Tính cấp thiết của đề tài
PTKTBV nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục
ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không
bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt)
là phát triển không bền vững. Chẳng hạn, trữ lượng dầu mỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được
khoảng 50 - 60 năm nữa; trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa . Vậy, nếu các ngành kinh tế chỉ dựa
vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dài được. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại
của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn năng lượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm
nguồn năng lượng thay thế.
Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà để phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực
(như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là
không bền vững nếu nó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng
chậm lại trong tương lai.
Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là một khái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới
lưu tâm. "Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một
mẫu hình PTBV là mỗi địa phương, vùng, quốc gia không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn
đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế là chưa
toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững" trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện
và toàn vẹn hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để
chuyển hoá khái niệm PTKTBV từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó
áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đi sâu nghiên cứu hệ thống và công phu về PTBV. Tuy nhiên, như trên
đã phân tích, PTBV có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Bởi
vậy, các nghiên cứu chuyên biệt về PTKTBV đang chưa được thực hiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong
mối liên hệ tương tác với các thành tố quan trọng khác của PTBV. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của Việt Nam
đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý do trên, Luận án đã được lựa chọn với đề tài “Phát
triển kinh tế bền vững ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, "phát triển bền vững về kinh tế" đã trở thành một đề tài được thế giới loài
người không những quan tâm đặc biệt, mà còn tập trung nhiều trí tuệ để giải quyết các vấn đề của nó. Cội nguồn của
sự xuất hiện vấn đề và ngày càng trở nên bức thiết mang tính toàn cầu là ở chỗ, nó phản ánh sự quan ngại đối với một
số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, tạo bước đi vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu
nhập hiện tại cho nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi trường sinh thái (tàn
phá rừng, sa mạc hóa .), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầu hỏa, khí đốt), đến tình
trạng khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo.
"Phát triển kinh tế bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và thao tác hoá khái niệm
này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học
môi trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học và luật học đã có những đóng góp nhất định
cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTKTBV ở nước ta trong những thập niên sắp tới.
Trong một công bố trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam
trước ngưỡng của thế kỷ XXI", tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về PTBV: Chỉ báo kinh tế, xã hội, môi trường. Khái
niệm “phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở
Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình
nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới
2
môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi
đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền
vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”
(2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở
tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra
các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường.
Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải và cộng
sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình
này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hoá đã tổng quan
nhiều mô hình PTBV như mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990),
mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED
(1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội,
môi trường của World Bank.
Ngoài ra, trong giới khoa học xã hội còn có các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và
giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm
PTBV: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò
phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái niệm
PTBV theo Brundtland. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của
các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội vẫn chưa được làm rõ.
Tiếp theo là Đề tài cấp Bộ “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS. Hà Huy Thành
(chủ nhiệm), Viện nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu tổng quan
nội dung cơ bản và quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khung khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu
PTBV của Liên hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học về PTBV phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam có đưa ra nhiều vấn đề cần ưu tiên để thực hiện PTBV, trong đó
5 lĩnh vực cần được ưu tiên để PTBV về kinh tế, đó là: duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững; thay đổi mô hình sản xuất
và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch; phát triển nông nghiệp và
nông thôn bền vững; PTBV các vùng và địa phương.
Trong bài “Bàn thêm về PTBV” đăng trên Tạp chí nghiên cứu PTBV số tháng 6/2006 của Bùi Tất Thắng,
Viện chiến lược – Bộ Kế hoạch và đầu tư, đã phân tích PTBV về mặt kinh tế để thực hiện PTBV là tốc độ tăng
trưởng phải cao và quan trọng là có sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cùng với việc nâng cao đời sống của dân chúng và
bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên
Lê Bảo Lâm với tác phẩm “Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn: Lý thuyết và thực tiễn
ở Việt Nam” (2007) và một số các tác phẩm khác của các tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, “Kinh tế – xã hội Việt Nam
hướng tới chất lượng tăng trưởng hội nhập phát triển bền vững”; Nguyễn Văn Thương, “Tăng trưởng kinh tế Việt
Nam - những rào cản cần vượt qua”; Phạm Ngọc Trung, “Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam”; cũng chỉ
nghiên cứu và bàn luận đến những vấn đề xoay quanh việc sử dụng các nhân tố được chú ý và cần phải tiếp tục sử
dụng một cách có hiệu quả để nhằm tạo ra sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Các vấn đề đã được nghiên cứu
trong nhóm các tác giả trên cũng chỉ mới đưa ra, một cách rời rạc và chưa có tính chất hệ thống lý thuyết về sự
PTKTBV, chỉ đưa ra những phân tích, đánh giá về vấn đề xã hội, hay môi trường và một số tiêu chí trong nghiên
cứu sự phát triển một cách “bền vững” đối với Việt Nam.
Trong tác phẩm “Phát triển bền vững của Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”, NXB Lao
động – xã hội, Hà Nội – 2007, GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng phát triển của kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay điều kiện để
có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV, trong đó có đề cập đến những nội dung
của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở những tiêu chí như xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
3
cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Mặc dù, chưa đề cập trực tiếp đến khái niệm PTKTBV nhưng cũng đã đưa ra những
tiêu chí và nội dung của PTKTBV.
Tuy nhiên, đánh giá thật công bằng thì các nghiên cứu hiện có chưa đề cập sâu đến PTKTBV, cũng như
đánh giá mức độ tác động của PTKTBV trong mối quan hệ đối với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm bền vững
về mặt xã hội, văn hóa ., từ đó, khẳng định vai trò quyết định của PTKTBV đến PTBV nói chung, đưa ra những
kết luận về nội dung cũng như tiêu chí của PTKTBV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nền kinh tế quốc dân cùng với các vùng, ngành của nó trong quãng thời gian tương
đối thuần nhất để làm rõ động thái, khuynh hướng của nó dưới lăng kính của PTKTBV.
Phạm vi nghiên cứu: luận án chỉ giới hạn nghiên cứu nền kinh tế quốc dân Việt Nam dưới góc độ
PTKTBV, bao gồm những vấn đề tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế xã hội, môi trường.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 1986 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PTKTBV; đánh giá, phân tích
thực trạng nền kinh tế quốc dân kể tử khi thực hiện mô hình kinh tế mới để chỉ ra những mặt được và chưa được trong
việc thực hiện mục tiêu bền vững; đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm PTKTBV trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau: tổng hợp tài liệu, tư liệu đã nghiên
cứu PTKTBV; tổng hợp một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc bảo đảm PTKTBV; sử dụng các công cụ
phân tích để làm rõ những thành tựu đã đạt được cũng như những mặt còn hạn chế của kinh tế Việt Nam trong việc vừa duy
trì tốc độ tăng trưởng cao, vừa bảo đảm tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế; từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị
để làm cho chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới được cao và ổn định, bền vững hơn, hạn chế những tác động tiêu cực
từ bên ngoài, nhất là tính chu kỳ của khủng hoảng trong kinh tế thị trường.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng trong Luận án
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam; các thành tựu khoa học trong kinh tế
chính trị nói chung và kinh tế học phát triển nói riêng. Luận án có sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, mô tả và so sánh, mô hình hóa, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của Luận án
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về PTKTBV, thông qua việc làm rõ các nội dung và các tiêu chí đánh giá
PTKTBV. Nghiên cứu PTKTBV là để rút ra bài học cho Việt Nam trong vấn đề phát triển
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, luận chứng những vấn đề đang đặt ra trong việc thực
hiện mục tiêu chiến lược là duy trì tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững, thực sự tác động tích cực và lan tỏa đến các
vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường và có cơ cấu kinh tế phù hợp phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Nội dung của
PTKTBV gồm cả yếu tố văn hoá, xã hội được xem là vấn đề mới.
- Đề xuất quan điểm và định hướng giải pháp cơ bản để kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững. Kết
quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và đào tạo trên lĩnh vực kinh tế
chính trị và lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, kinh tế học phát triển.
7. Kết cấu của Luận án:
Ngoài Lời nói đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương,
7 mục và 14 tiểu mục.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về PTKTBV.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam và những vấn đề đặt ra về phát triển bền vững.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm PTKTBV ở Việt Nam.
14 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14665 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------*****-------
NGUYỄN HỮU SỞ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 01
TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2009
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phan Huy Đường;
2. TS. Trần Anh Tài.
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh,
Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường.
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Huy Đức,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh,
Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Quốc hội.
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng cấp nhà nước chấm luận án tiến sĩ họp tại trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội,
vào hồi 16 giờ 30, ngày 24 tháng 5 năm 2009.
Tại Hội trường 406 nhà E4 Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN, 144 đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà
Nội.
iCó thể tìm hiểu luận án tại: + Thư viện Quốc gia Việt Nam
+ Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. “Thách thức về giảm nghèo đối với mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã
hội, Số 313 + 314, tháng 9 và 10 năm 2008.
2. “Xoá đói giảm nghèo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” (tham gia), Đề tài khoa học
đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: KQ-06-05, nghiệm thu năm 2008.
3. “Toàn cầu hoá, tăng trưởng và đói nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới”, Tạp chí Cộng sản, Số
782, tháng 12 năm 2007.
4. “Nỗ lực ổn định khí hậu toàn cầu”, Tạp chí Cộng sản, chuyên san Hồ sơ Sự kiện, Số 21, năm 2007.
5. “Môi trường tự nhiên với tăng trưởng kinh tế ở nước ta”, Đề tài khoa học cấp trường, Mã số: KT-06.04,
nghiệm thu năm 2007.
6. “Hiệu quả của chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Số 6, năm 2003.
Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2009
NGƯỜI KÊ KHAI
Nguyễn Hữu Sở
1
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
PTKTBV nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục
ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không
bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt)
là phát triển không bền vững. Chẳng hạn, trữ lượng dầu mỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được
khoảng 50 - 60 năm nữa; trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa... Vậy, nếu các ngành kinh tế chỉ dựa
vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dài được. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại
của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn năng lượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm
nguồn năng lượng thay thế.
Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà để phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực
(như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là
không bền vững nếu nó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng
chậm lại trong tương lai.
Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là một khái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới
lưu tâm. "Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một
mẫu hình PTBV là mỗi địa phương, vùng, quốc gia…không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn
đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế là chưa
toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững" trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện
và toàn vẹn hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để
chuyển hoá khái niệm PTKTBV từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó
áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đi sâu nghiên cứu hệ thống và công phu về PTBV. Tuy nhiên, như trên
đã phân tích, PTBV có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Bởi
vậy, các nghiên cứu chuyên biệt về PTKTBV đang chưa được thực hiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong
mối liên hệ tương tác với các thành tố quan trọng khác của PTBV. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của Việt Nam
đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý do trên, Luận án đã được lựa chọn với đề tài “Phát
triển kinh tế bền vững ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, "phát triển bền vững về kinh tế" đã trở thành một đề tài được thế giới loài
người không những quan tâm đặc biệt, mà còn tập trung nhiều trí tuệ để giải quyết các vấn đề của nó. Cội nguồn của
sự xuất hiện vấn đề và ngày càng trở nên bức thiết mang tính toàn cầu là ở chỗ, nó phản ánh sự quan ngại đối với một
số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, tạo bước đi vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu
nhập hiện tại cho nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi trường sinh thái (tàn
phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầu hỏa, khí đốt), đến tình
trạng khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo.
"Phát triển kinh tế bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và thao tác hoá khái niệm
này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học
môi trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học và luật học đã có những đóng góp nhất định
cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTKTBV ở nước ta trong những thập niên sắp tới.
Trong một công bố trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam
trước ngưỡng của thế kỷ XXI", tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về PTBV: Chỉ báo kinh tế, xã hội, môi trường. Khái
niệm “phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở
Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình
nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới
2
môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi
đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền
vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”
(2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở
tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra
các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường.
Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải và cộng
sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình
này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hoá đã tổng quan
nhiều mô hình PTBV như mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990),
mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED
(1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội,
môi trường của World Bank.
Ngoài ra, trong giới khoa học xã hội còn có các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và
giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm
PTBV: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò
phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái niệm
PTBV theo Brundtland. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của
các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội vẫn chưa được làm rõ.
Tiếp theo là Đề tài cấp Bộ “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS. Hà Huy Thành
(chủ nhiệm), Viện nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu tổng quan
nội dung cơ bản và quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khung khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu
PTBV của Liên hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học về PTBV phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam có đưa ra nhiều vấn đề cần ưu tiên để thực hiện PTBV, trong đó
5 lĩnh vực cần được ưu tiên để PTBV về kinh tế, đó là: duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững; thay đổi mô hình sản xuất
và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch; phát triển nông nghiệp và
nông thôn bền vững; PTBV các vùng và địa phương.
Trong bài “Bàn thêm về PTBV” đăng trên Tạp chí nghiên cứu PTBV số tháng 6/2006 của Bùi Tất Thắng,
Viện chiến lược – Bộ Kế hoạch và đầu tư, đã phân tích PTBV về mặt kinh tế để thực hiện PTBV là tốc độ tăng
trưởng phải cao và quan trọng là có sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cùng với việc nâng cao đời sống của dân chúng và
bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Lê Bảo Lâm với tác phẩm “Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn: Lý thuyết và thực tiễn
ở Việt Nam” (2007) và một số các tác phẩm khác của các tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, “Kinh tế – xã hội Việt Nam
hướng tới chất lượng tăng trưởng hội nhập phát triển bền vững”; Nguyễn Văn Thương, “Tăng trưởng kinh tế Việt
Nam - những rào cản cần vượt qua”; Phạm Ngọc Trung, “Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam”;…cũng chỉ
nghiên cứu và bàn luận đến những vấn đề xoay quanh việc sử dụng các nhân tố được chú ý và cần phải tiếp tục sử
dụng một cách có hiệu quả để nhằm tạo ra sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Các vấn đề đã được nghiên cứu
trong nhóm các tác giả trên cũng chỉ mới đưa ra, một cách rời rạc và chưa có tính chất hệ thống lý thuyết về sự
PTKTBV, chỉ đưa ra những phân tích, đánh giá về vấn đề xã hội, hay môi trường và một số tiêu chí trong nghiên
cứu sự phát triển một cách “bền vững” đối với Việt Nam.
Trong tác phẩm “Phát triển bền vững của Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”, NXB Lao
động – xã hội, Hà Nội – 2007, GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng phát triển của kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay điều kiện để
có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV, trong đó có đề cập đến những nội dung
của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở những tiêu chí như xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
3
cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Mặc dù, chưa đề cập trực tiếp đến khái niệm PTKTBV nhưng cũng đã đưa ra những
tiêu chí và nội dung của PTKTBV.
Tuy nhiên, đánh giá thật công bằng thì các nghiên cứu hiện có chưa đề cập sâu đến PTKTBV, cũng như
đánh giá mức độ tác động của PTKTBV trong mối quan hệ đối với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm bền vững
về mặt xã hội, văn hóa..., từ đó, khẳng định vai trò quyết định của PTKTBV đến PTBV nói chung, đưa ra những
kết luận về nội dung cũng như tiêu chí của PTKTBV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nền kinh tế quốc dân cùng với các vùng, ngành của nó trong quãng thời gian tương
đối thuần nhất để làm rõ động thái, khuynh hướng của nó dưới lăng kính của PTKTBV.
Phạm vi nghiên cứu: luận án chỉ giới hạn nghiên cứu nền kinh tế quốc dân Việt Nam dưới góc độ
PTKTBV, bao gồm những vấn đề tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế xã hội, môi trường.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 1986 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PTKTBV; đánh giá, phân tích
thực trạng nền kinh tế quốc dân kể tử khi thực hiện mô hình kinh tế mới để chỉ ra những mặt được và chưa được trong
việc thực hiện mục tiêu bền vững; đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm PTKTBV trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau: tổng hợp tài liệu, tư liệu đã nghiên
cứu PTKTBV; tổng hợp một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc bảo đảm PTKTBV; sử dụng các công cụ
phân tích để làm rõ những thành tựu đã đạt được cũng như những mặt còn hạn chế của kinh tế Việt Nam trong việc vừa duy
trì tốc độ tăng trưởng cao, vừa bảo đảm tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế; từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị
để làm cho chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới được cao và ổn định, bền vững hơn, hạn chế những tác động tiêu cực
từ bên ngoài, nhất là tính chu kỳ của khủng hoảng trong kinh tế thị trường.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng trong Luận án
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam; các thành tựu khoa học trong kinh tế
chính trị nói chung và kinh tế học phát triển nói riêng. Luận án có sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, mô tả và so sánh, mô hình hóa, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của Luận án
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về PTKTBV, thông qua việc làm rõ các nội dung và các tiêu chí đánh giá
PTKTBV. Nghiên cứu PTKTBV là để rút ra bài học cho Việt Nam trong vấn đề phát triển
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, luận chứng những vấn đề đang đặt ra trong việc thực
hiện mục tiêu chiến lược là duy trì tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững, thực sự tác động tích cực và lan tỏa đến các
vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường và có cơ cấu kinh tế phù hợp phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Nội dung của
PTKTBV gồm cả yếu tố văn hoá, xã hội được xem là vấn đề mới.
- Đề xuất quan điểm và định hướng giải pháp cơ bản để kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững. Kết
quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và đào tạo trên lĩnh vực kinh tế
chính trị và lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, kinh tế học phát triển.
7. Kết cấu của Luận án:
Ngoài Lời nói đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương,
7 mục và 14 tiểu mục.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về PTKTBV.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam và những vấn đề đặt ra về phát triển bền vững.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm PTKTBV ở Việt Nam.
4
Chương 1. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế bền vững
1.1. Khái niệm và nội dung của phát triển kinh tế bền vững
1.1.1. Một số khái niệm và phạm trù cơ bản
1.1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là khái niệm chỉ quá trình chuyển nền kinh tề từ chậm phát triển sang nền kinh tế phát
triển, chứ không phải là phát triển kinh tế với nội dung tăng trưởng kinh tế hiện đại. Một khái niệm diễn tả quá
trình thay đổi về chất trong tiến trình kinh tế, đằng kia diễn tả sự tăng lên về lượng của một nền kinh tế. Không nên
đồng nhất phát triển kinh tế với tăng trưởng kinh tế, dù rằng tăng trưởng kinh tế là nội dung vật chất của phát triển
kinh tế.
1.1.1.2. Phát triển bền vững vàphát triển kinh tế bền vững
+ Phát triển bền vững:
Đinh nghĩa do Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển đưa ra trong báo cáo "Tương lai chung của
chúng ta" (1987) dường như nhận được sự tán đồng của đa số quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu về PTBV. Nội
dung của định nghĩa này là: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại song không
xâm hại tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai.
Vào thời điểm đó, người ta mới chỉ nhận thấy ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường; còn một thành tố vô
cùng quan trọng được tiếp tục nhận thức trong cả quá trình tiếp theo, đó là văn hóa.
PTKTBV ngày nay đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc ở nước ta, thậm chí còn trở thành một quan
điểm chủ đạo trong hoạch định chiến lược và chính sách phát triển của nhiều quốc gia.
Vậy PTKTBV được hiểu như thế nào, theo luận án thì:
- Là sự tăng trưởng về kinh tế một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững: mà chỉ cần cao ở mức vưà phải đồng
thời duy trì một cơ cấu kinh tế ngành một cách phù hợp và từng bước có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo đúng
xu thế đi lên.
1.1.1.3. Phát triển kinh tế bền vững - con đường tất yếu, hợp quy luật của phát triển
Trên thực tế, sự tăng trưởng của nhiều quốc gia không những không làm cho mọi người dân được hưởng
mà ngược lại còn gây ảnh hưởng xấu đến tính bền vững của sự phát triển.
Để tránh được điều đó thì mục tiêu đặt ra đối với mỗi quốc gia là “tăng trưởng phải có chất lượng”, nghĩa
là ngoài sự phát triển kinh tế còn bao gồm các tiêu chuẩn rộng hơn như là giảm đói nghèo, phân phối thu nhập bình
đẳng, môi trường sống cần được duy trì và phát triển.
Trong nội hàm của PTBV thì PTKTBV đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng chi phối đến các yếu
tỗ hợp thành chỉnh thể PTBV nói chung.
1.1.2. Nội dung của phát triển kinh tế bền vững
Các tiêu chí cơ bản đánh giá sự PTBV là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng
xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường.
Thứ nhất, mức tăng tương đối cao. Thứ hai, tăng trưởng cần bảo đảm tính ổn định. Thứ ba, tăng trưởng cần
bảo đảm chất lượng cao.
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Là việc phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng có lợi thế so
sánh, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu trên thế giới
+ Phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản
+ Phát triển kinh tế gắn với sử dụng nguồn lực hiệu quả và bảo vệ môi trường sinh thái.
Việc đánh giá và đo lường mức độ PTKTBV nói chung, KTBV nói riêng là rất phức tạp, đòi hỏi phải có
những nghiên cứu chuyên sâu Tuy nhiên, trong trường hợp không có hệ thống đầy đủ các chỉ tiêu PTBV thì có thể
đánh giá qua hệ thống một số chỉ tiêu định lượng và định tính thông qua việc phân tích, đánh giá các nhân tố tác
động đến PTKTBV.
Chất lượng tăng trưởng thể hiện trên nhiều tiêu chí đánh giá, nhưng tựu trung là ở chỗ người dân được thụ
hưởng bởi kết quả tăng trưởng đó như thế nào. Do đó chất lượng tăng trưởng có mối quan hệ hữu cơ với PTBV và
PTKTBV. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng của tăng trưởng
1.1.3. Các điều kiện bảo đảm phát triển kinh tế bền vững
1.1.3.1. Hoạch định chiến lược và kế hoạch
Về mặt lý thuyết, cương lĩnh, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đều là phương thức can thiệp của con
người, cụ thể là nhà nước nhằm hạn chế những biểu hiện bất ổn của nền kinh tế để PTKTBV, vừa bảo đảm các
5
mục tiêu chung, vừa làm cho các mục tiêu đó thích ứng với yêu cầu của thời đại mới, vừa phù hợp với điều kiện cụ
thể của nước ta.
1.1.3.2. Lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải có mục tiêu song không phải
bất chấp những khó khăn trở ngại để đạt mục tiêu mà phải biết dừng khi chuyển dịch không có hiệu quả chuyển đổi
sang mục tiêu khác hợp lý
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, các cấp, các cơ quan, doanh
nghiệp, các địa phương và cơ sở, không thụ động, ỷ lại.
1.1.3.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
Chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng được hiểu là chính sách huy động và phân bổ các nguồn lực
bằng tiền, tài sản vật chất và sức lao động. Kết cấu hạ tầng phát triển sẽ là điều kiện đảm bảo cho kinh tế tăng
trưởng nhanh, có khả năng cạnh tranh cao hơn trong kinh tế thị trường.
1.1.3.4. Vốn cho đầu tư phát triển
Vốn là yếu tố sản xuất cơ bản. Để tăng cường huy động nguồn vốn, đa dạng hoá hình thức huy động, sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn, trong đó đặc biệt là vốn đầu tư.
1.1.3.5. Trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Để tăng cường nguồn lực khoa học - công nghệ, cần thiết phải phát triển tiềm lực khoa học- công nghệ mà
trước hết là đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ; chú trọng đào tạo và sử dụng nhân tài; đa dạng hoá các loại hình
cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ; đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng; tăng cường
chuyển giao công nghệ; nhập và nội địa hoá công nghệ từ bên ngoài
1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực
Nhiều nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra rằng, chính trong kinh tế tri thức, con người đi đến một xã hội có
nguồn của cải dồi dào. Và chính sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã và đang thúc đẩy
mạnh mẽ sức sản xuất cũng như lực lượng sản xuất phát triển không ngừng.
1.1.3.7. Vấn đề thể chế và quản lý của Nhà nước
Năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước: là nhân tố rất quan trọng không chỉ đối với phát triển kinh tế
mà còn đối với việc bảo đảm tính bền vững. Theo các mô hình tăng trưởng nội sinh: "chính sách của Chính phủ có
tác động đến tăng trưởng dài hạn".
Để PTKTBV cần có các điều kiện và môi trường cần thiết đảm bảo như: môi trường chính trị, môi trường
pháp lý, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường văn hoá - xã hội v.v.
1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế bền vững
1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.2.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Là một nướcthiệt hại lớn trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản ngày nay là một siêu cường kinh tế
thứ hai của thế giới. Đạt được thành tựu đó, Nhật Bản đã thực thi các vấn đề như: chuyển đổi cơ cấu ngành liên tục,
tốc độ tăng trưởng kinh tế được chú ý …Những bài học cả thành công và thất bại của Nhật Bản về những vấn đề
này đều có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam chúng ta hiện nay.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Cho đến trước năm 1997 - Thái Lan là một trong số các quốc gia Đông Nam á duy trì được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và liên tục với mức bình quân 7%/năm. Thái Lan thực hiện điều chỉnh cơ cấu ngành theo mô
hình công nghiệp hoá rút ngắn,
Thái Lan đã thực hiện nhiều giải pháp, nhất là điều chỉnh lại cơ cấu ngành kinh tế, xây dựng hệ thống chính
sách ưu đãi năng động và thực tế, tự do hoá thương mại và giá cả triệt để theo cơ chế thị trường, khuyến khích sản
xuất, kinh doanh, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá sao cho phù hợp với điều kiện mới
1.2.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
+ Là một nền kinh tế chuyển đổi, Trung Quốc chú trọng cải cách thể chế, ban hành nhiều bộ luật, điều lệ,
sửa đổi hoặc huỷ bỏ những quy định đã cũ, lạc hậu (trái với các quy định WTO). Trung Quốc vận dụng tốt những
quy tắc bảo hộ của WTO để đảm bảo duy trì sản xuất ổn định trong mỗi doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh
tế.
6
+ Trung Quốc đã thực hiện bước đột phá trong cải cách cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước,
áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
1.2.1.4. Kinh nghiệm Malaysia.
Những năm 90 của thế kỷ 20 trở về đây, Malaysia hướng sang mục tiêu phát triển cân đối giữa tăng trưởng
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Là một nước phát triển sau nên Malaysia nhận thức khá tốt
trong việc hoạch định và đảm bảo chiến lược PTKTBV. Tóm lại, Malaysia đã đạt được những kết quả phát triển
đáng khích lệ trong suốt 4 thập kỷ qua.
1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
1.2.2.1. Những vấn đề chung về phát triển kinh tế bền vững qua kinh nghiệm của một số nước
Qua phân tích ở trên, chúng tôi có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm vắn tắt sau đây:
+ Kiên trì mô hình kinh tế thị trường mở và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế dựa vào tăng trưởng xuất
khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh “tĩnh” và “động”
của đất nước.
+ Phát triển cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá, lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù
hợp với tiến trình chuyển đổi cơ cấu ngành trong từng thời kỳ.
Như vậy, giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội và các vấn đề môi trường có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Vấn đề đặt ra cho chính phủ là phải giải quyết hài hoà các mối quan hệ này.
1.2.2.2. Kinh nghiệm cho công cuộc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
Huy động sức mạnh trí tuệ toàn dân tộc để xây dựng chiến lược PTKTBV: Kinh nghiệm của các quốc gia
đi trước cho thấy để thực hiện chiến lược PTKTBV, đòi hỏi các nguồn lực rất lớn, vì vậy việc phát huy sức mạnh
trí tuệ của toàn dân tộc là yếu tố then chốt và có tính chiến lược. Trong quá trình phát triển chúng ta phải xác định
rõ mục tiêu của PTKTBV, đó là mục tiêu phải hàm chứa nội dung đảm bảo ngày càng đầy đủ về vật chất, giàu có
về tinh thần; sự đồng thuận của xã hội và đảm bảo bình đẳng của mọi công dân.
Muốn vậy, đất nước phải có tiềm lực kinh tế, chính trị, có chiến lược và sách lược để ứng phó với mọi cuộc
cạnh tranh từ bên ngoài. cần thực hiện phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong các quan hệ đối ngoại để bảo
vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Bao gồm cả lợi ích của các thế hệ tương lai...
Kết luận chương 1
Khái niệm PTBV đã được ủy ban thế giới và môi trường phát triển đưa ra trong báo cáo “ Tương lai chung
của chúng ta” (1987) là: “ Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu của hiện tại song không
xâm hại tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai”.
Nội dung của PTBV bao gồm 3 vấn đề chính yếu và cơ bản, đó là: phát triển về kinh tế một cách bền vững;
phát triển kinh tế và lan tỏa ảnh hưởng đến vấn đề bảo vệ tốt môi trường sinh thái; phát triển kinh tế và sự lan tỏa
ảnh hưởng của nó đến việc nâng cao mức sóng của con người và an sinh xã hội.
PTBV có mối quan hệ mật thiết với PTKTBV, PTKTBV là điều kiện cần để có được PTBV.
Để đảm bảo PTKTBV cần chú ý đến những vấn đề sau:
a, Tăng trưởng kinh tế hợp lý, và có chất lượng cao, được duy trì trong khoảng thời gian dài.
b, Tăng trưởng kinh tế gắn với việc hình thành cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng phát
triển một cách hợp lý.
c, Phát triển kinh tế phải duy trì sự cân đối vỹ mô của nền kinh tế.
d, Sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội, đến xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam và những vấn đề đặt ra về phát triển bền vững
2.1. Quá trình đổi mới tư duy về phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
2.1.1. Khái lược về phát triển kinh tế Việt Nam trước đổi mới
2.1.1.1. Giai đoạn trước năm 1975.
Nhìn chung, đặc điểm cơ bản nhất của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này vẫn mang nặng tính tự sản tự tiêu, tự
cung tự cấp là chính, sản xuất với quy mô nhỏ, manh mún, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
2.1.1.2. Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976 đến 1986.
7
Tháng 12/1976 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đường lối phát
triển kinh tế đất nước trong giai đoạn mới là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, đưa nền kinh tế nước ta từ sản
xuất nhỏ lên sản suất lớn XHCN. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.
2.1.2. Những nội dung cơ bản về đổi mới tư duy PTKTBV ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay:
2.1.2.1. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Trên thực tế, tư duy nhận thức của Đảng luôn trong quá trình vận động phát triển không ngừng
Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) lần đầu tiên nhắc đến cụm từ: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) khẳng
định mô hình tổng quát của nền kinh tế nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…
2.1.2.2. Thay đổi nhận thức về chế độ sở hữu, chuyển từ chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang đa dạng hóa
các hình thức sở hữu, thay đổi các quan hệ quản lý nền kinh tế xã hội.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ VII nhấn mạnh định hướng phát triển của các đơn vị kinh tế: kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên đề cập đến việc từng bước thành lập các xí
nghiệp, các công ty cổ phần.
Tư duy trong các quan hệ quản lý cũng đã có một quá trình đổi mới và hoàn thiện rất mạnh mẽ, Đại hội lần
thứ VI của Đảng khẳng định thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
2.1.2.3. Phát triển nền kinh tế gồm nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, trong hớn 20 năm đổi mới, chế độ sở hữu và thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo vẫn là sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể, khẳng định chúng từng bước tạo thành nền tảng cơ bản của nền kinh tế XHCN, nhưng
đã có sự thay đổi từ chỗ đồng nhất kinh tế quốc doanh với doanh nghiệp quốc doanh đến việc tách riêng khái niệm
sở hữu nhà nước,
2.1.2.4. Đổi mới trong chính sách đối ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại, sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới vì hòa bình, tiến bộ.
Việt Nam đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước trên thế giới trên cơ sở lựa chọn chính sách đối ngoại khôn
khéo, phù hợp thế phát triển của thế giới và vẫn bảo đảm được tính độc lập tự chủ của mình
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể
chế kinh tế toàn cầu, khu vực lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
2.1.2.5. Nhấn mạnh quan điểm phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
bảo vệ môi trường sinh thái. Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường để sử
dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng CNXH.
2.2. Đánh giá về phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
2.2.1. Đánh giá về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế.
2.2.1.1. Đánh giá về tốc độ tăng trưởng kinh tế
Với mô hình kinh tế mới, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá cao và liên tục. Sự tăng trưởng GDP cả
nước cao dần từ ngay sau khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế năm 1986 (2,84%) và đạt mức cao nhất vào năm 1995
(9,54%), đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.
2.2.1.2. Đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn, tăng tỷ
trọng đóng góp của yếu tố lao động và tăng tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp. Tuy vậy,
năng suất lao động mặc dù liên tục tăng nhưng quy mô tuyệt đối vẫn còn thấp.
2.2.2. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội, môi trường
Luận án tập trung vào một số vấn đề sau:
2.2.2.1. Về các vấn đề xã hội:
Trên thực tế cho thấy tỷ lệ nghèo đã được giảm mạnh. Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo đã chậm lại
8
Nguyên nhân chính của những thành tựu to lớn nêu trên được xác định là tăng trưởng kinh tế cao và ổn định tạo
điều kiện thuận lợi cho xóa đói giảm nghèo
Ngoài ra, vẫn còn có những thách thức trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Đó là: Thành tựu xoá đói
giảm nghèo chưa vững chắc; Tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn, vùng núi và trung du còn cao; Khác biệt về đói nghèo
giữa các dân tộc còn lớn ; Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng
Khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội của người nghèo có tăng lên nhưng vẫn còn thấp.
Việt Nam được đánh giá đã đạt được thành tựu khích lệ với hệ thống giáo dục quốc gia thống nhất; quy mô ở
các cấp bậc học không ngừng tăng; loại hình đào tạo đa dạng.
2.2.2.2. Đảm bảo tính bền vững về môi tr−ờng
Luận án được trình bày khái lược về đặc tính bền vững của môi trường thông qua tác động tích cực của tăng trưởng
kinh tế
2.2.3. Đánh giá về cơ cấu nền kinh tế bảo đảm phát triển bền vững
* Về cơ cấu ngành kinh tế trong thu nhập quốc nội GDP: Xét theo 3 khu vệc lớn là Nông nghiệp, Lâm
nghiệp và Thủy sản; Công nghiệp và Xây dựng; Dịch vụ thì khu vức Công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng
trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung nên tỷ trọng của ngành trong tổng GDP cả nước đã tăng nhanh, nhất là từ
năm 1990. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt sang chăn nuôi (chiếm 18,1%
tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp).
Khu vực công nghiệp có vốn FDI đã vươn lên chiếm tỷ trọng cao đối với một số sản phẩm chủ yếu sản
xuất.
2.3. Những vấn đề đang đặt ra về phát triển kinh tế bền vững nền kinh tế việt nam
Việc nhìn nhận, đánh giá kết quả đạt được cùng như những thách thức trong thực hiện các mục tiêu
PTKTBV ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, mối quan hệ nhân quả giữa các mục tiêu phát triển kinh tế nhanh
đang làm cho vấn đề nâng cao hiệu quả và bền vững nền kinh tế gặp nhiều thách thức.
2.3. Những vấn đề đặt ra về PTKTBV nền kinh tế Việt Nam
2.3.1. Tăng trưởng chưa đạt mức tiềm năng, tốc độ tăng trưởng có nguy cơ suy giảm trong tương lai do chất
lượng tăng trưởng ở trình độ thấp.
Theo đánh giá, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua vẫn chủ yếu là theo chiều rộng,
tính hợp lý trong sử dụng các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng cũng chưa cao. Để thực hiện tăng trưởng nhanh,
chúng ta đã phải dốc sức vào đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước và nỗ lực kềm chế giá cả bằng các biện pháp kể cả
hành chính, Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm chạp thể hiện trình độ phát triển thấp của nền kinh tế
2.3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm chạp thể hiện trình độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Trong những năm cải cách nền kinh tế vừa qua, cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi theo hướng tiến bộ, nhưng
chưa nhanh.
2.3.3. Hiệu ứng lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội chủ yếu chưa bền vững.
GDP bình quân đầu ng−ời vẫn thuộc nhóm n−ớc có thu nhập thấp (năm 2006 mới đạt khoảng 750 USD,
năm 2007, 2008 đạt trên 900 USD).
- Kết quả công tác xoá đói giảm nghèo ch−a bền vững.
- Hệ thống giáo dục và đào tạo còn nhiều điểm yếu kém. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó
khăn; chi phí học tập còn cao so với khả năng thu nhập của dân c−, nhất là đối với ng−ời nghèo, con em nghèo. -
Khoảng cách về giới vẫn tồn tại, vẫn còn những định kiến giới và t− t−ởng trọng nam giới hơn phụ nữ. Công tác
chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều bất cập. Hệ thống và chất l−ợng dịch vụ y tế ch−a đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của nhân dân.
Kết luận chương 2
Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam được chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất: Việt Nam đã lựa chọn cho mình những mô hình phát triển kinh tế như sau{ mô hình
phát triển kinh tế nhấn mạnh sự công bằng xã hội; mô hình phát triển kinh tế XHCN theo kiểu tập trung mệnh lệnh;
mô hình phát triển kinh tế thời chiến … đó là những mô hình phát triển kinh tế theo kiểu không bền vững. Đây
chính là giai đoạn chúng ta gặp phải những khó khăn trong phát triển kinh tế.
Giai đoạn thứ 2: chúng ta đã đạt được những thành công nhất định nhưng còn hạn chế ở những vấn đề sau:
Chất lượng và hiệu quả tăng trưởng còn thấp, năng lực cạnh tranh quốc gia còn chưa cao, thậm chí thường
xuyên bị xuống hạng. Chúng ta đã tạo ra được sự phát triển kinh tế nhưng chưa gắn chặt với việc bảo vệ môi
trường,, đặc biệt là môi trường sinh thái, không đản bảo duy trì sự phát triển bền vững về kinh tế.
9
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
3.1. Bối cảnh mới và quan điểm về phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
3.1.1.1. Nền kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển mới, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đang
diễn ra mạnh mẽ.
Khoa học - công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có vai trò quyết định đến sự phát triển
kinh tế.
3.1.1.2. Tương quan sức mạnh kinh tế thế giới thay đổi.
Sự thay đổi tương quan sức mạnh hiện nay giữa các cường quốc và khu vực có ảnh hưởng rất mạnh đến
tiến trình phát triển của mỗi nước. Sự thay đổi tương quan sức mạnh kinh tế thế giới đang ảnh hưởng lớn tới chính
sách, chiến lược phát triển kinh tế của các nước trên phạm vi toàn thế giới.
3.1.1.3. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Đông á, làm xuất hiện xu hướng phát triển mới của khu
vực.
Cuộc khủng hoảng này đã và đang đặt ra nhiều vấn đề vừa có tính chất cơ bản lâu dài đối với một mô hình
tăng trưởng cần lựa chọn, lại vừa cấp bách trong ứng xử tình huống. Những thay đổi trên đây sẽ ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi về thế và lực: Cấu trúc kinh tế mới,
tiềm lực mới, thế phát triển mới, động lực mới và lực lượng chủ thể phát triển mới. Những thuận lợi và thời cơ đó
là cơ sở quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững.
3.1.3. Quan điểm về phát triển kinh tế bền vững.
3.1.3.1. Về tăng trưởng kinh tế
+ Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng, tử đó có sự thay đổi trong cách tiếp cận hệ chính sách và giải
pháp giải quyết vấn đề.
Trước hết và đóng vai trò quyết định là có một tư duy đúng về mô hình tăng trưởng cần hướng tới. Cốt lõi
của tư duy này là: Giải quyết vấn đề tốc độ tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề chất lượng tăng
trưởng. + Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có nhiều lợi
thế về nguồn tài nguyên và nguồn lao động.
+ Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng.
+ Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng chịu ảnh hưởng.
3.1.3.2. PTKTBV và chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế phải dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các
lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
3.1.3.3. Phát triển kinh tế bền vững và chuyển đổi nhanh cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình tăng
trưởng hướng vào xuất khẩu.
Chiến lược tăng trưởng nhanh, bền vững, lấy tăng trưởng xuất khẩu làm một trong những động lực chủ yếu
vừa là đòi hỏi khách quan, vừa có khả năng hiện thực ở nước ta.
3.1.3.4. Phát triển nền kinh tế và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân phải đảm bảo ổn định
chính trị – xã hội và PTBV.
Phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều
kiện hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và quốc tế là cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế nhanh, và bền vững.
3.1.3.5. Phát triển kinh tế bền vững và chuyển đổi cơ cấu ngành cần phải nhằm mục tiêu tạo nhiều
công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Nguồn lao động dồi dào là nguồn nội lực quan trọng và cũng là vấn đề xã hội rất lớn, do đó giải quyết việc
làm là một thách thức gay gắt trong thời gian tới đối với nước ta. Giải quyết công ăn việc làm là yếu tố quyết định
để phát huy yếu tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.
3.2. Những định hướng giải pháp cơ bản bảo đảm phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
Luận án đưa ra các giải pháp chủ yếu trong chỉ đạo thực hiện các mục tiêu PTKTBV trong thời gian tới
bao gồm:
3.2.1. Tiếp tục tạo môi trường chính trị - xã hội, pháp lý thuận lợi và ổn định:
10
Bước sang thời kỳ phát triển mới, những nội dung cần phải thực hiện là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
và vai trò của nhà nước để tiếp tục đổi mới hơn nữa cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tư tưởng, đặc biệt là đổi
mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính quốc gia.
- Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc độc lập chủ quyền của quốc gia, đa
phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại - Cải cách hành chính và bộ máy nhà nước.
3.2.2. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển.
Công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời gian tới, công tác quy hoạch phải
được đổi mới theo hướng nhà nước xây dựng và thực hiện quy hoạch “cứng” nền KTQD, còn doanh nghiệp thực
hiện quy hoạch “mềm”. - Quy hoạch định hướng theo chiến lược cơ cấu.
Chuyển biến mạnh mẽ trong chính sách đầu tư theo hướng khắc phục sự thiên lệch trong đầu tư, tạo điều
kiện khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài.
3.2.3. Phát triển khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển nền kinh tế và thúc
đẩy chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế nước ta.
Ngày nay, khoa học - công nghệ, có vai trò hết sức quan trọng đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế nói
chung và trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá “rút ngắn
3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động thương mại nhằm phát triển kinh tế và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành
kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế quản lý thương mại thích ứng với quá trình phát triển
sản xuất và chuyển đổi cơ cấu ngành, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu:
Chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu phải phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế.
3.2.5. Hoàn thiện thể chế, chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu
ngành kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Phát triển đồng bộ các loại thị trường:
Cơ chế thị trường cạnh tranh có tác động trực tiếp tới phát triển nền kinh tế và chuyển đổi cơ cấu ngành
kinh tế trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
3.2.6. Những giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế.
Thứ nhất, về lý luận và nhận thức: Cần nghiên cứu xác định rõ vai trò của kinh tế nhà nước và doanh
nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN.
Thứ hai, xúc tiến mạnh mẽ và kiên quyết hơn quá trình đa dạng hoá sở hữu của các doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, Thực hiện các giải pháp hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
3.2.7. Những giải pháp nhằm bảo đảm sự công bằng trong phát triển, giảm bớt sự phân hóa giàu -
nghèo và chênh lệnh mức sống nông thôn - thành thị.
Quản lý tốt vấn đề di cư nông thôn, thành thị. Các biện pháp trợ cấp, ưu đãi thuế, kiểm soát giá và các biện
pháp ưu đãi khác có thể được áp dụng nhưng cần hết sức thận trọng và phải đưa ra mục tiêu, lộ trình rõ ràng nhằm
tránh khủng hoảng về ngân sách cũng như chính trị.
Chính phủ nên quan sát, theo dói sát sao các chỉ số về phát triển con người HDI, để có những điều chỉnh
kịp thời khi cần thiết.
3.2.8. Những giải pháp nhằm công khai, minh bạch thông tin kinh tế để dự báo và cảnh báo kịp thời
những tác động tiêu cực đến tính bền vững của phát triển kinh tế.
Trước mắt, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Làm cho tổ chức này
có được những mối liên hệ với các cơ quan và các tổ chứcđã có trong hệ thống tài chính; Có các chuyên gia lành
nghề về phân tích, dự báo và cảnh báo sớm những biểu hiện ảnh hưởng tiêu cực đến nền tài chính, tiền tệ quốc gia.
Kết luận chương 3
Trong điều kiện hiện nay, khi mà bối cảnh quốc tế và bối cảnh trong nước có nhiều thay đổi đã và sẽ có
nhiều ảnh hưởng đến các biện pháp hay giải pháp để thực hiện PTKTBV nhằm thực hiện những yêu cầu của
PTBV. Qua thực tiễn của hoạt động kinh tế và sự lan tỏa của kết quả tốt của hoạt động kinh tế còn chưa đảm bảo
tính bền vững của sự phát triển. Trước hết đòi hỏi phải có những thay đổi của những quan điểm trong điều kiện
mới. Các định hướng giải pháp được trình bày trong luận án đã đưa ra những định hướng giải pháp có sức thuyết
11
phục để đảm bảo sự PTKHBV ở Việt Nam. Sự thay đổi và đưa ra các giải pháp là một tất yếu để cho nền kinh tế –
xã hội của Việt Nam được PTBV, mà trong đó, trước hết là PTKTBV.
KẾT LUẬN
PTKTBV là một khái niệm tuy mới nhưng rất nhanh chóng trở thành một vấn đề được nhiều học giả quan
tâm và nghiên cứu từ nhiều mặt, từ nhiều mối liên hệ với các khái niệm khác. Trong luận án náy, PTKTBV được
nghiên cứu một cách có hệ thống cùng với các khái niệm Tăng trưởng; Phát triển; PTBV.v.v. qua đó đưa ra được
khái niệm và mối quan hệ giữa PTKTBV với PTBV cũng như sự tác động của phát triển kinh tế đủ sức lan toả đến
các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường .
Qua nội dung đã trình bày, Luận án có thể rút ra được các kết luận chính sau:
1, Nội dung của định nghĩa này là: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại song
không xâm hại tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai".Việc này cần phải được đảm bảo bằng sự tăng
trưởng kinh tế đạt được cả về chất và về lượng.
+ Tiêu chí để đánh giá một nền kinh tế được coi là tăng trưởng có chất lượng hay không chỉ khi đảm bảo
được 2 yếu tố sau:Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng cao cần được duy trì trong dài hạn.Thứ hai, tăng trưởng đó phải
đóng góp trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ PTKTBV hiểu theo nghĩa rộng: chính là phát triển kinh tế thể hiện sự lan tỏa tích cực của nền kinh tế
đến bền vững vể văn hóa, xã hội và bền vững môi trường. PTKTBV là yêu cầu đòi hỏi phải đạt được của sự PTBV.
Từ đó có nhiều quan niệm khác nhau nhưng có một điểm chung đó là sự tiến bộ của một đất nước phải
được đánh giá trên ba mặt, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và đảm bảo môi trường môi sinh. Từ đó thực hiện tốt
tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất
lượng môi trường và thu nhập, giứ gìn và phát triển văn hoá, xã hội.
2, Luận án phân tích thực tiễn quá trình phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới, căn cứ vào phân tích,
chúng ta có được những vấn đề sau::
+ Điểm xuất phát trong đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam trước hết là nhận thức đúng quy luật phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Thực hiện đa dạng hoá sở hữu, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
tổ chức sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.. Mô hình kinh tế mới đó là nền kinh tế mở, hội nhập khu
vực và toàn cầu theo nguyêntắc vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đảm bảo tính độc lập tự chủ.
+ Hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt khá cao (bình quân hàng năm trên dưới đạt 7%).
Tuy nhiên chưa đạt mức tiềm năng, tốc độ tăng trưởng có nguy cơ suy giảm trong tương lai do chất lượng tăng
trưởng ở trình độ thấp. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm.
+ Hiệu ứng lan toả của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề chủ yếu của xã hội chưa bền vững: các cân đối
ngành trong nền kinh tế còn có những vấn đề bất cập, nguy cơ xuất hiện những vấn đề như tái nghèo, khả năng mất
việc làm cao, sự phân biệt giàu nghèo còn quá chênh lệch…
3, Trong điều kiện hiện nay, khi có nhiều sự thay đổi của tình hình kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang xảy ra với diến biến ngày càng phức tạp. Để có được sự PTKTBV đảm
bảo cho PTBV của Việt Nam, cần phải chú ý đến một số quan điểm và giải pháp chủ yếu sau:
a, Quan điểm:- Phải thực sự có được thay đổi về tư duy phát triển kinh tế mới thực hiện được tăng trửng kinh tế
một cách vững chắc. Đây là vấn đề quan trọng có tính chất quyết định để có sự chuyển biến mạnh về kinh tế, xã
hội. PTKTBV và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên cơ sở khai thác những lợi thế so sánh và nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường , theo hướng phát triển xuất khẩu, vấn đề quan trọng là phải đảm bảo sự ổn định
chính trị - xã hội và PTBV….
b, Định hướng giải pháp: Luận án đưa ra một nhóm các giải pháp sau đây:- Tiếp tục tạo môi trường chính trị - xã
hội, môi trường pháp lí thuận lợi và ổn định; Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; Phát
triển khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển nền kinh tế, văn hoá và xã hội; Hoàn thiện
thể chế chính sách kinh tế và phát triển kinh tế đối ngoại để tăng cường việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.; Thực hiện minh bạch về tài chính, có sự kiểm soát và đôn đốc của cơ
quan chuyên trách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Với những sự nỗ lực, huy động mọi lợi thế, tiềm năng của đất nước, thực hiên tốt các nội dung của
PTKTBV, trong tương lai, Việt Nam sẽ đạt được các tiêu chí của nước phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam.pdf