Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÝ THUYẾT SẢN XUẤT 1 1. Sản xuất là gì? 1 1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm) . 1 1.2 Hàm sản xuất 1 2. Năng suất biên và năng suất trung bình . 2 2.1 Năng suất biên (MP) . 2 2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần . 3 2.3 Năng suất trung bình (AP) 3 2.4. Mối quan hệ giữa đường sản lượng, MP, AP 4 2.5 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng . 5 3. Đường đẳng lượng 5 3.1 Đường đẳng lượng 5 3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) . 6 3.3 Mối quan hệ giữa tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP). 6 4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng 7 4.1 Hàm sản xuất tuyến tính 7 4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định . 8 4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS . 8 5. Hiệu suất theo quy mô 9 6. Đường đẳng phí 10 7. Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng hay tối thiểu hoá chi phí . 11 7.1 Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng . 11 7.2 Nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sản xuất 11 CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 12 1. Thực trạng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn hiện nay . 12 1.1. Thực trạng chung 12 1.2. Công tác dạy nghề 14 1.3. Thực trạng tuyển sinh ở bậc Đại học ngành nông nghiệp . 15 1.4. Xu hướng rời bỏ ngành 16 2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam hiện nay 17 2.1. Công tác dạy nghề 17 2.2. Chính sách đào tạo ở các Trường Đại học 18 2.3. Y tế 19 KẾT LUẬN . 20

pdf25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3564 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VI MÔ ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY Giáo viên giảng dạy: Lớp: Cao học KTNN-K16 TS. Lê Khương Ninh HVTH: Nguyễn Hoàng Trung MSHV: 130930 Cần Thơ, Năm 2009 MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÝ THUYẾT SẢN XUẤT...................... 1 1. Sản xuất là gì? .................................................................................................. 1 1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm) ......................... 1 1.2 Hàm sản xuất .................................................................................................. 1 2. Năng suất biên và năng suất trung bình............................................................. 2 2.1 Năng suất biên (MP) ....................................................................................... 2 2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần ................................................................... 3 2.3 Năng suất trung bình (AP) .............................................................................. 3 2.4. Mối quan hệ giữa đường sản lượng, MP, AP.................................................. 4 2.5 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng ............................................... 5 3. Đường đẳng lượng ............................................................................................ 5 3.1 Đường đẳng lượng .......................................................................................... 5 3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS)............................................................... 6 3.3 Mối quan hệ giữa tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP). 6 4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng.................... 7 4.1 Hàm sản xuất tuyến tính.................................................................................. 7 4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định ........................................................... 8 4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS................................................................... 8 5. Hiệu suất theo quy mô ...................................................................................... 9 6. Đường đẳng phí ................................................................................................ 10 7. Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng hay tối thiểu hoá chi phí................................. 11 7.1 Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng ..................................................................... 11 7.2 Nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sản xuất ........................................................ 11 CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................ 12 1. Thực trạng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn hiện nay ........................... 12 1.1. Thực trạng chung .......................................................................................... 12 1.2. Công tác dạy nghề.......................................................................................... 14 1.3. Thực trạng tuyển sinh ở bậc Đại học ngành nông nghiệp ............................... 15 1.4. Xu hướng rời bỏ ngành .................................................................................. 16 2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam hiện nay ................................................................................................................ 17 2.1. Công tác dạy nghề.......................................................................................... 17 2.2. Chính sách đào tạo ở các Trường Đại học ...................................................... 18 2.3. Y tế ................................................................................................................ 19 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 20 MỞ ĐẦU Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên. Những năm qua, ngành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, giá trị và giá trị sản lượng nông nghiệp liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng gia tăng sản phẩm đã qua chế biến, giảm cung cấp sản phẩm thô, từ đó an ninh lương thực trong nước được đảm bảo, nhiều sản phẩm nông nghiệp trở thành những hàng hóa xuất khẩu chủ đạo, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như gạo, thủy hải sản, cà phê, cao su... Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nông dân được cải thiện, công bằng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như mạng lưới các tổ chức kinh tế hoạt động nông thôn ngày càng phát triển. Song, cũng như các nước thực hiện quá trình công nghiệp hóa, ở nước ta, quá trình này thường đi kèm những thay đổi không nhỏ về các mặt kinh tế-xã hội; và nông nghiệp, nông dân, nông thôn thường bị thiệt thòi, chịu nhiều hy sinh. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn là khu vực chậm phát triển nhất trong nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính chất của nền sản xuất nhỏ, manh mún, sử dụng không hiệu quả dẫn đến gây lãng phí các nguồn lực quý giá cho phát triển nông nghiệp. Thu nhập của người nông dân tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi diện nghèo đói, nhưng thực tế thu nhập chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo đói không đáng kể. Người dân nông thôn không có nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu của phát triển, các dịch vụ cơ bản như vệ sinh, môi trường, y tế, giáo dục... cũng chưa được cung cấp đầy đủ. Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc hậu, chất lượng xuống cấp nghiêm trọng,... Xuất phát từ những thực tiễn đó mà tôi muốn đi sâu nghiên cứu một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến những thực trạng trên, bên cạnh nhiều nhân tố tác động khác nhưng do sự hạn chế là chỉ ở quy mô của một tiểu luận nên tôi chỉ nghiên cứu về “Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam hiện nay”. 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÝ THUYẾT SẢN XUẤT 1. Sản xuất là gì? Sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất là quá trình chuyển hoá giữa các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra (hay sản phẩm). Thực tế cho thấy rằng cách thức đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy nhiên, đối với các loại hàng hoá để sản xuất ra một sản lượng nhất định thì cần phải có một yếu tố ban đầu nào đó. 1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm) Yếu tố đầu vào (hay còn gọi là yếu tố sản xuất) là các loại hàng hoá - dịch vụ được dùng để sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ khác. Yếu tố đầu vào bao gồm lao động, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, năng lượng....hàng hoá và dịch vụ là những yếu tố đầu ra (hay sản phẩm) của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu ra được đo lường bởi sản lượng. Mỗi yếu tố sản xuất cụ thể sẽ cần những yếu tố đầu vào riêng. Vì vậy, để nghiên cứu một quá trình sản xuất tổng quát, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu vào theo tiêu thức chung nhất của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn. 1.2 Hàm sản xuất Mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố đầu vào và số lượng sản phẩm (sản lượng) của quá trình sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của một loại sản phẩm nào đó cho biết sản lượng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu là q) có thể được sản xuất ra bằng cách sử dụng các phối hợp khác nhau giữa vốn (K) và lao động (L) ứng với một trình độ công nghệ nhất định trong một khoảng thời gian nào đó. Hàm sản xuất thông thường được viết như sau:  LKfq , Trong đó: q là sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra ở một trình độ công nghệ nhất định với số lượng lao động là L và số lượng vốn là K. Sản lượng q thay 2 đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi của vốn và lao động. Hàm sản xuất chỉ có ý nghĩa đối với những giá trị không âm của K và L. Thông thường hàm sản xuất được giả định là hàm số đồng biến với vốn và lao động, nghĩa là 0   K q và 0   L q trong miền xác định của nó vì trong một chừng mực nhất định khi sử dụng nhiều yếu tố đầu vào hơn, nhà sản xuất sẽ sản xuất ra sản lượng cao hơn. Hàm sản xuất áp dụng cho một trình độ công nghệ nhất định. Một hàm số f cụ thể có thể đặc trưng cho một trình độ công nghệ nhất định. Khi công nghệ được cải tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lượng sẽ lớn hơn với cùng số lượng các yếu tố như trước hay thậm chí ít hơn. * Hàm sản xuất và vấn đề học thông qua trải nghiệm Hàm sản xuất chỉ ra mối liên hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng sản lượng không chỉ phụ thuộc vào yếu tố đầu vào mà còn phụ thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm có được thông qua quá trình sản xuất. Kinh nghiệm thu thập được của một doanh nghiệp cũng là một yếu tố quyết định sản lượng cùng với số lượng các yếu tố đầu vào. Với quan điểm trên thì hàm sản xuất được điều chỉnh để biểu thị ảnh hưởng của học thông qua thực hành thành:   qLKfq ,, , trong đó  q là sản lượng tích luỹ trong suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp, với   0   q q . Đối với hàm sản xuất này, lịch sử sản xuất của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. 2. Năng suất biên và năng suất trung bình 2.1 Năng suất biên (MP) Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lượng sản phẩm tăng thêm được sản xuất ra do sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất đó, nếu các yếu tố khác là không đổi. Như vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là đạo hàm riêng của sản lượng (q) theo số lượng vốn (K) và số lượng lao động (L): KK fK q K qMP        và LL fL q L qMP        3 Trong đó: MPK và MPL lần lượt là năng suất biên của vốn và lao động. Như vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính là đạo hàm riêng của hàm số tổng sản lượng (hay hàm sản xuất) theo số lượng yếu tố sản xuất đó. Về mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đường tổng sản lượng) tại từng điểm của đồ thị. 2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lượng của một yếu tố sản xuất tăng dần trong khi số lượng các yếu tố sản xuất khác giữ nguyên thì sản lượng sẽ tăng nhanh dần (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy nhiên, vượt qua một mốc nào đó thì sản lượng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhưng vẫn còn dương). Nếu tiếp tục gia tăng số lượng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lượng đạt đến mức tối đa (năng suất biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ và mang giá trị âm). Đứng trên phương diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tương ứng với giả định là đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm. 02 2       KK K f K q K MP và 02 2       LL L f L q L MP Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lượng của từng đơn vị của một yếu tố sản xuất nào đó là như nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc hạn chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận. 2.3 Năng suất trung bình (AP) Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó được tính bằng cách lấy tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó. Công thức tính năng suất trung bình: L qAPL  và K qAPK  , trong đó: APL và APK lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn. 4 Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên thấp hơn năng suất trung bình và ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất biên lớn hơn năng suất trung bình. 2.4. Mối quan hệ giữa đường sản lượng, MP và AP - Ở những đơn vị lao động đầu tiên, tổng sản lượng tăng rất nhanh nên độ dốc của đường này tăng dần và như vậy đường năng suất biên dốc lên. Khi số lao động lớn hơn L1, tổng sản lượng tăng chậm dần, độ dốc của đường tổng sản lượng giảm nên năng suất biên giảm và đường năng suất biên dốc xuống. Sau đó đường tổng sản lượng đạt cực đại, điều này cũng có nghĩa là việc tăng thêm số lao động không làm tăng thêm sản lượng. Lúc này năng suất biên bằng không và đường năng suất biên cắt trục hoành. Sau đó sản lượng giảm xuống, đường tổng sản lượng có độ dốc âm nên năng suất biên âm.(Như đồ thị trên). 5 - Trên đường tổng sản lượng q, hãy chọn một điểm bất kỳ và kẻ một đường thẳng từ gốc tọa độ đến điểm này. Ta có thể dễ dàng thấy năng suất lao động trung bình của số lao động ứng với điểm này chính là độ dốc của đường thẳng vừa kẻ. Độ dốc của đường thẳng này tăng dần khi số lao động tăng lên cho đến L2. Tại L2, đường thẳng kẻ từ gốc tọa độ sẽ tiếp xúc với đường tổng sản lượng. Như vậy, tại L2 năng suất lao động trung bình sẽ bằng với năng suất lao động biên. Với số lao động thấp hơn mức L2, độ dốc của đường thẳng kẻ từ gôc tọa độ sẽ nhỏ hơn độ dốc của đường tổng sản lượng q nên AP < MP. Khi đó năng suất trung bình tăng lên nếu gia tăng thêm số lượng lao động. Ở các điểm bên phải L2 thì AP > MP. Do đó năng suất trung bình giảm dần khi gia tăng thêm số lao động. Tại điểm MP cắt AP thì AP là cực đại. Mối quan hệ giữa MP và AP có một ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Nguyên lí này ngụ ý rằng doanh nghiệp, địa phương cũng như một quốc gia phải tuyển mộ thêm người trên nguyên tắc là người mới bao giờ cũng phải có năng lực cao hơn mức trung bình của số người trước đây để làm tăng năng suất trung bình hay làm tăng chất lượng làm việc. 2.5. Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng được quyết định bởi công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ sản xuất thường được xem như là một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế về phương diện sản xuất. 3. Đường đẳng lượng 3.1 Đường đẳng lượng 6 Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sẽ được biểu diễn trên một đường đẳng lượng. Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K) và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q0 nào đó. Phương trình của đường đẳng lượng:   0, qLKf  hay  50 , LqgK  Các đặc điểm của đường đẳng lượng: - Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường đẳng lượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau. - Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn và lao động nằm trên đường đẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp hơn). - Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ. - Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau. Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng. Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các đầu vào. 3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) Khi di chuyển dọc trên một đường đẳng lượng, ta thấy có sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lượng không đổi. Để đo lường mức độ thay thế giữa vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng thêm một đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng. Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên: 00 qqqq LchoK dL dK L KMRTS      Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường 7 đẳng lượng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn có giá trị dương. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q0 = f(K, L) nên có thể suy ra phương trình đường đẳng lượng là K = g(q0, L). Do đó: dL dKMRTS  hay chính là nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng. 3.3 Mối quan hệ giữa tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP). Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên có quan hệ chặt chẽ với năng suất biên của lao động và vốn. Khi giảm sử dụng yếu tố đầu vào K một số lượng dK, sản lượng giảm đi một lượng tương ứng là dK x MPK. Để cho sản lượng không đổi, lượng giảm sút này của sản lượng sẽ phải được bù đắp bằng cách sử dụng thêm yếu tố đầu vào L một lượng là dL thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng là dL x MPL. Do đó ta có: -dK x MPK = dL x MPL => MRTSdL dK MP MP K L  Như vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn bằng với tỷ số giữa năng suất lao động biên (MPL) và năng suất vốn biên (MPK). Rõ ràng là MRTS tăng lên khi năng suất lao động biên tăng lên (do lượng lao động giảm đi) hay do năng suất biên của vốn giảm đi (do lượng vốn tăng lên) và ngược lại. 4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng 4.1 Hàm sản xuất tuyến tính bLaKq   0, ba . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm một đơn vị thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng tương ứng là a hay b đơn vị. Do vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là các hệ số a và b. Năng suất biên của vốn và lao động không thay đổi khi số vốn và lao động được sử dụng tăng thêm. Do đó, đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng các đầu vào (vốn và lao động) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b. 8 Do phương trình của đường đẳng lượng ứng với hàm sản xuất tuyến tính là: bLaKq 0 nên La b a qK  . Như vậy, đường đẳng lượng của hàm số này là những đường thẳng song song có độ dốc a b  . Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc vào giá của chúng. 4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định  bLaKq ,min ;  0, ba . Phương trình hàm sản xuất này cho biết sản lượng bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc. - Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trường hợp này, vốn là yếu ràng buộc đối với sản lượng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lượng nên MPL = 0. Vốn là yếu tố quyết định. - Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trường hợp này, lao động là yếu ràng buộc đối với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng nên MPK = 0. Lao động là yếu tố quyết định. - Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L được sử dụng một cách hợp lý nhất vì không có hiện tượng dư thừa vốn hay lao động. Khi đó a b L K  . Đẳng thức này xảy ra tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng. Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trường hợp này, ta không thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ lệ cụ thể. 4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS ba LcKq  ; a,b,c >0. 9 Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng của một quá trình sản xuất. 5. Hiệu suất theo quy mô Các nhà kinh tế đo lường tác động của sự thay đổi của số lượng yếu tố đầu vào đến sản lượng thông qua khái niệm hiệu suất theo quy mô. Adam Smith lưu ý rằng khi số lượng các yếu tố đầu vào cùng tăng lên, thì sẽ xuất hiện việc phân công lao động và chuyên môn hoá. Điều này làm tăng tình hiệu quả của sản xuất. Kết quả sản lượng sẽ tăng nhiều hơn gấp đôi. Tuy nhiên, tăng gấp đôi số lượng yếu tố đầu vào thì việc quản lý sẽ trở nên khó khăn hơn nên hiệu quả của sản xuất sẽ giảm đi. Sự thay đổi của sản lượng khi số lượng các yếu tố đầu vào đồng loạt tăng lên với cùng một tỷ lệ. Giả sử hàm sản xuất có dạng q = f(K,L) và số lượng hai yếu tố đầu vào được nhân với một số nguyên dương m>1. Khi đó, ta phân loại hiệu suất theo quy mô của hàm sản xuất này như sau: - Nếu sản lượng tăng nhiều hơn m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô tăng. - Nếu sản lượng tăng đúng bằng m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô cố định. - Nếu sản lượng tăng nhỏ hơn m lần, ta gọi sản xuất có hiệu suất theo quy mô giảm. Trong số các loại hiệu suất theo quy mô thì hiệu suất quy mô cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong các lý thuyết kinh tế. Đó không chỉ vì nó phân định ranh giới giữa hiệu suất quy mô tăng dần và hiệu suất quy mô giảm dần trên phương diện toán học mà còn có lý do để tin rằng hàm sản xuất có hiệu suất quy mô cố định. * Mối quan hệ giữa hiệu suất quy mô và năng suất trung bình: Xem xét sự thay đổi của năng suất lao động trung bình (APL) khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào của các hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô khác nhau. 10 Ta có công thức tính năng suất trung bình:   L LKf L qAPL ,  . Khi tăng vốn và lao động lên m lần, thì năng suất lao động trung bình trở thành:   mL mLmKf L qAPL ,/  . Khi đó ta có các trường hợp sau: - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô tăng thì: f(mK, mL) > mf(K, L). Do đó AP/L > APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình cũng tăng lên, làm giảm chi phí để sản xuất ra một đvsp. - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô cố định thì: f(mK, mL) = mf(K, L). Do đó AP/L = APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình không đổi và như vậy chi phí để sản xuất ra một đvsp sẽ không đổi. - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô giảm thì: f(mK, mL) < mf(K, L). Do đó AP/L < APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình sẽ giảm xuống. Điều này có thể làm tăng chi phí để sản xuất ra một đvsp. 6. Đường đẳng phí Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọi là tổng chi phí và được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này. Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và vốn (K) có thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những mức giá nhất định. Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi phí cho lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao động (wL) phải bằng với tổng chi phí (TC). Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết: 11 v w wTC vTCS  / / S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng phí thay đổi. 7. Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng hay tối thiểu hoá chi phí 7.1 Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng Nếu người tiêu dùng muốn tối đa hoá hữu dụng trong điều kiện ràng buộc của thu nhập khả dụng thì nhà sản xuất cũng muốn tối đa hoá sản lượng trong điều kiện ràng buộc của chi phí. Doanh nghiệp thường muốn đạt được sản lượng tối đa với chi phí nhất định. Để tối đa hoá sản lượng doanh nghiệp sẽ lựa chọn tập hợp vốn và lao động mà tại đó sử dụng hết số tiền TC sẳn có và tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên bằng với tỷ giá của lao động và vốn. 7.2 Nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sản xuất Một cách khác để tối đa hoá lợi nhuận là tìm kiếm cách thức sản xuất ra một mức sản lượng nhất định với chi phí thấp nhất. Đó là vì giảm một đồng chi phí có nghĩa là tăng một đồng lợi nhuận, nếu doanh thu không đổi. Do đó, sản xuất với chi phí thấp sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Để tối thiểu hoá chi phí sản xuất để sản xuất ra một sản lượng nhất định nào đó, nhà sản xuất sẽ chọn sản xuất tại điểm mà tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (giữa lao động và vốn) bằng với tỷ lệ đơn giá lao động và đơn giá vốn. Công thức thể hiện nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí: v MP w MP KL  12 CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1.1. Thực trạng chung Nội tại vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều mảng yếu. Trong quá trình tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, những mảng yếu đó càng bộc lộ rõ hơn. Một trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Những cơ hội đem lại cho người lao động trong lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là việc làm tăng do sự xuất hiện nhiều nghề mới ở các lĩnh vực mới, khu vực mới; thị trường lao động phát triển, sự di chuyển lao động giữa các vùng và lãnh thổ, giữa các doanh nghiệp... tăng cao. Người lao động Việt Nam vừa có thể tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế vừa có cơ hội để tiếp nhận khoa học và công nghệ tiên tiến. Chúng ta đang có một lực lượng lao động xã hội rất lớn. Nguồn lao động của Việt Nam hằng năm được bổ sung nhiều nhưng cơ hội để họ có được việc làm bảo đảm thu nhập ổn định đời sống lại không dễ dàng. Số lao động đã được đào tạo không chỉ chiếm tỷ lệ thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém; cơ cấu đào tạo bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo ở cấp bậc đại học, cao đẳng. Thêm nữa, số đã qua đào tạo đối với thanh niên ở khu vực nông thôn lại chiếm tỷ lệ rất thấp so với khu vực đô thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã làm gia tăng áp lực về thiếu việc làm cho khu vực này thêm trầm trọng; đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ chất lượng nguồn nhân lực thấp. Mâu thuẫn nội tại chất lượng nguồn nhân lực nông thôn nước ta càng phát sinh thêm do chúng ta chưa tìm ra được lối thoát về đào tạo để nâng cao chất lượng nhân lực cho khu vực này. Hiện nay, hơn 78% lao động ở nước ta chưa qua đào tạo, trong số đó 63% là lao động ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Đây thực sự là một số liệu đáng để chúng ta phải suy nghĩ và trăn trở. Đặc điểm dễ nhận thấy ở người lao động của một nền sản xuất nông nghiệp có trình độ thấp ở Việt Nam như hiện nay là vẫn mang nặng tính chất của người sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng lực ứng dụng khoa học - công nghệ và các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn rất hạn chế, nên đa số họ là những người thụ động, tư duy cạnh tranh kém, tính tự do và manh mún cao. Từ đó thu nhập của họ thấp, khả năng 13 chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào môi trường lao động công nghiệp đòi hỏi các kỹ năng và tính kỷ luật lao động cao là không dễ dàng. Hiện nay nước ta có 10 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi, nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo chủ yếu thông qua các lớp tập huấn khuyến nông sơ sài. Trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần có việc làm ổn định thì chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học; 3,11% có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị). Với trình độ như vậy họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa nông sản trong khu vực và cũng khó có thể tìm được việc làm ở các doanh nghiệp đòi hỏi lao động phải qua đào tạo và đạt trình độ tay nghề cao. Do đó, nhiều nơi sau khi chuyển ruộng đất cho sản xuất công nghiệp, nếu doanh nghiệp có ưu tiên tuyển lao động trẻ cho các hộ mất đất thì họ cũng khó có thể đảm nhận công việc kỹ thuật để đạt được mức thu nhập cao, nên dù có những cơ hội chuyển đổi nghề, người lao động nông thôn (bao gồm cả thanh niên đến tuổi lao động và người chủ gia đình bị mất đất) đều khó tiếp nhận những nghề mới. Tình trạng nguồn lao động trình độ thấp, chưa được đào tạo nghề (cả nghề nông và phi nông) cùng với sự thiếu kiến thức, tác phong sống và tính kỷ luật, kỹ năng lao động trong lao động công nghiệp kém nên rất khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng cao trước tốc độ của công nghiệp hóa và hội nhập. Từ đó có thể thấy rằng, thu nhập của người lao động ở khu vực nông thôn thấp và ngày càng cách xa ở khu vực đô thị. Những điểm vừa nêu trên đây là một rào cản và thách thức lớn nhất trong giai đoạn hiện nay đối với người lao động khu vực nông thôn. Cũng cần phải nói đến một thực trạng có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực nông thôn là đội ngũ cán bộ cơ sở. Theo số liệu điều tra thống kê năm 2006, cả nước có 81.300 công chức xã. Về trình độ học vấn: có 0,1% chưa biết chữ; 2,4% có trình độ tiểu học; 21,5% trung học cơ sở và 75% trung học phổ thông. Về trình độ chuyên môn: 9% cao đẳng, đại học; 39,4% trung cấp; 9,8% sơ cấp; 48,7% chưa đào tạo. Về trình độ quản lý nhà nước: có tới 55% chưa qua bất kỳ lớp học quản lý nhà nước nào; 85% không hiểu biết gì về vi tính. ở vùng nào cũng có cán bộ chưa qua đào tạo. Tại các tỉnh vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ còn cao hơn. Đó là lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trì trệ, yếu kém, thiếu khả năng vận động tổ chức, chỉ đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở. Tình trạng lúng túng trong giải quyết các công việc phát sinh từ thực tế, thậm chí còn làm sai lệch chính sách, pháp luật không phải là hiện tượng cá biệt. Lực lượng khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở nông thôn hiện chỉ chiếm 0,5% - 0,6% lao động trực tiếp ở khu vực này... Bất cập nữa là về chính sách sử dụng và thu hút cán 14 bộ, người lao động có trình độ cao cũng đang bộc lộ sự bảo thủ, lạc hậu, chậm đổi mới, không thỏa mãn được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu hiện nay, ít nhất là về lợi ích, vì vậy không thu hút được lực lượng lao động có trình độ cao về làm việc ở địa phương, thậm chí còn khó ”giữ chân” được những cán bộ khoa học - kỹ thuật đang công tác tại các cơ sở ở nông thôn. Tình trạng này càng làm cho chất lượng nguồn nhân lực nông thôn trở nên thấp kém hơn. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn thấp, ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển chính là do môi trường kinh tế, văn hóa - xã hội nông thôn chưa thực sự thay đổi lớn theo hướng phát triển bền vững trên lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa nông thôn diễn ra với tốc độ cao nhưng mang nặng tính tự phát nên công nghiệp - dịch vụ nông thôn khó phát triển; môi trường tự nhiên bị phá vỡ, sinh thái bị mất cân bằng; thu nhập của nông dân tuy được cải thiện nhưng còn thấp; sự chênh lệch giữa các vùng, giữa nông thôn và đô thị ngày càng cách xa. Tác động của quá trình mất đất và sự thiếu chuẩn bị việc chuyển đổi nghề cho nông dân đã thúc đẩy tình trạng di dân tự do tìm việc làm ở đô thị hoặc các khu công nghiệp các tỉnh phía Nam. Nhiều nơi, lực lượng lao động trên đồng ruộng đa số là phụ nữ, người già và trẻ em. Từ đó, dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp bấp bênh; thu nhập từ lao động nông nghiệp không có lãi nên người lao động dễ dàng coi nhẹ sản xuất trên đồng ruộng. Như vậy có thể thấy khá rõ các yếu tố: môi trường xã hội và tự nhiên nông thôn suy giảm; trình độ kiến thức, kỹ năng lao động của người lao động nông thôn thấp; lực hút cán bộ khoa học - kỹ thuật khu vực nông nghiệp mỏng manh và trình độ quản lý, tổ chức của đội ngũ cán bộ cơ sở (thôn, xã) yếu kém làm cho chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn - chìa khóa mở ra sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gặp nhiều thách thức và trở ngại. 1.2. Công tác dạy nghề Những năm gần đây công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, nhiều lao động đã ý thức được việc học nghề và số người tham gia các khoá đào tạo tăng rõ rệt. Số lao động qua đào tạo ngày càng tăng đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động ngành nghề phi nông nghiệp và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về lao động. Quy mô đào tạo dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh, chỉ tiêu đào tạo bình quân hàng năm tăng 20%. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trong 3 năm - từ năm 2006 đến 2008 là 4,3 triệu người (năm 2008 là 1,54 triệu người), trong đó lao động nông thôn chiếm 52%. Tuy nhiên, các ngành nghề nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 5% số học sinh. Số lao động nông thôn được học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề bằng chính sách hỗ trợ theo Quyết định 15 81/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2006-2008 là 990.000 người. Nhiều địa phương đã khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là lứa tuổi thanh niên nhằm phát triển các nghề truyền thống. Bình quân hàng năm, các làng nghề đã đào tạo được thêm việc làm cho khoảng 250.000 lao động. Riêng các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong 3 năm từ năm 2006-2008 đã tuyển sinh được 120.322 người, trong đó quy mô tuyển sinh năm 2008 là 48.000 học sinh, lao động nông thôn chiếm trên 85%. Không thể phủ nhận được những thành quả của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn mang lại. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một thực tế là thời gian qua, số lượng và chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, năng lực hệ thống các trường đào tạo và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển nhưng lại tập trung chủ yếu ở vùng đô thị. Ở khu vực nông thôn và miền núi, vùng sâu vùng xa, số lượng cơ sở dạy nghề rất ít. Đến nay, cả nước còn 253 huyện chưa có trung tâm dạy nghề; 31% phòng học và 20,7% số nhà xưởng thực hành của các cơ sở dạy nghề là nhà cấp 4, nhà tạm, tập trung chủ yếu ở các cơ sở đào tạo do địa phương quản lý, các tỉnh khó khăn, huyện nghèo. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn còn thiếu về số lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Hiện nay, có 42 trung tâm dạy nghề không có giáo viên cơ hữu; 39 trung tâm dạy nghề chỉ có 1 giáo viên cơ hữu; 100 trung tâm có từ 2-3 giáo viên cơ hữu. Ngoài ra, các cán bộ quản lý dạy nghề ở một số cơ sở dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm quản lý. 1.3. Thực trạng tuyển sinh ngành nông nghiệp Tuy thị trường lao động đang “khát” nhân lực có đào tạo ở khối ngành nông - lâm - thủy sản, tỷ lệ lao động có việc làm trong lĩnh vực này lên đến 50 – 70%, nhưng dường như không nhiều sinh viên mặn mà với ngành học này. Mùa tuyển sinh ĐH, CĐ 2009, các trường có đào tạo ngành nông - lâm - thuỷ sản lâm vào tình trạng “đói” sinh viên, nhiều ngành 2 - 3 năm liên tiếp không có người học và dần “chết yểu” dù điểm trúng tuyển không cao, nhiều trường có điểm chuẩn bằng điểm sàn của Bộ. Trường “chờ” sinh viên Hai tuần đã trôi qua, trong khi các trường đã ổn định học tập, thì khoa Nông học (ĐH Nông lâm Huế) vẫn mỏi mòn chờ tân sinh viên nhập học. Năm học mới 2009, khoa có 250 chỉ tiêu ở bốn ngành học, nhưng chỉ có 61 tân sinh 16 viên làm hồ sơ nhập học. Ngành Bảo vệ thực vật, một ngành chủ đạo của nông nghiệp, nhưng hiện nay chỉ có khoảng có 13 sinh viên nhập học, bằng 26% so với chỉ tiêu cần tuyển. Các ngành khác cũng rơi vào ảnh tương tự: ngành nông học có 4 SV (chỉ tiêu 50), khoa học cây trồng có 42 em (chỉ tiêu 100); thậm chí ngành khoa học nghề vuờn không có sinh viên nào nhập học. Một cán bộ phòng Đào tạo ĐH Đà Lạt cũng cho biết, so với mọi năm, năm nay các ngành Nông học, Công nghệ sau thu hoạch… khó tuyển hơn nhiều (hiện ngành Nông học chỉ tuyển được khoảng 50% chỉ tiêu đào tạo). Những ngành như Nông học vốn không được nhiều thí sinh quan tâm lâu nay, cộng với kết quả điểm thi khối B năm nay không cao nên nguồn tuyển rất hạn hẹp. ĐH Tây Nguyên cũng phải xét tuyển khá nhiều chỉ tiêu NV3 đối với các ngành như Bảo quản và chế biến nông sản, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Lâm sinh… Trường đang trông chờ vào NV3 và chỉ mong tuyển đủ 50% chỉ tiêu đào tạo. Đại học Nông Lâm TP HCM cũng “chật vật” tuyển sinh các ngành: Phát triển nông thôn và khuyến nông, Cơ khí nông lâm, Cơ khí chế biến bảo quản nông sản thực phẩm… vì đến nay mới tuyển được khoảng 50% chỉ tiêu. Tương tự, tại ĐH Đồng Tháp, hiện các ngành như Nuôi trồng thủy sản, Sư phạm Kỹ thuật nông nghiệp đang thiếu chỉ tiêu trầm trọng. Cụ thể, ngành nuôi trồng thủy sản phải xét tuyển NV3 nhưng hiện nay chỉ khoảng 30 sinh viên. Còn ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp hầu như không có nguồn tuyển, hiện mới có 25 sinh viên. Qua đó ta thấy trong tương lai lực lượng kỹ sư để làm việc cho nghành nông nghiệp là rất thiếu, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, năng suất của ngành, theo lý thuyết sản xuất thì chỉ khi tuyển được người có MP > AP thì hiệu quả mang lại mới cao, tuy nhiên với tình hình này lực lượng lao động có trình độ cao trong ngành sẽ ngày một thiếu nếu không có những giải pháp kịp thời và phù hợp. 1.4. Xu hướng lao động rời bỏ ngành nông nghiệp, nông thôn Đa phần những nhân công trẻ có trình độ học vấn từ cấp ba trở lên, thậm chí mới chỉ hết cấp 2, cũng đều có xu hướng muốn làm việc ở thành thị hơn. Vài ba năm gần đây, Việt Nam chứng kiến sự phát triển rất nhanh trong sản xuất, xây dựng và dịch vụ việc làm tại thành thị. Điều đó dẫn đến tỷ lệ đô thị hóa rất nhanh và không phải lúc nào cũng kiểm soát được. Lao động trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta đang giảm với tốc độ 800 nghìn - 1 triệu người/năm, và giảm tỷ lệ công việc trong ngành nông nghiệp (bao gồm cả đánh bắt và lâm nghiệp) từ 62% xuống còn 54% chỉ trong vòng 5 năm, đây là một sự thay đổi rất nhanh về cơ cấu nhưng là một thực tế có thể hiểu được. 17 2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HIỆN NAY 2.1. Đào tạo nghề Về nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết là chú trọng việc đào tạo nghề nông cho nông dân và các chủ trang trại nhằm giúp họ nâng cao kiến thức hiểu biết về khoa học - kỹ thuật hướng tới năng suất lao động cao, chất lượng tốt, giá thành hạ, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; biết làm nghề nông một cách khoa học, có kỹ năng quản lý, có kiến thức thị trường để lựa chọn nghề sản xuất ra loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao; đồng thời, bồi dưỡng kiến thức xây dựng nông thôn mới để giúp họ tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch phát triển làng, xã, tự giác đóng góp xây dựng và quản lý sau xây dựng các công trình hạ tầng của cộng đồng. - Đào tạo nghề cho nông dân chủ yếu là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp qua trung tâm học tập cộng đồng tại thôn do một tổ chức đoàn thể hoặc hợp tác xã nơi đó chủ trì. Sử dụng các mô hình mẫu của chương trình khuyến nông. Kết hợp hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở trình độ cao hơn tại hệ thống các trường cao đẳng, trung cấp nông nghiệp tỉnh. - Đào tạo nghề công nghiệp - dịch vụ cho lao động nông thôn, chủ yếu là thanh niên, học sinh mới tốt nghiệp hệ phổ thông hoặc bổ túc văn hóa giúp họ chuẩn bị sẵn điều kiện chuyển sang lao động nghề phi nông nghiệp trong nước. Với lực lượng lao động này, cần đặc biệt coi trọng dạy nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao động đang tăng cao về số lượng và đòi hỏi chất lượng tốt. Hình thức đào tạo cho họ chủ yếu qua các cơ sở dạy nghề chuyên nghiệp tại địa phương. - Đào tạo nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ xã và quyết tâm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở. Nội dung đào tạo cho đội ngũ cán bộ xã chủ yếu là về kiến thức luật pháp, quản lý kinh tế - xã hội, kỹ năng tổ chức thực hiện các chủ trương, đề án của cấp trên ở địa bàn thôn, xã. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết là ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa theo các tiêu chí cơ bản: cán bộ tối thiểu phải có trình độ học vấn trung học phổ thông cơ sở và có chứng chỉ được đào tạo sơ cấp về quản lý nhà nước. Và, chỉ bố trí cán bộ vào bộ máy lãnh đạo, quản lý ở cơ sở khi họ có đủ tiêu chuẩn. 18 - Tiếp tục phát triển thêm các trường nội trú, trung học cơ sở, trung học phổ thông (theo cụm xã) cho các huyện vùng núi khó khăn, gắn với dạy nghề cho học sinh cuối cấp để tạo ra nguồn bổ sung về cán bộ và lao động có tay nghề cao. - Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nông thôn. Về nội dung này, cần tập trung thực hiện đồng bộ nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Chú trọng sự đồng đều về chất lượng giáo dục theo yêu cầu đổi mới đồng bộ, toàn diện. Thực hiện kiên cố hóa 100% phòng học theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phấn đấu đến năm 2020, các tỉnh vùng khó khăn (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Trung Bộ) phổ cập trung học cơ sở, các tỉnh còn lại phải đạt phổ cập trung học phổ thông. Để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ở địa bàn nông thôn, nhất là ở các xã, huyện khó khăn, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp, có tính khả thi cao. Đó là: - Tiếp tục đầu tư kinh phí cho kiên cố hóa phòng học ở khu vực nông thôn chưa hoàn thành. Hỗ trợ 100% kinh phí sách giáo khoa và sinh hoạt phí cho học sinh thuộc diện nghèo hoặc đối tượng chính sách xã hội cho học sinh các trường nội trú. - Hỗ trợ thúc đẩy dạy nghề, bằng việc điều chỉnh, bố trí ngân sách hỗ trợ mua sắm thiết bị đào tạo nghề cần thiết cho các trung tâm giáo dục cộng đồng. Tăng kinh phí đầu tư xây dựng các mô hình khuyến nông, xây dựng mô hình nông thôn mới hơn trước. Hỗ trợ kinh phí để ít nhất mỗi huyện có một Trung tâm dạy nghề tổng hợp theo chuẩn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (do doanh nghiệp đầu tư và thực hiện). Giúp cho người học nghề được vay ngân hàng không lãi suất tiền học phí (ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất ngân hàng). Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo công nhân (bằng chính sách hỗ trợ một phần kinh phí dạy nghề cho công nhân, nhân viên mới tuyển chưa có chứng chỉ nghề). - Hỗ trợ 100% kinh phí cho đào tạo cán bộ cơ sở và có chính sách đưa cán bộ khoa học - kỹ thuật về nông thôn thông qua việc yêu cầu thực hiện chế độ nghĩa vụ đối với sinh viên đại học (các ngành liên quan đến nông nghiệp, nông thôn) về công tác tại cơ sở xã thời hạn từ 3 đến 5 năm. Cùng với áp dụng nghĩa vụ đi thực tế và phục vụ nông thôn là khuyến khích chế độ đãi ngộ. Ngoài tiền lương, đối tượng này còn được hưởng ít nhất 50% lương và sau thời hạn nghĩa vụ, họ sẽ được ưu tiên xét tuyển bổ sung cho lượng công chức và các đơn vị sự nghiệp nông nghiệp các cấp./. 2.2. Chính sách đào tạo ở các trường Đại học Nước ta có mạng lưới các trường đào tạo chuyên về lĩnh vực nông nghiệp tương đối lớn, trải dài từ Bắc vào Nam như Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Nông - 19 Lâm (Đại học Thái Nguyên), Đại học Nông -Lâm Huế, Đại học Nông -Lâm TP. Hồ Chí Minh... Đó là chưa kể hệ thống các viện nghiên cứu khoa học với các ngành nghề đào tạo phong phú, đa dạng. Số lượng các trường phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành nông nghiệp rất lớn nhưng thí sinh lại không hào hứng với ngành này. Có rất nhiều nguyên nhân khiến sinh viên không quan tâm như ngành học không hấp dẫn, việc làm cũng như thu nhập không cao, việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, để giải quyết tình trạng này thì chương trình đào tạo khối ngành nông - lâm - ngư nghiệp cần đánh giá, tham khảo chương trình đào tạo của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến. Để tăng thêm tính hấp dẫn, thuyết phục trong các bài học, phải đào tạo theo hình thức tín chỉ, tăng số lượng các môn tự chọn. Ngoài ra, cần phải quy hoạch hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu mạnh, có đủ khả năng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, ứng dụng nhân lực trình độ cao, tạo nền tản để nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa, công nghệ cao. Hỗ trợ học phí và chính sách ưu tiên cho sinh viên: Có thể thu hút sinh viên theo học các khối ngành nông – lâm – ngư nghiệp bằng hình thức hỗ trợ học phí cho sinh viên và chính sách phụ cấp lương cho đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật làm việc trực tiếp tại nông thôn. Đồng thời khuyến khích học sinh khu vực nông thôn, miền núi theo học các ngành này. Đây là lực lượng được đánh giá có số lượng đăng ký theo học đông nhất và đang có xu thế tăng. Năm 2003 có 122.000 thí sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng thì có đến 62,7% thí sinh thuộc khu vực ưu tiên. Năm 2007, trong số 400.000 thí sinh trúng tuyển có 67,88% thí sinh thuộc khu vực ưu tiên. Là nước nông nghiệp với nhiều lợi thế từ các sản phẩm nhiệt đới nhưng để biến tiềm năng đó thành hiện thực, làm động lực cho phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, sản phẩm có khả năng cạnh tranh thì việc đầu tư vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết. Trước mắt, một số ngành học thuộc khối nông nghiệp không hấp dẫn nhưng tương lai đây sẽ là nghề tạo ra cơ hội việc làm lớn nhất. Các bạn thí sinh trước khi lựa chọn ngành học nên cân nhắc, tính toán thật kỹ vấn đề này. 2.3. Y tế Lập kế hoạch cho dịch vụ như dịch vụ y tế, giáo dục, nhằm cải thiện môi trường sống để giữ những người trẻ vẫn lựa chọn làm việc tại khu vực nông thôn. Vì, nếu họ không thể giữ cho con cái họ được khỏe mạnh hoặc giáo dục được con cái họ thì họ sẽ có xu hướng bỏ đi. 20 KẾT LUẬN Lao động nông nghiệp, nông thôn hằng năm được bổ sung nhiều nhưng cơ hội để họ có được việc làm bảo đảm thu nhập ổn định đời sống lại không dễ dàng. Số lao động đã được đào tạo không chỉ chiếm tỷ lệ thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém; cơ cấu đào tạo bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo ở cấp bậc đại học, cao đẳng. Thêm nữa, số đã qua đào tạo đối với thanh niên ở khu vực nông thôn lại chiếm tỷ lệ rất thấp so với khu vực đô thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã làm gia tăng áp lực về thiếu việc làm cho khu vực này thêm trầm trọng; đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ chất lượng nguồn nhân lực thấp. Và những khó khăn bất cập đó không phải là không khắc phục được, nó đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý, và những giải pháp này tôi cũng đã trình bày ở nội dung chương 2 của tiểu luận. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO ________________ [1] Niên giám thống kê việt Nam, Tổng cục Thống Kê [2] TS.Đinh Phi Hổ - Kinh tế nông nghiệp – 2003 [3] TS.Lê Khương Ninh – Kinh tế học vi mô- NXB Giáo dục- 2008 [4] Đánh giá việc thực hiện chiến lược KT-XH, trang Web của Bộ Kế hoạch Đầu tư [5] Thực hiện mục tiêu chuyển dich cơ cấu ngành của của Bộ Kế hoạch Đầu tư, trang Web của Bộ Kế hoạch Đầu tư [6] Kinh tế nông thôn.com.vn, trang web Báo điện tử của Báo nông thôn [7] Trang web tintuc.xalo.vn [8] Nhân tài nhân lực.com, trang web của Viện khoa học nghiên cứu nhân tài nhân lực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn việt nam hiện nay.pdf
Luận văn liên quan