấy tờ, cũng như quy trình thỏa thuận, nộp, thanh toán tiền
hàng cho khách hàng nắm vững, tránh mất thời gian đi lại, giao dịch không
cần thiết. Đặc biệt đối với khách hàng, Ngân hàng nên đề ra các chính sách ưu
đãi cụ thể không chỉ để giữ vững mối quan hệ với khách hàng cũ, mà còn để
thu hút và khuyến khích khách hàng mới, khách hàng tiềm năng gắn bó lâu
dài và sử dụng tối đa mọi dịch vụ mà Ngân hàng có thể cung cấp.
Thứ hai, cần tạo điều kiện, tăng cường hoạt động đào tạo cán bộ nhất là
việc cử cán bộ đi học tập ở nước ngoài. Hiện nay, cán bộ thanh toán quốc tế
của Chi nhánh Thăng Long còn rất trẻ, trong đó có nhiều người mới tuyển và
được luân chuyển từ đơn vị khác đến, do đó trong nhiều trường hợp việc giao
dịch, xử lý tình huống với đối tác của thanh toán viên còn nhiều máy móc,
chưa linh hoạt, đôi khi còn chưa biết xử lý ra sao. Việc hướng dẫn, chỉ bảo từ
cán bộ có kinh nghiệm trong phòng và tự Chi nhánh đào tạo mới chỉ bao quát
được quy trình chung, mà chưa thật sự bài bản. Vì vậy, nếu nhận được sự hỗ
trợ này từ NHNo & PTNT Việt Nam thì các cán bộ sẽ có cơ hội học hỏi rất
nhiều kinh nghiệm từ nước ngoài – nơi mà nghiệp vụ thanh toán đã được đưa
vào sử dụng từ mấy chục năm trước.
Thứ ba, nhanh chóng đầu tư công nghệ hiện đại bởi đây là việc làm cần
thiết, hệ thống kỹ thuật mới sẽ là cơ sở cho việc giảm thiểu chi phí, thời gian,
tiết kiệm nguồn nhân lực. Thăng Long là một trong những chi nhánh mang lại
thu nhập lớn cho toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp, việc đầu tư ban đầu
tốn nhiều chi phí, tuy nhiên được xếp vào nhóm chi nhánh trọng điểm của
Agribank nên Thăng Long có đủ khả năng để đi tiên phong áp dụng công
nghệ mới và được ưu tiên tập trung phát triển.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.2.1 Phát triển thị trường tiền tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng
Ngân hàng Nhà nước phải có những bước đổi mới về cơ chế điều hành
và quản trị ngân hàng trong bối cảnh thực trạng thị trường tiền tệ hoạt động
không quy chuẩn, có như vậy mới tạo được điều kiện nhằm hoàn thiện và
phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam. Thứ nhất, đối với thị trường nội tệ liên
ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa hệ thống
thanh toán bù trừ, thanh toán liên ngân hàng đảm bảo sự luân chuyển vốn
nhanh giữa các tổ chức tín dụng. Thứ hai, để gia tăng vị thế đồng Việt Nam
trên cả thị trường trong nước và quốc tế, Ngân hàng Nhà nước cần sớm hoàn
thiện thị trường ngoại hối trong đó đặc biệt chú ý tới thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng theo hướng đa dạng hóa các loại ngoại tệ giao dịch trên thị trường,
nhất là các ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đổi trên thế giới không chỉ là
USD mà còn là EUR, JPY, GBP... và cả những ngoại tệ mà Việt Nam cũng
hay giao dịch như CNY, SGD... Biện pháp này sẽ giúp cho hoạt động giao
dịch trên thị trường sôi động hơn, không những vậy còn giúp hoạt động kinh
doanh ngoại tệ của các ngân hàng phát triển. Với kết quả tích cực thì việc này
còn kéo theo được nhiều lợi ích cho cả Ngân hàng Nhà nước trong việc quản
lý điều hòa thị trường và còn mang lại nguồn cung cấp ngoại tệ dồi dào cho
các ngân hàng thương mại tránh tình trạng có nơi thì thừa ngoại tệ, có nơi thì
không có ngoại tệ để bán cho khách hàng. Đây cũng là một trong các điều
kiện quan trọng để hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng
chứng từ phát triển.
Bên cạnh đó một trong các chính sách được dư luận quan tâm, tác động
không chỉ tác động đến các doanh nghiệp, ngân hàng mà còn tác động đến cả
người dân đó là chính sách tỷ giá. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp
dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có điểu tiết để điều hành chính sách tiền tệ. Theo
đó, tỷ giá chính thức được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh trong hệ thống các ngân hàng
thương mại chỉ được phép dao động trong biên độ +/-5% so với tỷ giá chính
thức. Tuy nhiên có thể nói tỷ giá này vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trường, với tình trạng nền kinh tế của chúng ta có tỷ lệ
“đôla hóa” khá cao, thị trường “chợ đen” hoạt động rất sôi động mặc dù chỉ
chiếm khoảng 30% thị phần thì việc kinh doanh ngoại tệ trong các ngân hàng
có hiện tượng khá gượng ép. Theo đánh giá, tính toán của các chuyên gia cả
trong và ngoài nước thì hiện nay VND vẫn được định giá khá cao so với USD
(xét với tỷ giá chính thức – tỷ giá bình quân của thị trường liên ngân hàng).
Vì vậy, trong tương lai, Ngân hàng Nhà nước cần nới rộng biên độ xác định
tỷ giá kinh doanh, tiến tới dần dần xóa bỏ can thiệp mang tính chất hành chính
lên tỷ giá. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể tác động gián tiếp đến tỷ
giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng.
3.3.2.2 Gia tăng quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia, đa dạng hóa nguồn dự trữ
ngoại tệ
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong
việc quản lý dự trữ ngoại hối, sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ quốc gia, và
tăng cường các biện pháp kinh tế để khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán
ngoại tệ cho ngân hàng thương mại. Nếu Ngân hàng trung ương thực hiện tốt
được vấn đề này sẽ tránh tình trạng căng thẳng về ngoại tệ trong tương lai cho
hệ thống ngân hàng thương mại.
Trong những năm gần đây, nguồn kiều hối đổ về trong nước tiếp tục
gia tăng cộng thêm việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng tăng khiến cho
Ngân hàng nhà nước đã phát hành thêm VND để mua phần lớn số USD đổ
vào này. Chính điều này đã làm cho dự trữ ngoại tệ đã không ngừng tăng lên,
tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là chỗ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ của ta là
các loại giấy tờ có giá niêm yết bằng USD. Do đó, trong hoàn cảnh khủng
hoảng kinh tế hiện nay với bối cảnh kinh tế của các nền kinh tế chủ chốt trên
thế giới có nguy cơ rất lớn lâm vào suy thoái khiến cho giá trị của USD lên
xuống thất thường. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến dự trữ của Việt Nam
khi đồng đôla xuống giá so với các ngoại tệ tham chiếu khác.
Vì vậy, trong dài hạn, Ngân hàng nhà nước với chức năng giám sát,
điều hành thị trường cần tính toán xây dựng cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý, đa
dạng hóa các loại ngoại tệ theo hướng tăng cường dự trữ các đồng tiền chủ
chốt khác như EUR, GBP, JPY... từ đó bảo đảm khả năng điều tiết thị trường
ngoại tệ và giảm thiểu những tổn thất xảy ra cho nền kinh tế khi tỷ giá có biến
động lớn.
3.3.3 Đối với Chính phủ
3.3.3.1 Tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán quốc
tế
Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong hoạt động
thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các
văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán.
Thực tế hiện nay bên cạnh Luật thương mại và Luật doanh nghiệp đã có từ
lâu, Pháp lệnh ngoại hối và Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 là cơ sở
pháp lý quan trọng góp phần giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế ở nước ta
được thực hiện một cách thuận lợi hơn. Tuy nhiên ta lại chưa có một đạo luật
và văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp
đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng
từ của ngân hàng. Do đó với phương thức này, thỏa thuận giữa các bên với
điều kiện nguồn luật áp dụng chỉ là UCP600 và một số thông lệ quốc tế khác.
Không chỉ như vậy, trong quan hệ thanh toán giữa khách hàng và ngân
hàng, phần lớn các chứng từ chỉ đơn giản là các giao dịch ngân hàng, không
thể được tính chất pháp lý và ràng buộc giữa hai bên nên gây khó khăn cho
tòa án khi xét xử tranh chấp. Từ đó tăng rủi ro trong quan hệ thanh toán giữa
khách hàng và ngân hàng.
Kiến nghị đối với Chính phủ đó là cần sớm ban hành các văn bản pháp
lý điều chỉnh các mối quan hệ trên, trong đó quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ
của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ (bên xuất khẩu, bên nhập
khẩu và các ngân hàng tham gia vào hoạt động thanh toán) sao cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời nêu lên một cách rõ ràng về các
ràng buộc trong giao dịch để tạo sự thống nhất về mặt pháp lý.
3.3.3.2 Tạo môi trường thuận lợi cho công tác xuất nhập khẩu
Bên cạnh việc ban hành các văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt
động thanh toán quốc tế, Chính phủ cùng cần quan tâm, chú trọng tạo môi
trường thuận lợi hơn cho công tác xuất nhập khẩu, đây chính là biện pháp
gián để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng
chứng từ.
Theo đó, đề xuất đưa ra là:
Cần tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu trong
việc xin cấp các giấy phép hay chứng từ chứng nhận nguồn gốc, phẩm chất,
chất lượng hàng hóa... Bên cạnh đó, sự chỉ đạo của các Bộ ngành có liên quan
cần có sự phối hợp liên kết với nhau, tránh tình trạng chồng chéo.
Cần mở rộng hơn nữa thông tin về giá cả các mặt hàng trên thế giới,
đặc biệt những mặt hàng phổ biến, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động xuất
nhập khẩu của chúng ta một cách đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó, thông tin về
tỷ giá hối đoái của các đồng tiền chủ chốt trên thế giới cũng cần phải cập nhật
để giúp các doanh nghiệp có thể dự đoán được xu hướng biến động để tránh
rủi ro tỷ giá.
KẾT LUẬN
Gia nhập WTO mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn cho hầu
hết tất cả các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, trong đó có ngành Ngân
hàng. Các ngân hàng thương mại của nước ta bên cạnh những ưu thế sân nhà
sẵn có, còn phải đối mặt với nguy cơ cạnh tranh gay gắt từ phía ngân hàng
nước ngoài với tiềm lực mạnh mẽ về vốn, nhân lực, công nghệ… Vấn đề cấp
thiết đặt ra chính là làm sao phát triển hơn nữa hoạt động thanh toán quốc tế,
trong đó thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ đóng vai trò quan
trọng nhất.
Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long trong thời gian qua đã có nhiều
sự đổi mới mạnh mẽ về điều kiện và phương pháp làm việc… chính vì vậy
nên doanh thu của ngân hàng tăng trưởng không ngừng. Trong đó có sự đóng
góp một phần không nhỏ từ các khoản thu phí dịch vụ từ hoạt động thanh toán
quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản giới thiệu tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Thăng Long.
2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006, phương hướng nhiệm vụ
năm 2007 – Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thăng Long.
3. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007, phương hướng nhiệm vụ
năm 2008 – Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thăng Long.
4. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008, phương hướng nhiệm vụ
năm 2009 – Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thăng Long.
5. Bộ tập quán quốc tế về L/C, ICC – Phòng thương mại quốc tế
6. Quyết định số 15/QĐ-TCCB&ĐT ngày 11/01/2008 của Giám đốc Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long về nhiệm
vụ cơ bản của các phòng, tổ, phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh Thăng
Long.
7. Quyết định số 1998/QĐ-NHNo-QHQT năm 2005 của Tổng giám đốc
NHNo & PTNT Việt Nam về quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ
thống NHNo & PTNT Việt Nam.
8. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại
9. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nghiệp vụ thanh toán quốc tế
10. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình thanh toán quốc tế
11. vneconomy.vn
12. www.vietcombank.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long..pdf