Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

CƠ SỞ LÝ THUYẾT I.Những khái niệm cơ bản về CNH, HĐH II. Nền kinh tế tri thức: III. Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. B. LIÊN HỆ THỰC TẾ: 1. Thực trạng nguồn nhân lực: MỘT SỐ SỐ LIỆU VỀ THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3109 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ nhất là công nghệ thông tin ,công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Năm là phát triển nhanh ,hiệu quả và bề vững ,tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ,bảo vệ môi trường tự nhiên bảo tồn đa dạng sinh học.xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .Để thực hiện mục tiêu đó .trước hết kinh tế phải phát triển nhanh,hiệu quả và bề vững.Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ vơi việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học .Môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người.Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học,chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững. II. Nền kinh tế tri thức: 1.Tri thức là: - Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt được bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay thông qua sự giáo dục đào tạo; các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế về một đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó; - Là những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ, trong tổng thể; - Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự có được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh luận, quá trình lý luận, hay kết hợp các quá trình này. 2. Kinh tế tri thức: là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là một nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở đẩy nhanh sự phát triển của khoa học, công nghệ ở mọi lĩnh vực của cuộc sống. Theo ông Andrew Steer, nguyên Giám đốc World Bank tại Việt Nam, kinh tế tri thức chỉ là một phần của xã hội tri thức, trong đó mọi người đều có thể tiếp cận, sử dụng tri thức chung của toàn nhân loại để phục vụ cho công việc và cuộc sống của mình. Trong nền kinh tế tri thức ,hai ngành công nghiệp và nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp và chiếm đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức,dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Đó có thể là những ngành mới như CNTT, các ngành công nghiệp,dịch vụ mới dựa vào công nghệ cac,và cũng có thể là những ngành truyền thống được cải tạo bằng khoa hoc, công nghệ. Ví dụ: Ngành công nghiệp sản xuất ô tô thông minh không cần người lái ,nông nghiệp sử dung công nghệ sinh học ,tự động điều khiển ,hầu như không có người lao động,ngành công nghiệp dệt may sử dụng internet để sản xuất và cung cấp hang may mặc theo yêu cầu của khách hàng trên khắp thế giới… Một nước có thể được gọi là nền kinh tế tri thức khi : - Có hơn 70% GDP đóng góp do ngành kinh tế tri thức - Cơ cấu giá trị gia tăng có trên 70% giá trị do lao động trí óc mang lại. - Cơ cấu lao động có hơn 70% là công nhân trí thức - Cơ cấu tư bản trên 70% là tư bản con người. Một số đặc điểm của kinh tế tri thức: -Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ý thức đổi mới và công nghệ mới trở thành chìa khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh -Sản xuất công nghệ trở thành lọa hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất. các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, trong đó khoa học và sản xuất được thể chế hóa, không còn phân biệt giữa phòng thí nghiệm và công xưởng. -Ứng dụng CNTT được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng thông tin đa phương tiện đươc phủ khắp nước, nối hầu hết các tổ chức, gia đình. -Dân chủ hóa đươc thúc đẩy. mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mà mình cần. -Xã hội học tập. Giáo dục phát triển. Đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ cao. Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm -Tri thức trơ thành vốn quý nhất, nguồn nhân lực hàng đầu tạo tăng trưởng, không như các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ, tăng lên khi sư dụng và hầu như không tốn kém khi chuyển giao -Sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực tăng trưởng hàng đầu. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm -Các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh thì các công ty khác phải tìm cach sáp nhập hoặc chuyển hướng ngay -Toàn cầu hóa thị trường và sản phẩm. Sản phẩm phần lớn được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa 3.Nội dung và định hướng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức a.Nội dung: -Phát triển các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới của nhân loại Phát triển nhanh các ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao sẽ tạo ra được kết cấu hạ tầng kinh tế- kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh năng suất và hiệu quả lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế là điều kiện để hình thành nền kinh tế tri thức. Các ngành công nghệ cao (thông tin, sinh học, tự động hóa, vật liệu mới v.v...) cần được phát triển nhanh chóng Tập trung điều kiện để phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhằm tạo những bước “nhảy vọt” của nền kinh tế. Việc phát triển các ngành công nghiệp mới cần đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất, nhằm cho ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường. Về nông nghiệp, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức KHCN đến với người nông dân; xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; sử dụng công nghệ sinh học trong quá trình sản xuất nông nghiệp, làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông - lâm - thủy sản. -Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn là về số lượng, theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng vẫn thấp.Kinh nghiệm lịch sử của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, để đạt được mục tiêu trong dài hạn, cần có sự tăng trưởng bền vững, mà muốn tăng trưởng bền vững thì tăng trưởng phải có chất lượng. Tăng trưởng của Việt Nam không chỉ chủ yếu theo chiều rộng mà cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia chưa cao. -Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành,lĩnh vực và lãnh thổ Xây dựng chương trình, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hẹ thống kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành phần kinh tế Xây dựng cơ cấu kinh tế đươc gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được yêu cầu sau: -Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế -xã hội của đất nước -Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng -Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diên ra như vũ bão trên thế giới -Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đát nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế -Thực hiện tốt sư phân công và và hợp tác quốc tế theo xu hương toàn cầu hóa kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu mở Các vùng địa phương cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào thế mạnh của từng địa phương. Dựa vào tiềm năng, thế mạnh cần được khai thác triệt để nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, cùng với nông nghiệp còn đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, coi trọng phát triển các dịch vụ, làng nghề, các khu công nghiệp ở nơi có điều kiện.. Ở các huyện miền núi, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả và xây dựng các cơ sở chế biến sản phẩm hàng hóa để xuất khẩu. - Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành lĩnh vực có sức cạnh tranh cao Để nâng cao năng suất lao động, cần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ không có việc làm ở khu vực nông thôn, chuyển dịch mạnh hơn nữa cơ cấu lao động. Giảm mạnh số lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản.Tăng mạnh số lao động sang nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, vì sử dụng công cụ hiện đại hơn, chuyên môn hoá cao hơn, tính hàng hoá nhiều hơn, tiếp cận với thị trường tốt hơn.Tăng mạnh số lao động vào khu vực dịch vụ, nhất là những ngành có tính động lực như khoa học - công nghệ, tài chính tín dụng, du lịch, dịch vụ; đồng thời cần tăng cường tính chuyên nghiệp, chuyên trách, hạn chế tính kiêm nhiệm như hiện nay. Tất nhiên, để chuyển dịch cơ cấu lao động, cần phải chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ cấu nhóm ngành kinh tế. b.Đinh hướng : -Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.Bởi vì, nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, "Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả nước... Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại, phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn, đầu tư mạnh cho các chương trình xóa đói giảm nghèo Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. -Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Đối với công nghiệp và xây dựng : Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác,cồng nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, phải biết tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; mặt khác phải biết đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế. xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Tập trung điều kiện để phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhằm tạo những bước “nhảy vọt” của nền kinh tế. Việc phát triển các ngành công nghiệp mới cần đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất, nhằm cho ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường. Vận động các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Khuyến khích các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước Xây dưng kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở đô thị lớn…Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng Đối với dịch vụ : Cần hiện đại hóa nhanh các ngành dịch vụ như thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng... để trở thành những lĩnh vực kinh tế có hàm lượng tri thức lớn. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn mà không cần phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn có nhiều tiềm năng du lịch theo hướng khai thác các nguồn vốn trong nước, ngoài nước, đặc biệt là vốn trong dân. Từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm bản sắc nông thôn Việt Nam (như du lịch đồng quê, du lịch làng nghề, du lịch sinh thái, văn hóa và sông nước).Phục hồi và phát triển các nghề truyền thống của làng quê Việt Nam, tạo ra những sản phẩm phục vụ khách du lịch. Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ý thức bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, từ đó quảng bá, giới thiệu nhằm thu hút khách du lịch trên thế giới.Nâng cao ý thức của nhân dân ở các vùng nông thôn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, làm đẹp quê hương, bản làng, giữ gìn nếp văn hóa làng quê Việt Nam để tạo ra những sản phẩm du lịch văn hóa làng quê, văn hóa lễ hội nông thôn Việt Nam. Đây chính là nét đặc sắc rất hấp dẫn khách du lịch quốc tế. Gắn quy hoạch vùng du lịch với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhằm bảo đảm phát triển du lịch và kinh tế bền vững.Cần có các đề án thiết thực về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, sao cho để mỗi vùng quê, mỗi bản làng có đủ năng lực phát triển du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế có hiệu quả của địa phương. -Phát triển kinh tế vùng Chúng ta phải có cơ chế giữa các vùng. Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sư liên kết giữa các vùng và nội vùng: thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành nhưng trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao nhằm tạo ra sự phát triển chung cho cả nươc.Khai thác tiềm năng kinh tế của mỗi vùng Phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ phải có tầm nhìn xa, toàn diện nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng  kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, cùng phát triển. Đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường. Đối với miền Trung cũng vậy. Miền Trung hơi khác hơn vì đây là nơi khó khăn vì cơ sở hạ tầng đang còn yếu kém, điều kiện thiên nhiên, thiên tai, điều kiện nguồn nhân lực không được dồi dào, không được chú ý như vùng khác, cho nên có những hạn chế trong việc thu hút đầu tư. Cần có những chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý để đảm bảo sự phát triển. Miền Trung vừa phải là  kết hợp đồng bộ các quy hoạch, chiến lược phát triển ngành nghề lĩnh vực để đưa ra nguồn lực tập trung hơn; đồng thời phải có chính sách ưu đãi đầu tư để hỗ trợ vùng này. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập trung số lượng các khu công nghiệp lớn của cả nước.Hoạt động xuất nhập khẩu của vùng nhộn nhịp nhất nước phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, du lịch, bất động sản có tầm cỡ quốc tế. Hệ thống cảng biển phát triển. -Phát triển kinh tế biển Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trơ thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế Công nghệ đóng tàu ở Việt Nam có những lợi thế như nhiều cảng, có lực lượng lao động tiền lương thấp, công nghệ đóng tàu ở một số nước phát triển đã kém lợi thế so sánh nay đang muốn chuyển dịch sang nước khác...do vậy phải mở cửa hội nhập hơn nữa thì mới thu hút được công nghệ hiện đại hơn. Các hải cảng lớn nổi tiếng là cửa ngõ với bên ngoài của đất nước. Nếu dừng quan hệ quốc tế, kinh tế biển nước ta sẽ ngưng trệ. Nó chỉ có thể phát triển cao khi các quan hệ quốc tế được mở rộng.Vì vậy, Các ngành kinh tế biển phải được mở cửa, hội nhập sâu rộng.Xây dưng hệ thông cảng biển và vận tải biển, phát triển du lịch biển va cần phải mở của hội nhập để các công ty để các công ty nước ngoài vào đầu tư.Khai thác các tiêm năng lớn của biển :dầu khí, khoang sản, hải sản…Bên cạnh đó cũng cần có chính sách bảo vệ bờ biển nước ta -Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại – dịch vụ đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị trường.Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Trong một thời gian ngắn phấn đấu để phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ cập trung học phổ thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng đồng bằng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh gia. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho sự phát triển nước ta, từng bước sáng tạo những công nghệ mới đặc thù của nước ta, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao. - Bảo vệ,sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên quốc gia, cải thiện môi trường tư nhiên Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước; những bài học và kinh nghiệm về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của các nước trong khu vực và trên thế giới; công bố công khai những tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và hình thức xử lý. Đưa nội dung giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân. Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động của từng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá nhân, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô hình, điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường. Duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm. Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và ban hành qquy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là các chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế, nghiên cứu khoa học; chấm dứt nạn đổ phế liệu, xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, hồ ao. Thu gom và xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các biện pháp thích hợp; ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng, hạn chế tối đa việc chôn lấp. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới, dự báo kịp thời các diễn biến của biến đổi khí hậu, lồng ghép các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, dự báo, cảnh báo về tài nguyên, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Tăng cường sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, năng lượng sạch, năng lượng ái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường. Nâng cao năng lực của các cơ quan nghiên cứu, hiện đại hóa trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, đánh giá về môi trường. Tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo vệ rừng và môi trường biển. Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực để giải quyết các vấn đề môi trường liên quốc gia. Tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế và khu vực vì môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, chương trình, dự án song phương và đa phương về bảo vệ môi trường phù hợp với lợi ích quốc gia. Nâng cao vị thế của ước ta trên các diễn đàn khu vực và toàn cầu về môi trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân cho công tác bảo vệ môi trường. III. Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn nhân lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục đào tạo. - Vị trí của yếu tố con người: con người đóng vai trò quan trọng nhất trong các yếu tố trên và là nhân tố quyết định vì: + Các nguồn lực khác ko có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con người mới phát huy được tác dụng. + Các nguồn lực khác càng dùng càng hết, trái lại, nguồn lực con người càng dùng càng phát triển. - Yêu cầu về nguồn lực con người: Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lươnhk, cân đối về cơ cấu và trình đọ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. * Vai trò của giáo dục đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Có thể nói rằng GD& ĐT là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bởi vì: CNH, HĐH là một quá trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao. Kinh nghiệm một số nước cho thấy rằng phát triển nguồn lực chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững, Nhật Bản là một ví dụ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo(ăn khoai, sắn...). Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản lại phục hồi nhanh chóng (1945 –1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954 –1973), trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau Mỹ). Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước. Sự phát triển nguồn nhân lực do tích hợp nhiều nhân tố: giáo dục và đào tạo; sức khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm và cả sự giải phóng con người. Trong đó, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục đào tạo là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH đã chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là hết sức cần thiết,  vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. Nó tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như những phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp CNH, HĐH. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp GD & ĐT chậm đổi mới, chậm đẩy mạnh và  phát triển thì nguy cơ tụt hậu càng cao; CNH, HĐH sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ và kém về hiệu quả. Thế nên đầu tư cho giáo dục không chỉ nên đi trước một bước mà là cần đi trước nhiều bước. Giáo dục – đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa GD & ĐT (như các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho GD &ĐT  tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng chính yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH). Hiện nay ở nước ta việc vận dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho việc mở rộng, phát triển giáo dục và đào tạo đang là yêu cầu rất bức xúc.Với sự nỗ lực, tích cực của các phương tiện thông tin hiện đại, quá trình giáo dục được thực hiện một cách có hiệu quả hơn làm cho lực lượng lao động có thể tự nâng cao trình độ và tay nghề thông qua việc cập nhật các nguồn thông tin đa dạng và phong phú. Các công nghệ hiện đại có thể tạo ra khả năng mới cho con người thực hiện sự đa dạng hóa kiến thức và nghề nghiệp. Nhờ vậy có thể đáp ứng được những yêu cầu của xã hội về sự thích ứng, năng động của nguồn nhân lực. CNH, HĐH là quá trình làm thay đổi một cách căn bản sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nó không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của sự nghiệp GD & ĐT theo hướng hiện đại mà còn đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đòi hỏi con người phải luôn luôn học tâp và rèn luyện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì lẽ đó, GD & ĐT cũng đòi hỏi sự bổ sung, đổi mới thường xuyên về nội dung, chương trình, phương pháp và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bên cạnh đó, vì CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm thay đổi ít nhiều về giá trị, thang giá trị kéo theo sự biến động trong nhân cách con người nên GD&ĐT phải có sự tác động vào việc định hướng giá trị xã hội, đến với thang giá trị lành mạnh để phát huy được tính tích cực, sự sáng tạo của mỗi cá nhân nhằm tạo ra những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tóm lại, phát triển GD&ĐT là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển theo hướng hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. CNH, HĐH và GD – ĐT là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau. B. LIÊN HỆ THỰC TẾ: 1. Thực trạng nguồn nhân lực: Rẻ, nhưng thiếu chuyên môn    Mặc dù báo cáo nhận định VN có tiềm năng rất lớn về lao động giá rẻ do nhóm dân số trẻ chiếm tỉ lệ cao, nhưng có tới 59% số DN cho biết, rất khó kiếm được nhân sự quản lý cấp trung gian. "Đây là tỉ lệ cao nhất trong khối ASEAN và là tình trạng hết sức nghiêm trọng" - bản báo cáo nhận định. Thái Lan đứng sau VN, với tỉ lệ trả lời 43,2%. Các nước như Indonesia, Malaysia, Philippines đều khả quan hơn rất nhiều, với tỉ lệ từ 36% đến 38%.    Một trong những lợi thế "truyền thống" của VN là khả năng tuyển mộ LĐ phổ thông. Số liệu điều tra cho thấy, chỉ có khoảng 14% số DN cho rằng khó tuyển mộ LĐ. Đây là hậu quả của tình trạng LĐ bỏ việc khá phổ biến thời gian qua tại các khu công nghiệp.    Theo số liệu năm 2005 của Tổng cục Thống kê VN, lực lượng LĐ toàn quốc vào khoảng 44,4 triệu người, tốc độ tăng bình quân 1,7%/năm, nhưng tỉ lệ LĐ đã qua đào tạo nghề nói chung chỉ là 23%. Những lĩnh vực DN Nhật đang cần nhân viên kỹ thuật có trình độ là cơ khí (58,5% số DN trả lời) và điện/điện tử (41,5%). Tuy nhiên, có quá nửa số DN được hỏi than phiền về việc khó tìm được kỹ sư có trình độ. Nguồn nhân lực VN trong lĩnh vực công nghệ thông tin được coi là có lợi thế khi chi phí lương thấp hơn 20%-30% so với Trung Quốc, nhưng lại kém cạnh tranh về khả năng nói tiếng Nhật và kém cạnh tranh về chuyên môn so với Ấn Độ.    Thiếu người?     Trên các báo chí, phương tiện truyền thông liên tục đưa tin về tình trạng thiếu hụt lao động ở tất cả các trình độ, ở tất cả các bộ ngành. Câu chuyên ngành nhân lực đã trở thành tâm điểm kéo theo sự chú ý của xã hội đặc biệt với các doanh nghiệp. Trăm thứ đổ dồn vào việc thiếu nhân lưc như quản lý, vận hành, marketing, bán hàng.... nên đã xảy ra tình trạng "Câu lao động". Rất nhiều doanh nghiệp đang phải đau đầu khi giải bài toán nhân sự. Từ cuối năm 2006-thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) tạo đà cho sự bùng nổ của ngành tài chính với hàng loạt công ty, quỹ đầu tư, ngân hàng mới, chính trong lúc này, những nhân sự trở thành mốc nhắm của các doanh nghiệp mới, sử dụng các bổng lộc, quyền lợi và lương bổng đã khiến không ít doanh nghiệp bị rút ruột lao đồng cả trình độ cao và thấp, sự di chuyển đã tạo nên một làn sóng không chỉ trong thời gian ngắn mà còn trong các năm tiếp theo. Không chỉ trong lĩnh vực tài chính, vài năm trước đây nhiều doanh nghiệp CNTT, phần mềm cũng đã phải băn khoăn khi lưa chọn nhân sự. Bên cạnh việc bị chèo kéo bởi các công ty khác, doanh nghiệp còn đau đầu với nạn "nhảy việc", muôn vàn lý do khiến doanh nghiệp phải đau đầu, rối trí.     Chất lượng lao động:     TBKTSG tháng 7/2007: Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó ba phần tư là lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đại Đồng, Vụ trưởng Vụ Lao động và việc làm thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sau nhiều năm phát triển, thị trường lao động Việt Nam vẫn “chưa tương xứng với yêu cầu về nguồn lao động cho thị trường”. Theo ông Đồng, hiện mới chỉ có 32% số lao động là đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội soạn thảo đã khẳng định: “Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”.     Kỹ năng, tác phong thiếu chuyên nghiệp:     Kỹ năng làm việc của lao động Việt Nam, đặc biệt các lao động mới ra trường là nỗi lo thường trực của doanh nghiệp. Theo ý kiến của nhiều chủ doanh nghiệp, các cán bộ phụ trách nhận sự thì nguyên nhân chính của thực trạng này nảy sinh ngay từ trong giảng đường, sinh viên chỉ được học kiến thức mà chưa được rèn luyện kỹ năng. Nhiều doanh nghiệp đã phải đào tạo lại sinh viên khi ra trường và vừa đào tạo vừa phải lo lắng vì nhân viên luôn có ý định nhảy việc, tìm công việc mới để có thêm "kinh nghiệm".     Làm trái ngành nghề:     TBKTVN 14/09/2007: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam vừa thực hiện điều tra, khảo sát thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp FDI tại một số địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, khoảng 74% lao động có việc làm ổn định, 22% lao động không có việc làm ổn định, 4% thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 50% lao động có đào tạo được làm đúng nghề. MỘT SỐ SỐ LIỆU VỀ THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM Trong thời gian, 1997-2007, nền kinh tế Việt Nam đã giữ được tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 7%. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người đạt 835 USD (tăng 15 USD so với kế hoạch). Dự trữ ngoại tệ  đạt 20 tỷ USD (cao hơn so với các năm trước). Cơ  cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực (tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong GDP đã giảm xuống còn 20%, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng lên 41,7% (trong đó tỷ trọng công nghiệp chế biến trong khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 24,3%). Đây là giai đoạn bản lề rất quan trọng, chuẩn bị cho giai đoạn tăng tốc của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên nguồn nhân lực để  đáp ứng cho giai đoạn phát triển này cũng còn nhiều bất cập. Dưới đây là một số tư liệu về  thành tựu và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt nam. - “Nguồn nhân lực KH&CN còn ít về số lượng và  còn nhiều hạn chế về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp làm việc hiện  đại. Cơ cấu trình độ, ngành nghề của nhân lực KH&CN không đồng bộ, bất hợp lý, chưa tiếp cận  được với mặt bằng trí thức chung của thế  giới, năng lực sáng tạo hạn chế và hầu như  chưa được thế giới công nhận (Việt Nam có  rất ít đơn đăng ký phát minh sáng chế  được Tổ chức sở hữu trí tuệ thế  giới cấp và rất ít nhà khoa học Việt Nam có bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được thế giới công nhận (Nguồn: Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 4/2007). - Năng lực công nghệ của Việt Nam đứng gần cuối bảng trong khu vực châu Á: Thua Thái Lan 49 bậc, Malaysia –  54 bậc, Singapore 81 bậc (Báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2006 của Diễn đàn kinh tế thế giới – Global Competitiveness Report, Worrld Economic Forum). - Tỷ  lệ cán bộ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hiện còn rất thấp, chỉ là 0,18/100 dân (tỷ  lệ cán bộ R&D chỉ 0,05/100 dân) trong khi ở Hàn Quốc là 2,19 (gấp 12,2 lần); Mỹ 3,67 (gấp 20,4 lần) (Thống kê của UNESCO 2005). - Trong 5 năm (2001-2005), Việt Nam có 11 đơn đăng ký sáng chế  gửi cho Tổ chức sở hữu trí tuệ thế  giới trong khi Inđônêxia có 36 đơn, Thái Lan có  39 đơn, Philippin có 85 đơn, Hàn Quốc có 15.000 đơn, Nhật Bản có 87.620 đơn, Mỹ có 206.710 đơn.(Nguồn: Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 4/2007). - Chi phí  cho R&D của Nhật Bản là 3,04% GDP, Hàn Quốc là  2,44%, Singapore 2,03%, Trung Quốc 1,03% nhưng chi phí chung cho sự nghiệp KH&CN của Việt Nam chỉ đạt 0,4% (tính riêng đầu tư từ ngân sách Nhà nước – theo Bộ KH&CN, con số này bằng 60% tổng đầu tư của xã hội cho KH&CN) (Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, số tháng 4.2008, tr.8). - Năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 55% so với Trung Quốc, 35% so với Thái Lan, 15% so với Mailaixia và  khoảng 5-6% so với Hàn Quốc (Báo cáo phát triển con người năm 2006 – UNDP). - Tỷ  lệ xuất khẩu hàng công nghệ cao của Việt Nam còn rất thấp (chỉ chiếm 7% tổng lượng hàng xuất khẩu), trong khi con số này là 27% với Trung Quốc, 30% với Thái Lan, 54% với Singapore và 58% với Malaysia (Báo cáo của Ngân hàng thế giới về Chỉ số phát triển toàn cầu năm 2006). - Trong các nước ASEAN, nhóm ngành công nghệ cao của Việt Nam chỉ  chiếm 21% tổng sản phẩm sản xuất, con số này của Thái Lan gấp chúng ta 1,5 lần, Malaysia gấp 2,5 lần, Singapore gấp 3,5 lần (Báo cáo của Ngân hàng phát triển châu Á về Chỉ số năm 2005: Thị trường lao động ở châu Á). - Hiện cả  nước có khoảng 1000 giáo sư tham gia giảng dạy trong các trường đại học trong đó khoảng 500 người đã  ở tuổi nghỉ hưu. Với trên 3000 bộ môn  đang giảng dạy thì 6 bộ môn mới có 1 Giáo sư. Ở CHLB Đức, trung bình 62 sinh viên/1 Giáo sư, còn ở nước ta, nếu tính trên 1000 giáo sư  tham gia giảng dạy thì số sinh viên trên 1 giáo sư là 1400.(Nguồn: Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và đầu tư, tháng 4/2007). - Năm 2007, trong ngành y tế, số Giáo sư, Phó giáo sư đồng loạt về nghỉ hưu lên đến 3 con số, trong một lúc, gấp 10 lần những năm trước. Đơn cử, Trường Đại học Y Hà Nội có 64 Giáo sư, chỉ trong năm 2007, về nghỉ hưu 60 Giáo sư, còn lại có  4 người (Nguồn: phát biểu của đại diện Tổng hội Y học Việt Nam tại Hội thảo lấy ý kiến góp ý vào đề án về trí thức trình hội nghị Trung ương 7) - Hải Dương có 80% số dân làm nông nghiệp nhưng tỷ lệ  người có trình độ từ cao đẳng trở lên trong nông, lâm, thuỷ sản chỉ có 2,5%. Một thực tế dễ nhận thấy là hầu hết ở  263 xã phường, thị trấn hầu hết thiếu các kỹ  sư nông nghiệp. Một số ngành kỹ thuật khác có tỷ lệ người có trình độ từ  cao đẳng trở lên thấp như Xây dựng 3,8%; Giao thông vận tải 0,5% ; Bưu chính viễn thông 0,9% ; Thương nghiệp và khách sạn, nhà hàng có 1,7% ; các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và  dịch vụ tư vấn có 0,6%   - Năm 2004 – 2005, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Phú Thọ đã điều tra: Trong đội ngũ trí thức có trình độ cao của tỉnh, có 16 tiến sĩ đang làm việc chỉ có 4 người thuộc lĩnh vực kỹ thuật còn lại là lĩnh vực quản lý – xã hội nhân văn. Thạc sĩ có 165 người trong đó thuộc lĩnh vực kỹ thuật chỉ có 9 người (5 người thuộc Nông nghiệp, 4 người thuộc các lĩnh vực khác, còn lĩnh vực Công nghiệp không có). Tỷ lệ đào tạo đại học không chính quy trong đội ngũ công nhân viên chức của tỉnh khá cao. Có huyện đội ngũ đào tạo không chính quy tới 69%, có ngành tới 72%. 2. Đánh giá sự đóng góp của nguồn nhân lực vào sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta hiện nay: * Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa tới phát triển kinh tế : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là "một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội". Đây cũng là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới của cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cho các khu công nghiệp là hết sức cần thiết và có tính chiến lược lâu dài. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực kỹ thuật nói riêng đối với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vì, nguồn nhân lực, nhất là nhân lực kỹ thuật chính là  lực lượng lao động đã, đang và sẽ tham gia đắc lực vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là nguồn lực có ý nghĩa quyết định đối với các nguồn lực khác cũng như quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. *Giải pháp khắc phục - Đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo, liên kết 3 nhà: Nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp - Sử dụng hiệu quả  lực lượng tri thức với các cơ chế, chính sách năng động, khuyến khích trên cơ sở đổi mới chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng, tạo điều kiện để phát huy tài năng - tâm huyết... - Đầu tư xây dựng cơ  sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống, làm việc, từng bước nâng cao đời sống cho người lao động. - Có chính sách phù hợp, thỏa đáng trong đầu tư phát triển công nghệ,  đẩy mạnh liên kết trong đào tạo, sử dụng nhân lực... công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và  đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát  điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" thì tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa như là "một cuộc cách mạng toàn diện và  sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội". Đây cũng là nhiệm vụ  trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới của cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cho các khu công nghiệp là hết sức cần thiết và quan trọng. *Thách thức lớn của vấn đề nhân lực Trong vấn đề đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật, chúng ta đang gặp phải thách thức lớn. - Giải quyết việc làm. Theo số  liệu điều tra dân số tháng 4-1999: chỉ có  35,8 triệu/51,1 triệu người trong độ tuổi lao động có  việc làm; tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực  đô thị năm 2000 là 6,44%, khu vực nông thôn tính bình quân chung cả nước trên dưới 20% trong khi mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 triệu người đến tuổi lao động. - Chất lượng lao động. Hiện  ở nước ta chỉ có 20% lao động đang làm việc  đã qua đào tạo, do vậy năng suất lao động thấp; tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” ngày càng phổ biến. Năm 2003, Thành phố Hồ Chí Minh thừa 10.000 lao động trình độ đại học, cao đẳng, trong khi thiếu 50.000 công nhân kỹ thuật có tay nghề. - Sự chuyển dịch lao động. Sự dịch chuyển lao động đang diễn ra quá chậm từ khu vực 1 (nông nghiệp) sang khu vực 2 (công nghiệp) và khu vực 3 (dịch vụ). Lao động khu vực 1 từ  73% (1990) đã giảm xuống 71,8% (1995) và 68,2% (2000). Lao động khu vực 2 tăng 11,2% (1990) lên 11,45% (1995) và 12,1% (2000). Lao động khu vực 3 từ 15,75% (1990) lên 17,4% (1995) và 19,6% (2000). Số liệu này cho thấy, lao động từ nông nghiệp chỉ giảm được 4,2% trong 10 năm, (mỗi năm giảm 0,3%) là điều rất đáng lo ngại. * Những điểm yếu của lao động kỹ thuật hiện nay Qua nghiên cứu thực tế cho thấy đội ngũ lao động kỹ thuật của nước ta nhìn chung còn yếu và không đều, trong đó biểu hiện tập trung nhất là: - Yếu ngoại ngữ, tin học; - Nặng về lý thuyết, yếu về thực hành; - Thể lực yếu và không đồng đều; - Tính cộng đồng (tinh thần hợp tác, phối hợp, hỗ trợ làm việc đồng đội) yếu. Vì vậy, nếu không thực hiện nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm cao trong phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài thì  sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa  đất nước sẽ gặp khó khăn. *Nguồn nhân lực của VN chưa thể đáp ứng nhu cầu của xã  hội để phát triển kinh tế  : Qua việc nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cho thấy, hiện chúng ta chưa khắc phục  được bài toán thiếu hụt nguồn lao động kỹ thuật xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau đây: - Giáo dục - đào tạo không theo kịp sự chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hiện chỉ đảm nhận cung cấp nguồn nhân lực đào tạo được, chứ  chưa cung cấp được nguồn nhân lực khác mà xã  hội đang cần. Thực trạng là đang rất yếu về  mặt kỹ năng, thiếu hẳn sự phối hợp với thực tiễn (doanh nghiệp, cơ quan...), nói cách khác là  chưa thực sự gắn học với hành. - Doanh nghiệp chúng ta đa phần là nhỏ và vừa với kiểu quản lý qui mô nhỏ (gia đình, doanh nghiệp tư nhân, ông chủ) chưa có nhu cầu cấp bách nên chưa chú trọng đến đào tạo nhân lực thực sự có tài năng. Trong khi đó, Nhà nước chưa thoát khỏi tư duy bao cấp và chỉ nhìn trước mắt, chưa nhìn xa và  lâu dài nên còn thiếu chính sách và lớn hơn là  thiếu một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực. Nhìn tổng thể, nguồn nhân lực kỹ thuật của chúng ta đang thiếu đáng kể; nhìn cục bộ càng thiếu trầm trọng do không có chính sách thu hút, níu giữ  nhân lực kỹ thuật, để họ phải thường xuyên "nhảy việc", từ đó dẫn đến tình trạng không ổn định cho bản thân nguồn nhân lực cũng như  đối với doanh nghiệp và xã hội. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Lao Động số 276 Ngày 07/10/2006 Cập nhật: 6:25 AM, 07/10/2006 - Thời báo kinh tế Việt Nam 18/09/2007 - Báo điện tử: - Và một số diễn đàn Internet khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.doc
Luận văn liên quan