Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế(kt) tự nhiên và chuyển sang nền kt sản xuất hàng hóa. Nền kt hàng hoá phát triển càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền KTTT. KTTT có những ưu việt của nó , đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người vói một khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế , nhất là trong chế độ xã hội TBCN , một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được chú trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ. Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền Bắc , Đảng đã xác định đưa đất nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kt với đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền KTTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng. Cho tới nay, sau gần hai mươi năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều những mặt cần điêù chỉnh. Qua nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: "Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" Đây là một đề tài rất rộng mang tính khái quát cao, mặc dù rất cố gắng, song bài viết của tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.

doc13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8038 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN: MÔN TRIẾT HỌC – KINH TẾ CHÍNH TRỊ - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC LỜI NÓI ĐẦU Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế(kt) tự nhiên và chuyển sang nền kt sản xuất hàng hóa. Nền kt hàng hoá phát triển càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền KTTT. KTTT có những ưu việt của nó , đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người vói một khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế , nhất là trong chế độ xã hội TBCN , một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được chú trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ. Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền Bắc , Đảng đã xác định đưa đất nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH.    Đại hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kt với đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền KTTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng. Cho tới nay, sau gần hai mươi năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều những mặt cần điêù chỉnh.           Qua nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: "Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" Đây là một đề tài rất rộng mang tính khái quát cao, mặc dù rất cố gắng, song bài viết của tôi sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô xem xét và góp ý để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.                                                     Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG I – QUÁ TRÌNH CHUYỂN KINH TẾ VIỆT NAM SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: 1) Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới. Nền KTTT ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Sự định hướng của xã hội hùng mạnh lấy cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại. Sự định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền KTTT không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đại hội đảng VIII đã khẳng định: “ cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN ”. 2) Quan điểm của Đảng & Nhà nước về việc chuyển nền KT nước ta sang KT hàng hoá.  Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá. Chỉ thị 1000 của ban bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.  Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp thành nền kinh tế hàng hoá(KTHH). Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hoá mà là cả một nền KTHH coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất lớn XHCN ở nước ta.                     Tuy nhiên, lúc này vẫn coi kế hoạch là đặc trưng số một, quan hê hàng hoá tiền tệ ở vị trí số hai. Đại hội VII của Đảng đã tiến xa hơn, cho rằng “Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn linh hoạt các mặt hàng quy mô, công nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hợp tác và cạnh tranh ”. Rồi “Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế. ” Nền kinh tế Việt Nam đang bước sang một trang mới, một quá trình phát triển lịch sử mới. Do vậy việc lựa chọn kinh tế thị trường là đúng đắn vì nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nó là hình thức phát triển cao của KTHH. Theo Mác: “sản xuất và trao đổi hàng hoá là một nét chung cho hình thái kinh tế xã hội hết sức khác nhau ”. Mặt khác ở nước ta đã có những bước xây dựng và đạt được một số thành tựu trong quá trình phát triển KTHH. Nên việc chuyển sang KTTT là một điều đương nhiên. Mặt khác, KTTT và chủ nghĩa xã hội có thể dung hòa. Chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể chế kinh tế. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu XHCN, xã hội có thể thực hiện được thể chế KTTT, nếu sở hữu nhà nước được phân giải thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt ( Trong đó nhà nước đại diện cho chủ sở hữu nắm giữ quyền chiếm hữu còn quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp) sẽ hình thành nền KTTT. Tuy vậy, trong việc phát triển nền KTTT ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt gia là giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu thất nghiệp. 3) Quá trình chuyển kinh tế hàng hóa sang kinh tế thị trường ở việt nam Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN: Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là nghị quyết BCHTW lần VI (khóa IV), tháng 9 năm 1979. Về mặt logic thì bắt đầu từ việc hình thành và cũng cố những đơn vị sản xuất hàng hóa theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa phụ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Giai đoạn này mang nội dung chủ yếu là khắc phục tính hiện vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hóa tiền tệ. Cùng với nội dung ấy là các giải pháp chủ yếu sau: - Hình thành và cũng cố những đơn vị sản xuất hang hóa nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hóa tiền tệ. - Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. - Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như ổn định chính trị xã hội. Thúc đẩy nghành trọng điểm mũi nhọn tạo sự tích lũy đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài và tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Hiện nay ở nước ta đầu ra của sản xuất. khả năng cạnh tranh của hàng nội địa còn kém nên cần nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đầu giảm giá cả hàng hóa, còn ở thị trường đầu vào của sản xuất cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền vốn và thị trường lao động. Sở dĩ cần như vậy là vì trình độ thị trường là phản ánh trình độ phát triển của cơ chế hàng hóa, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển hơn. Nó vừa là điều kiện vừa là môi trường của sản xuất. - Hoàn thiện và căng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ. - Bồi dưỡng và đào tạo các bộ quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu của kinh tế thị trường. - Tăng cường vai trò của quản lý Nhà Nước nhằm phát huy những ưu thế khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. II – THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM KHI CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: 1) Thực trạng: Khi chuyển sang KTTT, chúng ta đứng trước thực trạng là: đất nước đang từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chụi ảnh hưởng nặng lề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với điểm xuất phát ấy có thể thấy rằng: nền kinh tế nước ta không hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên nữa nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hóa theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác do đổi mới kinh tế nên nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thi trường, là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và còn chịu nặng lề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất: Kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự nhiên, sự yếu kém của kinh tế hàng hóa của nước ta còn thể hiện ở chỗ: - Trình độ cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn kém. - Hệ thống kết cấu, phục vụ sản xuất và phục vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường trong nước và chưa có khả năng mở rộng giao lưu với thị trường thế giới. - Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cầu kinh tế nông nghiệp. - Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị trường ở ước ta còn ở trình độ thấp với tính chất còn hoang sơ,dung lượng thị trường còn thiếu và có phần dối loạn, mới từng bước có thị trường nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Mà về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc mới chỉ có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ mà phần lớn sử dụng lao động theo biên chế. Ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn hoặc đã có nhưng mới chỉ ở mức độ thô sơ. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khác quan trình độ phát triển của phân công lao động thấp. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Với những quan niêm quy tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là hàng hóa đặc biệt không được mua bán tự do, lại do quản lý theo chuyền dọc, theo chức năng kinh doanh của từng nghành một cách máy móc dẫn đến hiện tượng cửa quyền cắt đứt mối quan hệ tự nhiên giữa các nghành dẫn đến thị trường bị chai cắt, manh mún. Từ đó ta thấy với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cự xảy ra trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bước tiến bộ về kinh tế hơn hẳn trước đây và tạo ra khả năng dẫn tới các bước ngoặt quyết định. Vì vậy phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày cang thông suốt, đầy đủ và thống nhất trên cả nước, ngắn liền với thị trường nước ngoài. Năng suất lao động và thu nhập quốc dân theo đầu người còn thấp, như vậy rõ ràng là nền kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển. Thứ hai: ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Chính những nhược điểm lạc hậu của cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, nó xóa bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ làm nền kinh tế bị “hiện vật hóa”. Một cơ chế lệch kế hoạch, lệch giá cả, tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch, một cơ chế mà phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hóa mà dù có được sử dụng thì cũng chỉ là hình thức, gần như đối lập với nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường. Ở mặt quan hệ tổ chức hành chính cơ chế kinh tế ấy là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại điều hành bởi nhiều đầu mối của các nghành chức năng nên mang tính chất phân tán. Ở mặt quan hệ kinh tế, cơ chế ấy thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như là ở khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, suy yếu, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, gây hiện tượng ỉ lại, dựa dẫm, lười biếng, tạo môi trường cho lãng phí thất thoát tài sản quốc gia, cản trở việc phát triển đời sống và phát triển sản xuất. Vì vậy Đại Hộ Đảng Khóa VII đã khẳng định: “Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động… Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong nước và với thị trường thế giới”. 2) Ưu nhược điểm của cơ chế thị trường: Ưu điểm: Với cách hiểu như trên ta có thể thấy KTTT có một số ưu điểm như sau: - KTTT thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động làm cho sản phầm hàng hóa phong phú đa dạng, giá thành hạ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh. Bởi mục đích của người sản xuất hàng hóa là có lãi cao nhất, do đó học phải làm thế nào để có giá trị cá biệt của hàng hóa là thấp nhất. Muốn vậy họ phải tăng năng suất lao động. Vì vậy phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, tổ chức quản lý sản xuất trong đó yếu tố quan trọng nhất, yếu tố có tính chất quyết định là kỹ thuật. Cải tiến kỹ thuật lúc đầu ứng dụng ở từng người, từng xí nghiệp sau lan rộng ra toàn xã hội làm xuất hiện một nghành mới. Và như vậy lực lượng sản xuất lại phát triển thêm một bước. - KTTT thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển nhanh chóng làm cho sự chuyên môn hóa và hợp tác hóa ngày càng cao. Do đó, quá trình xã hội hóa sản xuất, xã hội hóa lao động phát triển nhanh. Đó là xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại. - KTTT thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất cao độ, các mối quan hệ kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh. Nhược điểm: Mặc dù với những ưu điểm không thể phủ nhận như trên, nền kinh tế thị trường cũng không tránh khỏi những khuyết tật cố hữu. - Trong nền KTTT lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích của các chủ thể kinh tế. Vì lợi nhuận kích thích các chủ kinh tế năng động, ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề làm sản phẩm hàng hóa phong phú đa dạng mà giá trị lại xuống. Nhưng cũng vì lợi nhuận, họ bất chấp những thủ đoạn, những gian trá giả dối trong kinh doanh. Bản thân họ thì được lợi nhưng cái lợi đó so với những thiệt hại đồng thời gây ra cho người tiêu dùng và toàn xã hội là quá nhỏ bé không thể bù đắp. Mục tiêu kinh tế của đất nước không thể thực hiện được. Về kinh tế thì như vậy còn đạo đức tình người trong xã hội cũng bị xem nhẹ và lãng quên. - Bản chất thị trương là bất bình đẳng, kẻ mạnh thì sống, kẻ yếu thì chết. Trong cạnh tranh ai không cải tiến kỹ thuật, năng suất thấp, giá trị cao thì lỗ, trở thành người nghèo và ngược lại. Qua đó sự phân hóa giàu nghèo gia tăng mà tệ nạn xã hội cugnx dễ phát triển. - Nền KTTT có cơ cấu không hợp lý, mất cân đối. Những nghành nghề nào trong xã hội đem lại lợi nhuận cao sẽ có nhiều người tham gia và ngược lại. Bởi trong cơ chế thị trường sự gia nhập hay rút lui khỏi một nghành nghề, lĩnh vực là tự do. - KTTT tạo sự ô nhiểm môi trường. Do mục đích người sản xuất là lợi nhuận cao nhất, họ phát tiết kiệm chi phí triệt để. Những chất thải độc hại trong quá trình sản xuất chưa có tác động trực tiếp đến họ không được xử lý. Ô nhiểm môi trường sống chung quanh chúng của toàn xã hội là tất yếu. - Cũng do một phần các nguyên nhân trên nền KTTT không tránh khỏi những đợt sóng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, suy thoái về kinh tế. KTTT phải gắn với thị trường, thông qua thị trường người sản xuất mới biết được hàng hóa của mình có được xã hội chấp nhận hay không. III – VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG NỀN KTTT: Trước đây do sai lầm về nhận thức, ta gắn kinh tế thị trường với CNTB là đối lập với kế hoạch hóa và áp dụng máy móc mô hình quản lý kinh tế tập trung, bỏ qua còn đường sản xuất hàng hóa và duy trì khá dài kiểu sản xuất tự cung tự cấp. Việc trao đổi hàng hóa bị hạn chế trong phạm vi quốc gia và giữa các nước XHCN với nhau dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đó chính là lý do vì sao ta cần phải đồi mới và kết quả ban đầu của sự đổi mới khẳng định sự sáng tạo của toàn dân ta và tư duy của Đảng. CNXH là ước mơ của dân ta từ lâu và là lý tưởng của Đảng, nó bao trùm trong cấu trúc về chính trị - kinh tế - xã hội, không thể tách bạch những đặc trưng của nó trong hệ thống mục tiêu, cơ cấu và cơ chế kinh tế mà chúng ta hướng tới: đó là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh và dân chủ. Giai đoạn hiện nay ở nước ta vừa phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa phải giải quyết chống nghèo nàn và thất nghiệp. Do đó các nhân tố xã hội phải thường xuyên giải quyết đi liền với các nhân tố kinh tế để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là nguồn gốc cho sự phát triển xã hội và ngược lại, phát triển xã hội chính là động lực cho sự phát triển kinh tế. Nhà nước cần điều chỉnh các hình thức sở hữu và cách phân phối sẽ tạo ra một cơ chế kinh tế mới trong nền kinh tế nước ta. Đồng thời phải đầu tư phát triển các doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác để hỗ trợ, giải quyết việc làm và làm phát triển kinh tế. Hợp tác xã phải được phát triển trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng dưới dạng cổ phần và liên doanh…, kinh tế tư nhân được phát triển bình đẳng và có thể đan xen vào các thành phần kinh tế khác. Quá trình vận dùng nền kinh tế ở nước ta sẽ tạo một cơ cấu kinh tế mới, cơ cấu đó có một phần do tự điều chỉnh và một phần do Nhà Nước điều tiết để có sự ổn định và cân bằng mới. Đặc tính của cơ cấu kinh tế này là nó phải thể hiện được tính xã hội hóa ngày càng cao, tính cộng đồng trong sản xuất, kinh doanh ngày càng được mở rộng, quy mô các loại và công trình công cộng ngày càng lớn và được sử dụng có hiệu quả gắn chặt với tốc độ phát triển kinh tế. Nhà Nước với chức năng của mình sẽ góp phần tích cực tạo lập, nuôi dưỡng và quản lý nền kinh tế đặc trưng quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta, đảm bảo công bằng, ổn định và tăng trưởng. Cơ chế thị trường có khả năng tự điều chỉnh nền kinh tế phát triển nhưng nó có những khuyết tật là sụ phân biệt giàu nghèo, môi trường và phúc lợi xã hội. Bởi vậy cần có sự can thiệp của nhà nước để kinh tế phát triển theo đúng hướng của nó. Nhưng nước ta được hình thành và phát triển do quá trình đầu tranh cách mạng của nhân dân ta, nhà nước đó phải mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Bởi vậy nó phải đóng vai trò bà đỡ giúp cho thị trường phát triển đúng hướng bằng hệ thống pháp luật bảo về quyền tự do, dân chủ, sự công bằng xã hội. Chúng ta đi vào nền KTTT có nhiều thử thách nhưng cũng có những thuận lợi và cơ hội tốt. Hiện tại sự cách biệt trong nền kinh tế nước ta giữa các tầng lớp dân cư là không quá lớn, khoảng cách giữa giàu và nghèo là không quá xa. Cần khuyến khích mọi người làm giàu một cách chân chính, cấm sự phi đạo đức ảnh hưởng đến đời sống của toàn xã hội. Quá trình chuyển nền kinh tế ta vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN là kết quả lao động trí tuệ do quần chúng nhân dân sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Con đường đi lên còn phải trải qua nhiều thử thách và cam go nhưng đoàn kết trong cộng đồng dân tộc sẽ tạo ra sự phát triển và ổn định về mọi mặt. Đó là nhân tố để phát triển bền vững đất nước ta. IV - GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN KTTT CỦA NƯỚC TA: Các biện pháp đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường. Phát triển KTTT theo định hướng XHCN là một tiến trình phức tạp lâu dài và khó khăn.Khi hình thành nền KTTT cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và khó nắm bắt,đồng thời nếu như không định hướng tốt thì cơ chế thị trường sẽ bị chệch hướng.Do đó để tiếp tục giữ vững định hướng XHCN trong khi đổi mới cơ chế cần thực hiện một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phát triển bên vững của toàn bộ nền kinh tế,đồng thời phải giữ đúng hướng đi của nền khinh tế.Giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiên trên chính là việc đề cao vai trò của của kinh tế nhà nước,bên cạnh đó là các thành phần kinh tế tư nhân,cá thể được phát triển mạnh,cần phát huy tính tích cực định hướng nền kinh tế của các thành phần kinh tế nhà nước. Muốn làm được những điều đó cần : Một là: Giữ vững quyền sở hữu trong tay nhà nước- chỉ nhà nước là duy nhất có quyền sở hữu toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Hai là: Nhà nước xác định rõ những ngành kinh tế ,những lĩnh vực mà kinh tế quốc doanh cần nắm vai trò chủ đạo.Đó là những ngành,những lĩnh vực đảm bảo sự chi phối hoạt động thống nhất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân,đảm bảo cho an ninh quốc gia và an toàn xã hội như : hệ thống cảng biển,sân bay,đướng sắt,quản lý mạng lưới đường quốc lộ,hệ thống phân phối điện quốc gia,liên lạc viễn thông,hệ thống quỹ dự trữ quốc gia, các cơ sở kinh tế phục vụ quốc phòng an ninh,những cơ sở công cộng đảm bảo nhu cầu sinh hoạt thường xuyên của nhân dân… Ba là: Nhà nước đầu tư xây dựng mạnh các xí nghiệp quốc doanh khẳng định cần tồn tại để mau chóng vượt lên và đứng vững trên thị trường,cơ sở vật chất,trang thiết bị công nghệ,tổ chức quản lý sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh được đầu tư xứng đáng từ đó đứng vững trong cạnh tranh với các doang nghiệp tư nhân. Bốn là: Hỗ trợ việc xây dựng và hoạt động của kinh tế HTX trong các ngành và lĩnh vực kinh tế với đa dạng hình thức tổ chức và hoạt động đảm bảo đúng với các nguyên tắc hợp tác vì lợi ích tập thể. Năm là: Tổ chức lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán nhằm cung ứng hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm cho các vùng miền núi và trung du ,các vùng đồng bào dân tộc ít người ,xa xôi hẻo lánh,hải đảo…để đảm bảo công bằng xã hội và các mục tiêu kinh tế-xã hội-chính trị trong phát triển bảo vệ quyền lợi người lao động. Sáu là: Có cách chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các doang nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ.Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm,dịch vụ.Đồng thời có những chính sách ngăn chặn những hoạt động làm hàng giả ,hàng kém chất lượng,cấm nhập thiết bị cũ thuộc diện dảo thải của nước ngoài. Bảy là: Thực hiện hệ thống chính sách xã hội để hạn chế bớt những tác động xấu của KTTT đến đời sống của các tầng lớp nhân dân,đảm bảo xã hội đối với từng đối tượng lao động ,chính sách ưu đãi với những người có công với đất nước ,chính sách bảo trợ xã hội với những người có nhiều khó khăn thua thiệt vì tật nguyền,cô đơn vô gia cư,những dân tộc ít người… Tám là: Xây dựng và tuyên truyền giáo dục thực hiện các hành vi và thái độ ứng sử văn hóa, đạo đức lành mạnh trong các hoạt động sản xuất,kinh doanh doanh ,dịch vụ,phục vụ,quản lí đời sống xã hội. Những biện pháp vừa đảm bảo yêu cầu trong đường lối lãnh đạo của Đảng,trong chức năng quản lý của nhà nước vừa đáp ứng trong mong muốn của mọi người dân được sống ngày càng hạnh phúc trong xã hội công bằng văn minh định hướng XHCN được giữ vững. Tuy nhiên để các biện pháp này được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả thì cần đề cao vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình thựck hiện định hướng XHCN. KẾT LUẬN Việt nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên CNXH đó là một thời kỳ phức tạp và đầy biến động ,một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho CNXH để hoàn thành cách mạng dân chủ. Với điểm xuất phát thấp,điều kiện kinh tế khó khăn và nhiều trở ngại.Muốn phát triển kinh tế bền vững ta thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một phần tất yếu và cần thiết.Để tiếp tục thực hiện ta cần có định hướng cho nền kinh tế phát triển ,nhất là KTTT buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn đó là xây dựng CNXH.Chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiện từng bước việc chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngàng càng hoàn chỉnh bộ mày Nhà Nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa nước ta đi theo con đường XHCN như đã chọn. MỤC LỤC TRANG LỜI NÓI ĐẦU 1 NỘI DUNG 2 Quá trình chuyển đổi kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường 2 Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới 2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế hàng hóa. 2 Quá trình chuyển kinh tế hàng hóa sang kinh tế thị trường ở Việt Nam 3 Thực trang của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường 4 Thực trạng 4 Ưu nhược điểm của cơ chế thị trường 6 Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường 8 Giải pháp để tiếp tục phát triển kinh tế thị trường của nước ta 9 KẾT LUẬN 11 MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Leenin, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội – 1999 Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục, Hà nội – 1999 Văn kiện đại hội VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội – 1986 Văn kiện đại hội VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội - 1991 Văn kiện đại hội VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội - 1996

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay!.doc
Luận văn liên quan