Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì và cho ai trong một thế giới mà các nguồn tài nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ 20, nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã mang những kết quả rất khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính phủ trung ương và nền kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Vào buổi bình minh của thế kỷ 21, một điều rõ ràng đối với toàn thế giới là nền kinh tế chỉ huy, tập trung đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế, trong việc đạt được sự thịnh vượng, hoặc thậm chí trong việc bảo đảm an ninh kinh tế cho các công dân của mình.Và cũng trong thời gian này,thế giới xuất hiện thêm một hình thức nữa của nền kinh tế thị trường,đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
bài nghiên cứu cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. bài viết gôm có 5 chương:
chương 1: sự tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam. trong chương này giải thích kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội là gì, kèm theo một số các giải thích hỗ trợ khác, dựa trên các nghị quyết đại hội của Đảng và lịch sử của Việt Nam để giải thích tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế thị trường.
chương 2: bản chất của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường,Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
chương 3: thực trạng và giải pháp cho việc phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam
chương 4: cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3188 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển nền kinh tế thị trương tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãng phí vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Tỉ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội thấp. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
Những hạn chế trên có nguyên nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư còn cao. Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
B-CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
2.1.Hoàn thiện thể chế về sở hữu
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
+ Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước; các quyền của người sử dụng đất theo các quy định hiện nay của pháp luật được tôn trọng và bảo đảm.
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; thu hẹp và tiến tới xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, uỷ ban nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn nhà nước. Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai trò của mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
+ Hoàn thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản cổ phiếu, tài sản nợ); bảo hộ các quyền lợi hợp pháp. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu và những người liên quan đối với xã hội.
+ Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập thể, các tổ hợp tác, hợp tác xã; bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của các xã viên đối với tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã.
+ Khuyến khích liên kết hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, làm cho chế độ cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Sớm ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; quy định đối tượng, điều kiện để người nước ngoài có quyền được mua, được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất và các tài sản khác tại Việt Nam.
2.2Hoàn thiện thể chế về phân phối
+ Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được; quan tâm đến các vùng, đối tượng còn nhiều khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, các địa phương.
+ Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức trung bình của xã hội, cho các đối tượng chính sách. Đổi mới cơ chế phân bổ chi ngân sách cho phát triển xã hội, củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện luật pháp về thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, nuôi dưỡng nguồn thu và thực hiện công bằng xã hội.
2.3.Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế
+ Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách để ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hoá; nghiên cứu, hoàn thiện chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động để tạo sự gắn bó lâu dài, phát huy quyền làm chủ của người lao động tại doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hoá. Kiện toàn Tổng Công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước để làm tốt chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Hình thành và quản lý chặt chẽ các tổng công ty và một số tập đoàn kinh tế đa sở hữu có cổ phần chi phối của Nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế. Thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước, không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp và xoá bỏ bao cấp của nhà nước cho doanh nghiệp. Tiếp tục thu hút các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh việc sắp xếp, chuyển đổi các nông lâm trường quốc doanh theo mô hình doanh nghiệp và các mô hình thích hợp để hoạt động có hiệu quả.
+ Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc : tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Khuyến khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận các nguồn vốn; đào tạo cán bộ quản lý, lao động; trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị trường, tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, các dự án đầu tư của Nhà nước.
+ Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư nhân tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cơ chế,chính sách của Nhà nước.
Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và ở khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại và hộ sản xuất kinh doanh góp vốn phát triển theo hình thức hợp tác xã, công ty cổ phần hoặc trở thành doanh nghiệp tư nhân và các loại hình kinh doanh khác thích hợp.
+ Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả. Nhà nước bằng hình thức tổ chức đấu thầu, đơn đặt hàng và có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư phát triển các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công; tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho các đơn vị sự nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hình thành và phát triển. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, Nhà nước quy định các loại hình dịch vụ, các đối tượng xã hội được Nhà nước đài thọ toàn phần hoặc một phần, còn lại phải thanh toán chi phí theo nguyên tắc thị trường. Trên cơ sở đó, các đơn vị cung ứng dịch vụ công lập hoặc ngoài công lập thực hiện cung ứng dịch vụ diện nhà nước đài thọ theo hình thức hợp đồng. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và về tài chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường
3.1.Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc bình ổn giá bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, giảm tối đa các can thiệp hành chính trong quản lý giá. Hoàn thiện khung pháp lý cho ký kết, thực hiện hợp đồng; không hình sự hoá các tranh chấp dân sự trong hoạt động kinh tế. Hoàn thiện thể chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao lòng tin của xã hội đối với pháp luật và các cơ quan tư pháp.
3.2.Đa dạng hoá các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các thị trường này. Thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát triển các phương thức giao dịch thị trường hiện đại, nhất là với hàng hoá nông sản và vật tư nông nghiệp để ổn định giá, giảm bớt rủi ro cho người sản xuất và người tiêu dùng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá đối với một số ít hàng hoá, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của cơ chế thị trường và các cam kết quốc tế. Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hoá và dịch vụ, nhất là những hàng hoá, dịch vụ liên quan trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Xử lý nghiêm minh các sai phạm.
3.3.Phát huy tốt hơn vai trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Từng bước mở cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước, thu hút được các đối tác chiến lược, song Nhà nước giữ cổ phần chi phối, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các ngân hàng này. Đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát; phát triển các công cụ dự báo, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đưa các giao dịch chứng khoán phi tập trung vào phạm vi quản lý, kiểm soát của Nhà nước. Tăng tính minh bạch của thị trường. Chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường. Nâng cao năng lực dự báo, có biện pháp phòng ngừa tình trạng rút vốn hàng loạt, ảnh hưởng xấu đến kinh tế vĩ mô. Mở rộng từng bước quyền mua cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam giao dịch trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm. Tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế trong nước, khuyến khích hợp tác và liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm hơn nữa đến các dịch vụ bảo hiểm đối với con người và hàng nông sản. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
3.3.Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để các quyền về đất đai và bất động sản được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh. Xác định rõ quyền sử dụng đất là một loại hàng hoá đặc biệt, được định giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Ban hành chính sách định giá bảo đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình giải toả, thu hồi đất. Khuyến khích những tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào các dự án đầu tư, kinh doanh. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm cho người bị thu hồi đất. Đưa giá trị quyền sử dụng đất vào danh mục tài sản của mọi tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng đất, kể cả các cơ quan nhà nước. Tạo quỹ đất của Nhà nước phục vụ các mục tiêu công ích, thực hiện chính sách xã hội và hỗ trợ việc điều tiết thị trường đất đai, hỗ trợ tái định cư trong quá trình giải phóng mặt bằng. Nhà nước chủ động tham gia thị trường bất động sản với tư cách là chủ sở hữu đất đai và nhiều bất động sản trên đất.
Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, đất được giao nhưng không đưa vào sử dụng theo cam kết và các trường hợp sở hữu, sử dụng nhà, đất vượt quá hạn mức quy định, ngăn chặn những cơn sốt giá do đầu cơ bất động sản, đặc biệt là đất đai. Nhà nước khuyến khích đầu tư xây dựng quỹ đất phục vụ di dân tái định cư, quỹ nhà ở xã hội để cho thuê hoặc bán theo quy định của pháp luật. Có chính sách giải quyết vấn đề nhà ở ổn định lâu dài cho lao động ở các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ và áp dụng cơ chế thị trường đối với việc chuyển đổi đất công và tài sản công trên đất thành hàng hoá bất động sản. Hiện đại hoá hệ thống quản lý hồ sơ địa chính, bất động sản. Phát triển đồng bộ các dịch vụ tư vấn pháp luật, công chứng, thẩm định, đấu giá, đăng ký giao dịch... tạo môi trường thuận lợi, an toàn cho các giao dịch trên thị trường đất đai, bất động sản. Xây dựng cơ chế tài phán để giải quyết những khiếu nại liên quan đến đất đai.
Xây dựng, công khai hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt. Quản lý chặt chẽ quỹ đất sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia về lâu dài. Bảo đảm lợi ích thoả đáng và công bằng giữa các nhà đầu tư phát triển bất động sản, các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất và của Nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung - cầu về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Thực hiện tốt, phấn đấu rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008 - 2012 đi đôi với kiểm soát lạm phát để bảo đảm thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động; khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề thông qua các ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo giáo viên, đầu tư hỗ trợ cơ sở hạ tầng, v.v...
Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường lao động, đổi mới tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm tư nhân đi đôi với tăng cường quản lý, kiểm soát của Nhà nước, ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác. Nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động có trình độ cao. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp trong nước thu hút và sử dụng lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao.
Áp dụng phổ biến chế độ hợp đồng lao động, kể cả trong các đơn vị sự nghiệp công lập và khu vực kinh tế nhà nước. Đưa thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể thành quy định bắt buộc; tăng cường sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển thị trường lao động. Tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các toà lao động, xử lý tốt các trường hợp tranh chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động.
- Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ.Phát triển các dịch vụ thiết kế, đo lường, đánh giá, thẩm định, giám định chất lượng, thông tin, môi giới, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ theo hướng xã hội hoá. Đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý thị trường công nghệ.
Tuân thủ nguyên tắc bù đắp đủ chi phí để tái tạo và mở rộng quy mô cung ứng dịch vụ công với chất lượng ngày càng cao. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục, thể thao, đặc biệt là cho những vùng nghèo, người nghèo, bảo đảm những dịch vụ cơ bản cho nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hoá, vận dụng hợp lý những mặt tích cực của cơ chế thị trường. Nhà nước có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, các nguồn lực khác phát triển mạnh các dịch vụ công về số lượng và nâng cao chất lượng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của nhân dân.Cùng với việc tăng đầu tư, Nhà nước xác định rõ các tiêu chuẩn, tiêu chí mà các đơn vị cung ứng dịch vụ phải tuân theo, các mức dịch vụ cơ bản Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân, nhất là cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách để bảo đảm quyền của nhân dân được học tập, chăm sóc sức khoẻ phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Thực hiện cơ chế Nhà nước đặt mua từ các nhà cung cấp dịch vụ theo chất lượng và chi phí chuẩn, tạo cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý của Nhà nước, giám sát của các tổ chức xã hội để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm. Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo.
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
- Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của phát triển. Tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xã hội ở một số vùng trọng điểm có tỉ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở thành vấn đề xã hội bức xúc. Đưa mục tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa phương. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng xã hội cho người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn lên thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.
- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện; bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội; tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính nhà nước ra khỏi khu vực doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các lĩnh vực khác. Điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; từng bước cải thiện đời sống của người về hưu theo trình độ phát triển của nền kinh tế.
- Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội hoá với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự vươn lên. Tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trước hết là người còn khả năng lao động, tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu, cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hoá, thể thao. Sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội dựa trên cơ sở tăng mức sống tối thiểu của toàn xã hội. Thực hiện các chương trình mục tiêu hướng ưu tiên vào đối tượng bảo trợ xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ việc thực hiện; phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm. Bảo vệ môi trường phải được coi trọng ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực do sự biến đổi khí hậu.-Đảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường và tiếp tục tạo ra những tiền đề, điều kiện để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới mạnh mẽ hơn phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước. Coi trọng và làm tốt công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô, bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát; phát triển lành mạnh của các thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm; ngăn ngừa và xử lý kịp thời những biến động xấu đối với ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển các lĩnh vực xã hội, gắn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường; tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp; giữ vững an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị - xã hội cho sự phát triển đất nước. Chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước, tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế, xã hội.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
CHƯƠNG 5
CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.Cơ chế thị trường và tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
Định nghĩa về cơ chế thị trường
Phân tích cơ chế kinh tế trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra những đặc trưng sau:
Một là, các quan hệ kinh tế hoàn toàn chịu sự chi phối của các quy luật thị trường, chưa bị biến dạng bởi các quyết định hành chính của nhà nước và các thế lực độc quyền;
Hai là, giá cả thị trường là kết quả khách quan của quan hệ cung cầu, nó tồn tại độc lập với cả người mua và người bán, họ chỉ là "những người nhận giá";
Ba là, tư liệu sản xuất và sức lao động được tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác theo cơ chế thị trường, do đó nâng cao hiệu quả đầu tư của tư bản.
Như vậy, theo tư tưởng của Mác, cơ chế kinh tế thị trường gồm có các bộ phận cấu thành sau:
(i) Quan hệ cung cầu là quan hệ trung tâm của cơ chế thị trường;
(ii) Giá cả thị trường là cốt lõi của cơ chế thị trường
(iii) Cạnh tranh là sức sống của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó.Nói một cách cụ thể hơn,cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau,tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả,cung-cầu,cạnh tranh…trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sang cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước.
. Hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam là kết quả tất yếu của sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước
Trước 1980, cơ chế của nước ta là cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Kế hoạch hoá được coi là cơ chế quản lý kinh tế với kế hoạch là công cụ quản lý số 1, luật pháp về kinh tế và các công cụ quản lý khác đều được xếp sau kế hoạch. Nhà nước biến thành "ông chủ của một doanh nghiệp lớn", quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh rất chi tiết và trực tiếp quyết định sản xuất cái gì, cho ai, bao nhiêu, khi nào... được phát ra từ một trung tâm.
Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước ta, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung nêu trên đã góp phần đắc lực trong việc động viên nhân tài vật lực phục vụ cho các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, phù hợp với đặc điểm của đất nước có chiến tranh. Sau 1975, khi chiến tranh kết thúc, đất nước hoà bình, thống nhất; tình hình trong nước và thế giới đã có nhiều biến đổi nhưng ta đã không kịp thời thay đổi cơ chế quản lý cho phù hợp, vẫn tiếp tục duy trì cơ chế quản lý kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hoá tập trung và áp dụng chung cho toàn quốc. Vì vậy, đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. Những hậu quả xấu chủ yếu có thể kể đến là:
- Hiệu quả kinh tế thấp. Do xã hội chỉ sản xuất theo một kế hoạch thống nhất, phát ra từ một trung tâm nên không đủ sức bao quát được mọi nhu cầu của nền kinh tế và xã hội; sản xuất không phù hợp với nhu cầu thực và rất động của xã hội, nên gây ra lãng phí lớn. Nền kinh tế không có cạnh tranh, nên công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất rất chậm đổi mới, năng suất lao động không tăng; các doanh nghiệp làm ăn tốt không được tự chủ phát triển, các doanh nghiệp làm ăn kém không bị đào thải kịp thời; chất lượng sản phẩm hàng hoá giảm sút, chi phí sản xuất không giảm. Do hạch toán mang nặng tính hình thức đã dẫn đến tình trạng lỗ, lãi của doanh nghiệp, của ngành, của nền kinh tế không rõ ràng. Tất cả những điều trên làm cho nền kinh tế đất nước trong thời kỳ dài ngày càng giảm sút.
- Hàng hoá trên thị trường ngày càng khan hiếm trầm trọng do chế độ phân phối theo tem phiếu với giá cả hàng hoá được quy định chủ quan, không huy động được các nguồn lực đi vào sản xuất kinh doanh.
- Động lực của người lao động và cán bộ quản lý bị triệt tiêu, bởi việc thực hiện chế độ phân phối bình quân, cào bằng.
Chúng ta tuy có đạt được sự tăng trưởng của nền kinh tế, song sự tăng trưởng này không dựa trên sự gia tăng của năng suất lao động, mà chủ yếu dựa vào sự gia tăng của vốn sản xuất, gia tăng lao động sản xuất. Kết quả là khi tốc độ gia tăng cho vốn sản xuất giảm sút thì nền kinh tế của ta rơi vào tình trạng khủng hoảng; sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan hiếm; giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống người lao động ngày càng khó khăn hơn.
Chính tình hình trên đã gây áp lực rất mạnh mẽ cho Đảng và Nhà nước ta, nhân dân ta tìm ra giải pháp có tính đột phá trong việc tổ chức và quản lý nền kinh tế xã hội.
Tôn trọng thực tiễn khách quan, kiên định với mục tiêu xây dựng một xã hội tiến bộ, trên cơ sở đánh giá nghiêm túc các kết quả của các thử nghiệm, thậm chí của cả những hiện tượng được gọi là "làm chui", "xé rào" ở các ngành, các địa phương cơ sở kinh doanh (Như khoán chui ở Vĩnh Phúc, Hải Phòng, thí điểm ở Long An; "xé rào" ở nhiều xí nghiệp quốc doanh...), Đảng ta đã đưa ra các giải pháp mang tính cải cách về cơ chế quản lý kinh tế. Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV (9/1979) đã đề cập tới một số vấn đề cấp bách trong quản lý kinh tế, và đã tạo dựng nên một mốc quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế kinh tế của đất nước.
2.Các ưu điểm và khuyết điểm khi thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
Ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ.do đó làm cho nề kinh tế phát triển năng động,có hiệu quả.
Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa tổng cung và tổng cầu.Nhờ đó ta có thể thỏa mãn tốt nhu cầu tiêu dung cá nhân về rất nhiều sản phẩm.
Cơ chế thị trường kích thích sự đổi mới kĩ thuật hợp lí hóa sản xuất.Sức ép cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức thấp nhất bằng cách áp dụng những phương pháp tốt nhất,không ngừng đổi mới kĩ thuật,đổi mới sản phẩm,đổi mới tổ chức sản xuất và quản lí sản phẩm.
Cơ chế thi trường phân phố các nguồn lực một cách tối ưu.
Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi,làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội và nhu cầu xã hội.
Khuyết điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo,khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì cơ chế thị trường bị giảm.Chẳng hạn xuất hiện độc quyền,các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng tăng giá để thu lợi nhuận cao,mặt khác khi xuất hiện độc quyền ,thì không có sức ép cạnh tranh đối với việc đổi mới kĩ thuật.
Mục đích hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội,gây ô nhiễm môi trường sống của con người,do đó hiệu quả kinh tế không đảm bảo.
Phân phối thu nhập không cân bằng ,phân hóa giàu nghèo,phân cực về của cải ,tác động xấu đến đạo đức và tình người
Một nền kinh tế do cơ chế thi trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm khủng hoảng kinh tế có tính chu kì và thất nghiệp
3. Nội dung của sự chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1. Nội dung đầu tiên của chương trình chuyển đổi là phải bảo đảm sự ổn định vĩ mô về kinh tế - xã hội bởi vì khi tiến hành cải cách, hầu như các nước đều vấp phải những vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt như lạm phát, giá cả gia tăng, sự nghèo khổ...vốn đã bị che đậy trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Một trong những yếu tố quyết định của sự ổn định là sự ổn định về chính trị đảm bảo cho chương trình ổn định kinh tế vĩ mô tiến hành được nhất quán.
3.2. Nội dung cơ bản của sự chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường là tự do hóa kinh tế, bao gồm tự do hóa giá cả, tự do hóa hoạt động thương mại và bao gồm cả việc mở cửa cho đầu tư tư nhân trong nước và ngoài nước theo pháp luật.
3.3. Cải cách thể chế theo định hướng thị trường mà trước hết nhà nước phải tạo ra môi trường pháp lý cho đầu tư và kinh doanh, tạo ra một sân chơi bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Một nhiệm vụ không thể thiếu được của cải cách thể chế là tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động...Cải cách thể chế còn đòi hỏi một hệ thống đảm bảo xã hội (bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế...) nhằm xóa bỏ sự bao cấp tràn lan của ngân sách nhà nước.
3.4. Cải cách doanh nghiệp nhà nước, nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo vì nhà nước vừa là người sở hữu tài sản quốc gia, vừa là người phân giao quyền sử dụng, vừa là người bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Các nhà nghiên cứu nền kinh tế chuyển đổi đã đưa ra hai phương thức chuyển đổi trong những năm đầu chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường: phương thức chuyển đổi theo biện pháp sốc và phương thức chuyển đổi từng bước. Đại diện điển hình cho phương thức liệu pháp sốc là nước Nga với chương trình "500 ngày chuyển đổi sang kinh tế thị trường". Đại diện cho phương thức chuyển đổi từng bước là Trung Quốc ở châu Á và Hungary ở Trung Âu. VIệT NAM đã áp dụng chủ yếu phương thức chuyển đổi từng bước trong toàn bộ quá trình, song cũng kết hợp phương thức liệu pháp sốc đối với những nhiệm vụ cần và có thể tiến hành trong một thời gian như xử lý cơ chế giá cả, tỷ giá hối đoái, tự do hóa hoạt động thương mại.
4.Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước
Sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là một điều kiện tiền đề cần phải có để vận hành cơ chế kinh tế thị trường ơ? nước ta. Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể thiếu vai trò bà đỡ, khởi xướng và nuôi dưỡng của nhà nước, hơn thế nữa vai trò quản lý kinh tế của nhà nước càng trở nên cực kỳ quan trọng với các chức năng sau:
Tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển trước hết là môi trường chính trị ổn định, đất nước hòa bình, an ninh trật tự được bảo đảm, quan hệ quốc tế được khai thông. Ồn định hóa nền kinh tế, trong đó đặc biệt quan trọng là sự ổn định kinh tế vĩ mô tránh được những xáo động to lớn, bất thường.
Khởi xướng, hướng dẫn và hỗ trợ mọi nỗ lực phát triển thông qua các công cụ quản lý vĩ mô:
- Thông qua công cụ luật pháp để thiết lập "luật chơi" cơ bản và hữu hiệu cho nền kinh tế thị trường, trong đó có 2 vấn đề trọng tâm (i) đảm bảo quyền sở hữu, bao gồm cả sở hữu của nhà nước đối với các tài sản của nhà nước đầu tư vào nền kinh tế; (ii) đảm bảo sự cạnh tranh tích cực trong nền kinh tế;
- Thông qua công cụ kế hoạch hóa để hoạch định các chiến lược phát triển quốc gia, kế hoạch nhà nước...nhằm vạch ra các hành lang kinh tế định hướng hoạt động và đầu tư cho các thành phần kinh tế, các đơn vị kinh tế;
- Sử dụng các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ để kích thích kinh tế phát triển theo mục tiêu kế hoạch, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường đối với xã hội và con người, tham gia điều tiết thị trường có hiệu quả.
- Cung cấp các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế trong đó bao gồm kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (điện, nước, đường sá, bến cảng...), cung cấp tín dụng và hỗ trợ tài chính v.v...để mở đường cho kinh tế phát triển.
Sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước, quản lý tốt vốn và tài sản công để thực hiện quyền sở hữu thực của nhà nước. Vốn và tài sản công bao gồm cả đất đai và tài nguyên thiên nhiên đưa vào hoạt động kinh tế tạo nên khu vực kinh tế nhà nước.
Thực thi các chính sách xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy không phải là chức năng quản lý kinh tế trực tiếp của nhà nước, song nó đặc biệt quan trọng vì góp phần ổn định xã hội, ổn định kinh tế, thực hiện chiến lược con người tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Hệ thống pháp luật
Nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ thuộc vào nước ngoài. Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu dài. Vì thị trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
Kế hoạch và thị trường
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sử dụng hai công cụ quản lý cơ bản là kế hoạch và thị trường. Việc sử dụng hai công cụ quản lý này không thể tách rời nhau mà là sự vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch để điều tiết tác động của quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý kinh tế phát triển theo kế hoạch. Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước không có nghĩa là từ bỏ kế hoạch hoá mà là chuyển kế hoạch hoá thuần tuý pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng là chủ yếu, sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất trong tay Nhà nước để bảo đảm các tỷ lệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ đối lập kế hoạch với thị trường, ngày nay chúng ta đã nhận thức rõ, cả kế hoạch lẫn thị trường đều là công cụ để quản lý nền kinh tế, trong đó thị trường là căn cứ, là đối tượng và là công cụ kế hoạch hoá.
Nhà nước điều tiết thị trường thông qua kế hoạch hoá vĩ mô - kế hoạch hoá gián tiếp bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối, trên cơ sở vận dụng các công cụ và chính sách tác động vào cung cầu trên thị trường, hướng thị trường vận động và phát triển theo các chỉ tiêu cân đối định hướng. Còn thị trường dẫn dắt hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế căn cứ vào nhu cầu của thị trường để xây dựng kế hoạch hoá vi mô.
Kế hoạch nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Thông qua kế hoạch dài hạn, Nhà nước cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp (thuế, tín dụng, xuất - nhập khẩu, chuyển giao công nghệ...).
Xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể hoạt động có hiệu
quả
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tàng của nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, sự hoạt động có hiệu quả của hai thành phần kinh tế này có vai trò quyết định đối với các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế này mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Nhờ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng
dẫn nền kinh tế thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch vạch ra.
Chính sách tài chính và tiền tệ
Chính sách tài chính:
Chính sách tài chính là chính sách động viên, phân phối và sử dụng các
nguồn tài chính được biểu hiện bằng hệ thống các quan điểm, chủ trương và biện
pháp của Nhà nước phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước và đường lối phát
triển kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ.
Chính sách tài chính ở nước ta hiện nay cần hướng vào những vấn đề chủ
yếu sau đây:
+ Xây dựng đồng bộ thể chế tài chính phù hợp với kinh tế thị trường. Đổi
mới chính sách quản lý tài chính để giải phóng và phân bổ hợp lý, có hiệu quả
các nguồn lực; phát triển nền tài chính quốc gia vững mạnh. Bảo đảm an ninh tài
chính quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của tài chính Việt Nam.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống
nhất và đồng bộ, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Đổi mới chính sách phân phối tài chính và cơ chế kết hợp nguồn lực nhà nước
với các nguồn lực khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện các công việc
được ngân sách cấp kinh phí.
+ Đổi mới căn bản chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước,
kiên quyết xoá bỏ tình trạng bao cấp đối với sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước.
+ Chủ động mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và hội nhập quốc tế về
tài chính; thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác, tăng
dự trữ ngoại tệ của quốc gia.
+ Tạo điều kiện phát triển vững chắc thị trường tài chính; kiện toàn bộ máy
quản lý tài chính.
Chính sách tiền tệ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm và quyền hạn trong hoạch
định và thực thi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trọng yếu, vai trò của
nó ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và
tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan
trọng, là phương tiện điều tiết cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung
ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ có
tác dụng trực tiếp đến nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của chính sách tiền tệ của Nhà nước
Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng
kinh tế và đảm bảo an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ và tín dụng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay là: khẩn trương thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc
tế về hoạt động ngân hàng; mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt; thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận và tiếp tục thực hiện chính sách tỷ
giá hối đoái linh hoạt theo nguyên tắc thị trường; nâng cao trách nhiệm và quyền
hạn của ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ;
xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước lớn mạnh về mọi mặt; thực
hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế;
phát triển và tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân; hình
thành môi trường pháp lý về tiền tệ, tín dụng, minh bạch và công khai; loại bỏ
các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín
dụng...
Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế đối
ngoại, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập
khẩu hạn ngạch (quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất
khẩu, v.v..
Thông qua những công cụ này, Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất,
nhập khẩu; đồng thời lại bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày
càng nhiều, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
5.Những việc cần làm để cơ chế kinh tế thị trường vận hành có hiệu quả.
a) Cung cấp một môi trường pháp lý tin cậy để cho các chủ thể kinh doanh phát huy tối đa năng lực sản xuất của họ là mục tiêu số một trong chính sách tạo cung hàng hoá cho thị trường, đồng thời cũng là yếu tố cơ bản đảm bảo cho môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các lực lượng cung ứng hàng hoá.
Chúng ta để một số lĩnh vực độc quyền tuyệt đối như hàng không, vận tải quốc tế, đường sắt, điện... xây dựng khai thác bến cảng, dịch vụ cảng, in ấn sản xuất phim và độc quyền nhóm như xăng dầu, bảo hiểm... là một thiếu sót.
Vì vậy chúng ta nhanh chóng ban hành ngay các văn bản pháp quy ở tầm luật hay pháp lệnh về khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền, chống bán phá giá.
Cần sớm dỡ bỏ tất cả các rào cản để các loại hình doanh nghiệp thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật cho phép. Việc dỡ bỏ ấy chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở pháp lý của các loại hình pháp luật.
+ Quy phạm về hành vi của chủ thể trên thị trường.
+ Duy trì trật tự thị trường
+ Phát triển hệ thống thị trường và các yếu tố thị trường.
b) Quan điểm "để cho" thị trường cần được ưu tiên trong công tác quản lý Nhà nước về kinh tế của ta trong giai đoạn hiện nay.
Đối với nước ta, nền kinh tế thị trường còn phát triển ở trình độ thấp (đó là chưa kể tới một thực tế lịch sử là nền kinh tế thị trường của ta đã từng không có cơ hội để hoạt động bình thường), nên sự ưu tiên trong công tác quản lý Nhà nước về kinh tế của ta là "để cho" thị trường hoạt động hiệu quả hơn là việc cố gắng sửa chữa những "thất bại" của thị trường (dùng chính sách không đúng sẽ làm méo mó thị trường!), tất nhiên phải loại trừ những vấn đề như kiểm soát môi trường, kiểm soát đầu cơ lũng đoạn, độc quyền kiểm soát gian lận thương mại.
c) Tiếp tục đổi mới tư duy và làm rõ bản chất kinh tế của một số vấn đề có liên quan đến việc thúc đẩy hình thành các yếu tố của thị trường lao động, thị trường đất đai, bất động sản.
Quyền sở hữu đất đai, giá cả đất đai đang là những vấn đề cần phải nghiên cứu trên góc độ bản chất kinh tế của nó. Những bất đồng ý kiến về vấn đề nay đang gây trở ngại cho việc hình thành các yếu tố của thị trường này; hàng hoá thực sự của thị trường này là gì? lực lượng cung của chúng ta ra sao? vai trò Nhà nước tới đâu trong hình thành giá cả ở thị trường này.
Đối với thị trường sức lao động, các yếu tố của nó vẫn còn đang bị tác động mạnh bởi những quan niệm xã hội về lao động làm chủ và lao động làm thuê; nhu cầu giải quyết việc làm với yêu cầu xoá bỏ bóc lột, giữa yêu cầu bảo vệ người lao động với bảo vệ quyền lợi người sử dụng lao động; vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra khung pháp lý cho thị trường này hoạt động cũng cần được đi sâu nghiên cứu, vì hàng hoá của thị trường này là loại hàng hoá đặc biệt, nhất là đối với chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu phát triển toàn diện con người là trung tâm và kiên định.
Kết luận: việc nghiên cứu tính chất của và đặc điểm của nền kinh tế thị trường cũng như tìm hiểu các chính sách giải pháp của chính phủ trong việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của nền kinh tế đất nước.Qua đó có thể định hướng đúng cho tư tưởng bản thân và nhận thức được nhiệm vụ con đường để đóng góp cho sự phát triển nước nhà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển nền kinh tế thị trương tại Việt Nam.doc