Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Đặt vấn đề Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang ngày càng được hoàn thiện. Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất góp phần quyết định vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao và ổn định trong thời gian qua. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường của nước ta vẫn còn nhiều vấn đề phải lưu ý. Một trong những vấn đề đó là sự hình thành và phát triển các loại thị trường. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, một số vấn đề đặt ra là muốn hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì việc phát triển các loại thị trường nói chung và một trong những thị trường trọng điểm nói riêng là thị trường hàng hoá và dịch vụ đang là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Thị trường hàng hoá và dịch vụ là bộ phận cơ bản của thị trường đầu ra của nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế- xã hội. Đây là một điều kiện cơ bản để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Với đề tài “ Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” tôi xin được đề cập đễn một số khía cạnh của vấn đề này. B. Nội dung I.Khái niệm về thị trường và kinh tế thị trường : 1.1 Khái niệm về thị trường : Thị trường là một phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hoá, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán đã được thể chế hoá nhằm xác định giá cả và khối lượng hàng hóa. Như vậy thị trường chứa đựng tổng cung tổng cầu mối quan hệ cung - cầu, mức giá và những yếu tố không gian, thời gian, xã hội đối với một loại sản phẩm nào đó của nền sản xuất hàng hóa. Mức độ phát triển của thị trường phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. 1.2 Khái niệm về kinh tế thị trường : Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người, nó là hình thức phát triên cao của kinh tế hàng hoá. Nếu kinh tế hàng hoá giản đơn chỉ dừng lại ở sự trao đổi thì kinh tế thị trường đã có những bước tiến vượt bậc về bản chất. Kinh tế thị trường thực hiện phân bố các nguồn lực của xã hội thông qua cơ chế thị trường được chi phối bởi các quy luật cơ bản là quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Các quan hệ mang tính áp đặt, cống nạp, cưỡng đoạt của kinh tế tự nhiên đã được thay bằng quan hệ thị trường ngang gía, trao đổi hàng hoá - tiền tệ. Lực lượng sản xuất phát triển được hỗ trợ bởi một hệ thống các thể chế thị trường nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách có hiệu quả nhất. 1.3 Một số đặc điểm của nền kinh tế thị trường : Thứ nhất, kinh tế thị trường là một sự phát triển mang tính tất yếu.Sự hiện diện của kinh tế thị trường tại tất cả các quổc gia trên thế giới cho thấy kinh tế thị trường có sức sống mãnh liệt và là bước phát triển tự nhiên mang tính quy luật trong lịch sử nhân loại. Từ những mầm mống phát sinh trong nền kinh tế phong kiến, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã phá vỡ những kết cấu phong kiến, thúc đẩy tự do hóa kinh tế và thiết lập vững chắc quan hệ hàng hóa tiền tệ. Tích lũy tư bản, quá trình công nghiệp hóa đã biến mọi yếu tố của sản xuất thành hàng hóa. Kinh tế thị trường luôn tồn tại và phát triển ngay cả khi một quốc gia nào đó không thừa nhận nó. Những động lực phát triển mang tính nội sinh đã giúp cho kinh tế thị trường trở thành tất yếu. Thứ hai, kinh tế thị trường có khả năng thích ứng với các hình thái xã hội khác nhau. Có thể nhận thấy tính đa dạng của các nền kinh tế thị trường hiện nay tại các quốc gia với những sự khác biệt về cơ cấu sở hữu xã hội. Quá trình phát triển kinh tế thị trường có thể phát huy tác dụng tích cực của nó với những chủ thể kinh tế khác nhau: cá thể, tiểu chủ, tư bản hay nhà nước. Điều quan trọng là các chủ thể kinh tế này cần có khă năng độc lập và cạnh tranh một cách bình đẳng, các quy luật của thị trường phải được tôn trọng. Nói cách khác, kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của sản xuất hàng hóa và hoàn toàn có thể được xây dựng tại những quốc gia có những chế độ chính trị xã hội khác nhau, vì bản chất của kinh tế thị trường là sử dụng nguồn lực khan hiếm có hiệu quả của quá trình sản xuất và dịch vụ. Thứ ba, sự đa dạng trong mô hình của kinh tế thị trường,các nền kinh tế đang phát triển hiện nay hoàn toàn có khă năng rút ngắn thời gian phát triển. Ngày nay, các quốc gia với những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau đã có những phương thức tiến trình xây dựng kinh tế thị trường hoàn toàn khác nhau. Những khác biệt to lớn có thể tìm thấy trong sự phát triển của các nước NIEs so với Anh, Mỹ hay Nhật Bản. Với lợi thế của những nước đi sau, áp dụng thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, các quốc gia này có thể tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường phát triển trong vòng 15-20 năm so với hàng trăm năm của nước Anh hay 50 năm của Nhật. II. Thị trường hàng hoá và dịch vụ : 2.1 Khái quát thị trường hàng hoá và dịch vụ : Thị trường hàng hoá và dịch vụ là bộ phận cơ bản của thị trường đầu ra của nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế- xã hội. Theo nghĩa hẹp, thị trường hàng hoá và dịch vụ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, khi nói đến thị trường hàng hoá và dịch vụ, chủ yếu đề cập đến các loại hàng hoá và dịch vụ là sản phẩm cuối cùng và phục vụ tiêu dùng.Các loại hàng hoá và dịch vụ phục vụ sản xuất thưòng được phân tích sâu hơn trong thị trường các yếu tố sản xuất. thị trường hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thễ tham gia thị trường đã được thể chế hoá. 2.2 Đặc trưng của thị trường hàng hoá và dịch vụ : Đặc trưng của thị trường hàng hoá và dịch vụ là sự đa dạng của các chủng loại và hàng hóa trên thị trường, của các thành phần tham gia, các hình thức và các cấp trên thị trường Chủng loại các hàng hoá dịch vụ đang ngày càng tăng lên một cách không có giới hạn. Cấu trúc của thị trường hàng hóa còn rất phức tạp với nhiều cấp khác nhau: bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu và nhập khẩu v.v Với sự phát triển của công nghệ thông tin thì hình thức và phạm vi hoạt động của các thị trường hàng hóa và dịch vụ dã có nhiều thay đổi so với thị trường truyền thống. Những hình thức mới như bán hàng qua mạng internet đã thực sự tác động sâu sắc tới lối sống và phương thức tiêu dùng của xã hội. 2.3 Đặc điểm cơ bán của thị trường hàng hoá và dịch vụ : Thị trường hàng hoá và dịch vụ mang tính cạnh tranh cao. Khả năng độc quyền chi phối toàn bộ thị trường của một doanh nghiệp nào đó là hết sức khó khăn. Mức giá và lượng hàng hoá và dịch vụ được cung ứng quyết định bởi thị trường thông qua quan hệ cung - cầu.Tuy vậy do những đặc điểm của từng loại hàng hóa và yêu cầu của quy mô tối ưu, trên một số thị trường hàng hoá và dịch vụ có sự tập trung phát triển của một nhóm các doanh nghiệp lớn với thị phần áp đảo. thực tế cho thấy, các doanh nghiệp cũng khó thoả thuận với nhau để tiến hành chi phối độc quyền thị trường. Tuy vậy, vai trò của các thể chế độc quyền là hết sức quan trọng, tính cạnh tranh phải được đảm bảo trên cả hai phương diện: từ góc độ người mua và từ góc độ người bán. Sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực hệ thống phân phối, công nghệ sẽ đảm bảo cho việc cạnh tranh hiệu quả giữa các nhà sản xuất và tạo điều kiện cho mọi khách hàng có nhu cầu tiếp cận thuận lợi với các nguồn cung cấp hàng hóa, làm cho hệ thống phân phối hoạt động mạnh và hiệu quả hơn. Phần lớn các thị truờng hàng hoá và dịch vụ có độ co dãn lớn và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các chính sách của chính phủ. Ngoại trừ một số loại hàng hoá đặc biệt, phần lớn các loại hàng hoá đều có sản phẩm thay thế, vì vậy sự chuyển dịch của người tiêu dùng từ thị trường này sang thị trường khác là tương đối dễ dàng và ít tốn kém. Do vậy, thị trường hàng hoá và dịch vụ nhìn chung là dễ bị tổn thương truớc các biến động của môi trường. Thị trường hàng hoá và dịch vụ có độ liên kết lớn. Thị trường hàng hóa có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau như theo chủng loại hàng hóa, theo phưong thức mua bán( bán buôn – bán lẻ), theo hình thức tổ chức( tập trung, phi tập trung, qua mạng), theo phạm vi (địa phương , cả nước , quốc tế) v.v Điểm đặc biệt là dù phân loại theo phương thức nào thì mối liên hệ giữa các thị trường là hết sức sâu sắc. Mọi sự phân chia cắt đoạn thị trường đều gây ảnh hưởng xấu, lan truyền đến toàn bộ hệ thồng thị trường. III. Quá trình hình thành và phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ : 3.1 Đường lối đổi mới của Đảng về phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam : Năm 1986, Đại hội Vi Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi sướng công cuộc đổi mới ở nước ta. Từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một bước ngoặt quan trọng trong lích sử phát triển kinh tế Việt Nam. Từ đổi mới tư duy đến đổi mới cơ chế kinh tế và xây dựng hang loạt chính sách, luật pháp theo nguyên tắc thị trường là một quá trình lích sử lâu dài. Từ Đại hội Vi đến Đại hội IX của Đảng, nhiều tư duy, nhận thức mới đã được đúc rút thành các quan điểm mới. Nhiều vấn đề lý luận trong đường lối, chính sách đã dần sáng tỏ. Thực tiễn đã làm sáng tỏ nhiều nhận thức mới. những quan điểm mới về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cũng dược sáng tỏ dần. chủ nghĩa xã hội gắn với thực tiễn cuộc sống không duy ý chí như trước. Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sỡ hữu tư nhân, sở hữu tập thể với các hình thức tổ chức sản xuất phong phú, tạo ra một môi trường cạnh tranh có sự quản lý hữu hiệu của Nhà nước như là mô hình kinh tế hướng tới ở nước ta. Theo các quan điểm đổi mới, đến Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phải phát triển các loại thị trường. Nghị quyết IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ”. Dựa trên những quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước ta cũng đang tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững theo mục tiêu đến năm 2020, nước ra cơ bản hình thành một thể chế thị trường đồng bộ. 3.2 Sự hình thành và phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ : Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các chủ thể tham gia vào lưu thông hàng hóa trên thị trường chủ yếu là thương mại quốc doanh và tập thể. Thương mại tư bản tư doanh bị xoá bỏ. Hoạt động thương mại được quy định theo địa chỉ cụ thể, theo chỉ tiêu kế hoạch. Hàng hóa kinh doanh trên thị trường được phân loại theo chỉ tính chất sử dụng và hình thành nên hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh theo từng mặt hàng: doanh nghiệp kinh doanh vật tư, doanh nghiệp kinh doanh hàng tiêu dùng v.v Ngoài hệ thống này còn tồn tại hệ thống kinh doanh thương mại những vật tư hàng hóa chuyên dùng của các bộ, các ngành theo nguyên tắc sản xuất – tiêu dùng. Nhà nước quản lý hoạt động thương mại, dịch vụ thông qua các bộ: Bộ Ngoại thương, Bộ Vật tư, Bộ nội thương. Chế độ hạch toán kinh doanh trong thương mại mang tính hình thức. thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh, các doanh nghiệp thương mại tiến hành tiêu thụ theo chỉ tiêu định sẵn. Việc thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh như vậy đã dẫn đến một thực trạng là cung và cầu gặp gỡ nhau trước khi hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường. IV. Thực trạng phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở Việt Nam hiện nay 4.1 Thực trạng phát triển thị trường hàng hóa : 4.1.1 Thị trường hàng hóa trong nước : Sự phát triển của thị trường hàng hóa được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau : Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu tăng mạnh, đặc biệt là từ sau năm 1985. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự tăng nhanh về tổng sản lượng hàng hóa bán lẻ là do sự đổi mới cơ chế kinh tế, đời sống dân cư được cải thiện, sức mua hàng hóa tăng nhanh. Bên cạnh đó còn kể đến sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và ngày càng hoàn thiện, các hoạt động kinh doanh cũng như dịch vụ bán hàng. Việc lưu thông hàng hóa đã từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị theo quan hệ cung cầu. Thị trường từ trạng thái chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính, “ tự cấp, tự túc” sang tự do lưu thông hàng hóa, làm thị trường trong nước sống động và phát triển, tổng mức lưu chuyển hàng hóa tăng nhanh. 4.1.2 Thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu : Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm không ngừng tâng nhanh. Năm 1985 tăng gấp 1,54 lần so với 1980, năm 1990 tăng gấp 2 so với 1985. Đến năm 1992, lần đầu tiên Việt Nam đạt được mức cân bằng trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 1994 kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam tăng lên 50% so với năm 1993,. Tuy nhiên tốc độ tăng của xuất khẩu chậm hơn so với nhập khẩu là do trong giai đoạn này nhiều nhà đầu tư vào Việt nam, nhiều khu lien doanh, khu chế xuất ra đời. Hàng hóa nhập khẩu cho nhu cầu trong khu vực kinh tế này tăng nhanh. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1998 đã làm cho nền kinh tế một số nứoc trong khu vực lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ năm 1999, tốc độ xuất nhập khẩu của Việt nam đã tăng lên với nhịp độ nhanh. Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu có chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỷ USD năm 2005, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5 tỷ USD trong năm 2007. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng tăng nhanh từ 30,8% năm 1990 lên 46,5% năm 2000, lên 61,3% năm 2005, lên 65% năm 2006 và 67% năm 2007 - thuộc loại cao so với các nước (đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 ở châu á và thứ 8 trên thế giới). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người cũng tăng từ 36,4 USD năm 1990, lên 75 USD năm 1995, lên 186,8 USD năm 2000, lên 391 USD năm 2005, lên 473,2 USD năm 2006 và khả năng năm 2007 đạt 557 USD. Sự tăng tốc của xuất khẩu của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do mở rộng thị trường xuất khẩu. Vậy từ thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý. Thứ nhất, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ nước ta đã tăng nhanh trong hơn mười năm qua. Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ buôn bán với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè có cảm tình với Việt Nam. Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng. Nhưng do Việt Nam còn là nền kinh tế thiếu hụt, lại vẫn còn bị bao vây cấm vận, nên số nước và vùng lãnh thổ đầu tư này vẫn còn rất ít và quy mô xuất khẩu của Việt Nam cũng còn rất nhỏ bé. Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường, Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh. Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Thứ hai, trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam, số đạt trên 100 triệu USD có 28, số đạt trên 500 triệu USD có 16, số đạt trên 1 tỷ USD có 7, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa, Australia, Singapore, Đức, Malaysia, Anh. Như vậy, bên cạnh việc mở rộng thị trường, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, việc xác định các thị trường trọng điểm là hết sức cần thiết để giảm chi phí vận chuyển, tiếp thị quảng cáo . Tuy nhiên, việc "bỏ trứng vào một giỏ" cũng là điều nên tránh và việc mở rộng thị trường để tăng lượng tiêu thụ, phòng tránh những rủi ro khi xảy ra ở một thị trường nào đó (chẳng hạn như việc kiện bán phá giá). Thứ ba, trong các thị trường trên có một số thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng, thị trường mới, thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam còn thấp, như Indonesia, Mông Cổ, các nước Trung Nam Á, (kể cả Ấn Độ), các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các nước Mỹ La tinh, các nước châu Phi, các nước Châu Đại Dương (trừ Australia là thị trường lớn). Thứ tư, trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam, thì: Việt Nam đã có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ, trong đó xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ, Việt Nam còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ, Kuwait, . Theo đó, thì nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là ở các thị trường gần, chưa phải là nơi có công nghệ nguồn; còn xuất siêu của Việt Nam lại chủ yếu là ở các thị trường xa, thị trường có công nghệ nguồn. 4.2 Thực trạng phát triển thị trường dịch vụ : 4.2.1 Thị trường dịch vụ bảo hiểm : Thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. thời kỳ đầu, Bảo Việt là công ty độc quyển cung cấp dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất, nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, làm địa lý giám định và xét bồi thường cho các công ty bảo hiểm ở nước ngoài về hàng hóa xuất nhập khẩu. Từ khi nền kinh tế chuyển đổi, cơ chế hoạt động độc quyền không còn phù hợp nữa, chính phủ đã ban hành nghị định 100/CP ngày 18-12-1993 về kinh doanh bảo hiểm, từ đó đã tạo môi trường thuận lợi cho thị trường dịch vụ bảo hiểm phát triển. Theo số liệu của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (năm 2007), hiện thị trường bảo hiểm Việt Nam có 18 doanh nghiệp cổ phần và 19 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu chia theo lĩnh vực kinh doanh thì có 20 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ; 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm; 8 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và 8 doanh nghiệp môi gới bảo hiểm. Hiện có 150.000 đại lý bảo hiểm với trên 100 sản phẩm nhân thọ và hơn 500 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ đã được các công ty bảo hiểm đưa ra thị trường. Bảo hiểm cũng đã đóng góp 2% vào GDP của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 29%/năm. Tuy nhiên, với chính sách mở cửa khác nhau nên thị trường bảo hiểm Việt Nam được phân chia khá chênh lệch. Ở lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, do Việt Nam chưa mở cửa nên các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chiếm đến 95% thị phần, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chiếm đến 62,5% thị phần bảo hiểm nhân thọ. Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng. Dù có tăng trưởng cao, nhưng tỉ lệ đóng góp phí bảo hiểm vào GDP của Việt Nam như vậy là khá nhỏ nếu so sánh với các nước trong khu vực. Một vấn đề khác cần quan tâm là cho dù thị trường phát triển nhanh nhưng không cân xứng giữa các công ty, giữa các thành phần kinh tế. Mức độ tập trung thị trường cao nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, có hiện tượng độc quyền nhóm trong một số doanh nghiệp bảo hiểm chuyên sâu các ngành dầu khí, xăng dầu, bưu chính viễn thông. Qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế. Phương thức cạnh tranh vẫn chủ yếu là giảm phí và khai thác thị trường thông qua các mối quan hệ. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế. Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP. Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống. Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao. Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài. Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”. Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP. Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP.Vậy đâu là giải pháp? Mục tiêu trước mắt đối với ngành bảo hiểm Việt Nam là rất nặng nề. Việc duy trì được tốc độ tăng trưởng lên đến 40% một năm là điều khó khăn, tuy nhiên để nâng cao hơn nữa so với tốc độ tăng trưởng trong ba năm qua là điều có thể thực hiện được. Để làm được việc này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp phù hợp nhằm tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả đầu tư như sau: Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới. Hiện nay các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ sự bảo hộ của Chính phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng từ trước. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác thị trường và các mối quan hệ nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống. Đây là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các công ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện các kế hoạch và chiến lược kinh doanh dài hạn để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực. Thành lập các tổ chức đầu tư độc lập với hoạt động khai thác để có thể thực hiện đầu tư chuyên nghiệp và hiệu quả từ phí bảo hiểm. Liên doanh, liên kết với các tổ chức tài chính để có thể có khả năng mạnh hơn với áp lực cạnh tranh khi các công ty bảo hiểm nước ngoài gia nhập thị trường theo lộ trình cam kết của Việt Nam với WTO. Giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách đưa các doanh nghiệp bảo hiểm lên sàn để vừa gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, vừa dễ huy động vốn, gia tăng khả năng tài chính trong hoạt động. Mười lăm năm qua, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đóng góp một cách chủ động vào phát triển tài chính, nhưng những hạn chế này sẽ nhanh chóng được gỡ bỏ. Với mục tiêu chiến lược phát triển phù hợp và trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vai trò trong nền kinh tế. 4.2.2 Thị trường dịch vụ du lịch : Dịch vụ du lịch phát triển chậm hơn các nước khác nhưng việt Nam có thuận lợi là nằm trong khu vực có dịch vụ du lịch quốc tế phát triển mạnh. Mặt khác, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn về du lịch, giàu tài nguyên du lịch. Ngành du lịch được coi là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao.Giai đoạn 1990-2000 có thể khẳng định là giai đoạn bứt phá trong tăng trưởng khách và thu nhập. Khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250 nghìn lượt (năm 1990) lên 2,05 triệu lượt (năm 2000); khách nội địa tăng 11 lần, từ 1 triệu lượt lên 11 triệu lượt; thu nhập du lịch tăng gần 13 lần từ 1.350 tỷ đồng lên 17.400 tỷ đồng. 5 năm gần đây (2001-2005), tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhưng do áp dụng các biện pháp táo bạo tháo gỡ kịp thời, nên lượng khách và thu nhập du lịch hàng năm vẫn tiếp tục tăng trưởng 2 con số. Khách quốc tế năm 2001 đạt 2,33 triệu lượt, năm 2005 đạt gần 3,47 triệu lượt; khách nội địa năm 2001 đạt 11,7 triệu lượt; năm 2005 đạt 16,1 triệu lượt; người Việt Nam đi du lịch nước ngoài năm 2005 ước khoảng 900 nghìn lượt. Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành dịch vụ (riêng GDP du lịch hiện chiếm khoảng 4% GDP cả nước, theo cách tính của UNWTO thì con số này khoảng 10%). Du lịch là một trong ít ngành kinh tế ở nước ta mang lại nguồn thu trên 2 tỷ USD/năm. Hơn 10 năm trước, Du lịch Việt Nam đứng vào hàng thấp nhất khu vực, nhưng đến nay khoảng cách này đã được rút ngắn, đã đuổi kịp và vượt Philíppin, chỉ còn đứng sau Malaysia, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Theo UNWTO, hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới. Năm 2004, Du lịch Việt Nam được Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới xếp thứ 7 thế giới về tăng trưởng lượng khách trong số 174 nước; Việt Nam được xếp vào nhóm 10 điểm đến hàng đầu thế giới. Du lịch cũng đã góp phần phát triển yếu tố con người trong công cuộc đổi mới. Hoạt động du lịch đã tạo ra trên 80 vạn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các tầng lớp dân cư, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài; đã thực hiện tốt vai trò ngoại giao nhân dân với chức năng “sứ giả’’ của hoà bình, góp phần hình thành, củng cố môi trường cho nền kinh tế mở, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn nhỏ. Tốc độ tăng trưởng việc làm trong ngành vẫn tiếp tục ở mức thấp hơn so với mức tăng trung bình của khu vực. Năng lực của các công ty du lịch Việt Nam không tương xứng với tiềm năng. Nhìn chung, các ngành hỗ trợ du lịch vẫn chưa phát triển cùng nhịp với sự phát triển của ngành du lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, phương tiện vận tải lạc hậu, đường vận chuyển hàng không vẫn chưa được phát triển đúng mức. Công nghệ thông tin chưa được ứng dụng nhiều; ứng dụng thương mại điện tử trong điều hành các tour du lịch và giao dịch giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch chưa được nhiều, hoạt động xúc tiến du lịch ở nước ngoài còn yếu về số lượng và hiệu quả. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao vẫn chưa phát triển và các dịch vụ ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu. Sản phẩm dịch vụ du lịch chưa phong phú, đa dạng. Ta có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp và có bãi biển được xếp hạng tầm quốc tế, nhưng trên phạm vi cả nước, chưa có được một khu du lịch tầm cỡ và có tên tuổi như Pataya, Phuket (Thái Lan), Sentosa (Singapore), Bali (Inđônesia), hay Genting, Langkawi (Malaysia). Đặc điểm này đã ảnh hưởng đến việc thu hút được sự chú ý của khách du lịch, không kéo dài được thời gian nghỉ ngơi của khách tại Việt Nam, không tạo cơ hội để tăng chi tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam. Nguồn nhân lực cho du lịch chưa được đào tạo một cách hệ thống về chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Năng lực ngoại ngữ, kỹ năng công nghệ thông tin và khả năng giao tiếp còn hạn chế. Các cơ sở đào tạo du lịch phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù có sự bùng nổ về số lượng các công ty du lịch lữ hành trong nước, song các công ty này cạnh tranh thiếu lành mạnh về giá, giảm chất lượng dịch vụ, vi phạm các yêu cầu về giấy phép hành nghề. Hiện nay sự liên kết, hợp tác giữa các Bộ ngành, địa phương, lãnh thổ tuy gần đây có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn yếu hoặc thiếu (Tổng cục Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông Vận tải, Công an) đặc biệt là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên. Cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành (tài chính, ngân hàng, hàng không, biên phòng, hải quan, điện lực và viễn thông ) trong hỗ trợ phát triển du lịch. Bên cạnh đó, hệ thống thống kê áp dụng trong ngành du lịch Việt Nam cũng chưa được cải tiến nhiều. Vấn đề cảnh quan môi trường du lịch chưa được chú trọng đúng mức: Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thế giới, truyền thống lịch sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên phong phù và sự đa dạng của các nền văn hoá dân tộc, thời gian gần đây Việt Nam đã nổi lên và trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn cho du khách quốc tế. Tuy nhiên, sự gia tăng lớn về khách du lịch, trong khi việc giữ gìn cảnh quan, môi trường tại các khu, điểm du lịch lại chưa được chú trọng đúng mức, cộng thêm sự phát triển của các hoạt động kinh tế khác và nạn chặt phá rừng đã và đang gây ra các tác động không tốt tới môi trường du lịch. 4.2.3 Thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông : Từ 1991 đển nay, mạng lưới bưu chính viễn thông Việt Nam đã thay đổi căn bản từ hệ analog lạc hậu sang mạng kỹ thuật số hiện đại, rút ngắn khoảng cách về công nghệ hiện đại so với thế giới, đảm bảo thông tin trong nước và quốc tế cũng như liên lạc cho các vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước Việc mở cửa cho nhiều doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường dịch vụ viễn thông, phá bỏ dần thế độc quyền của VNPT, là động lực chính thúc đẩy dịch vụ này ở Việt Nam tăng trưởng. Liên tục sáu năm qua, thị trường viễn thông luôn tăng trưởng trên 30% mỗi năm, đặc biệt trong hai năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng đã vọt lên trên 50%/năm, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có ngành viễn thông tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Chỉ riêng tám tháng đầu năm 2006, số thuê bao điện thoại mới đã gần gấp đôi tổng thuê bao của giai đoạn 1975-2000. Hai năm qua cũng là thời kỳ cạnh tranh quyết liệt nhất trong lịch sử phát triển ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam với sự tham gia của bốn nhà cung cấp, qua đó tạo ra những thay đổi mang tính đột phá về chính sách giá cước và chi phí tiếp cận dịch vụ. Mặc dù đạt được tốc độ phát triển ấn tượng như vậy, nhưng mật độ điện thoại tính trên 100 dân của Việt Nam mới đạt 24,42, còn kém nhiều nước trong khu vực và thua xa các quốc gia châu Âu. Điều này cho thấy thị trường viễn thông Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển. Bộ Bưu chính Viễn thông dự báo đến năm 2010 mật độ điện thoại có thể đạt tới 42 máy/100 dân, trong đó gần hai phần ba là thuê bao di động. Số liệu thống kê chính thức của bộ công bố cho thấy bảy tháng đầu năm 2006, mạng điện thoại của Việt Nam tăng thêm gần 4,6 triệu thuê bao, đưa tổng số thuê bao điện thoại lên 20,44 triệu, trong đó mạng điện thoại di động đóng góp nhiều nhất vào sự phát triển này với hơn 11 triệu thuê bao còn đang hoạt động, ngoài ra còn khoảng sáu triệu thuê bao khác của những khách hàng đã bị khóa hai chiều. Hai mạng MobiFone và Vinaphone của VNPT chiếm thị phần lớn nhất với trên tám triệu khách hàng, còn lại thuộc về Viettel Mobile, S-Fone và EVN Telecom. Ngoài dịch vụ điện thoại, thị trường Internet cũng phát triển rất nhanh, bình quân năm sau cao gần gấp đôi so với năm trước kể từ khi dịch vụ này thâm nhập vào Việt Nam từ cuối năm 1997. Hiện có chín doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet đang hoạt động, trong đó VNPT chiếm 42,63% thị phần, FPT 23,86% và Viettel 18,02%. Đến cuối tháng 7/2006, Việt Nam có trên 3,688 triệu thuê bao Internet, tăng gần 800.000 thuê bao so với cuối năm ngoái. Số người sử dụng dịch vụ này khoảng 13,4 triệu, tương đương 16% dân số và ngang với tỷ lệ sử dụng Internet bình quân của thế giới. Bộ Bưu chính Viễn thông dự báo số người sử dụng Internet của Việt Nam vào năm 2010 có thể đạt 35% dân số. Hiện nay, nhu cầu thuê bao Internet băng thông rộng đang có xu hướng tăng mạnh, đặt các nhà cung cấp dịch vụ vào tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu 4.3 Những vấn đề còn tồn tại trên thị trường hàng hóa và dịch vụ hiện nay : Thứ nhất, thị trường về cơ bản vẫn là manh mún, phân tán và nhỏ bé. Sức mua còn thấp, tình trạng thiếu cầu không thể sớm khăc phục được. Hàng hóa ứ đọng khó tiêu thụ đang là bài toán khó vời Nhà nước doanh nghiệp. Thứ hai, thị trường trong nước tuy tăng trưởng nhưng còn ở trình độ phát triển thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn, thị trường nông thôn, miền núi đặc biệt vùng sâu, vùng xa còn quá nghèo nàn lạc hậu và sơ khai. Đời sống của nông dân còn thấp nên sức mua kém. Chênh lệch về thu nhập, mức sống và đời sống vủa nông thôn và thành thị ngày càng cách xa. Với tổng dân số khoảng 83 triệu người vào năm 2005 và khoảng 88 triệu người vào năm 2010, tuy tỉ trọng dân cư nông thôn có giảm xuống( 72% năm 2005 và dự kiến 67% năm 2010), nhưng với gần 60 triệu người thì thị trường nông thôn vẫn chưa mạnh, tình trạng tự cấp, tự túc còn ở mức cao(50%), do vậy vần đề tiêu thụ và nhu cầu của thị trường nông thôn đã và đang trở thành vấn đề bức xúc đối với sự phát triển của thị trường nông thôn và thị trường hàng hoá và dịch vụ trong cả nước. Thứ ba, khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế còn yếu. Cơ cấu sản phẩm lưu thông trên thị trường đơn điệu, chất lượng thấp. Thứ tư, thâm nhập và phát triển thị trường quốc tế vẫn còn dừng lại ở một số ít mặt hàng truyền thống và chưa ổn định. Những mặt hàng khác mới dừng lại ở mức độ thăm dò thị trường và trong tiềm năng. Khi thực hiện AFTA/CEPT và tự do hóa thương mại quốc tế, chúng ta gặp phải nhiều bất lợi và thách thức. Thứ năm, tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường đang là một quốc nạn. Những hàng hóa này làm hại nghiêm trọng tới lợi ích Nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thứ sáu, điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường đã có nhiều thay đổi song còn chậm so với yêu cầu. Công tác phân tích, dự báo thị trường của cả doanh nghiệp và Nhà nước còn yếu. Sự thiếu định hướng chiến lược và chính sách hợp lý đã làm tăng nguy cơ bất ổn của thị trường, làm cho tính tự phát của thị trường gia tăng. Thứ bẩy, thị trường trong nước mới chỉ tập trung vào thương mại hàng hóa và hầu như quên lãng thị trường dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, ngân hàng. Trong khi đó, thực tế hội nhập kinh tế thế giới cho thấy dịch vụ mới là quyết định chứ không phải là hàng hóa thông thường. Thứ tám, tổ chức hệ thống thị trường còn ở tầm thấp, mang nặng tính chất quá độ từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường hiện đại. Thị trường nội địa còn giản đơn thiếu hoàn thiện. Hệ thống tổ chức lưu thông phân phối được tổ chức hết sức giản đơn, thiếu chặt. Điều này đã dẫn đến hai tác động tiêu cực: một là, các doanh nghiệp nước ngoài rất dễ len lỏi thậm chí chi phối hệ thống phân phối trên thị trường trong nước; hai là, thiếu sự liên kết chặt chẽ có hệ thống của hệ thống thị trường, gây ách tắc thị trường và là một trong những nguyên nhân gây ra các cơn sốt giá cục bộ. trong khi đó, ở nhiều nước, với hệ thống tổ chức thị trường chặt chẽ, liên hoàn nên các doanh nghiệp nước ta khó len vào hệ thống phân phối của họ, do đó rất khó tiếp cận được thị trường bên ngoài. Thứ chín, thị trường trong nước ít được chú ý phát triển. Với hơn 80 triệu dân, thị trường nội địa có vị trí đặc biệt quan trọng để thúc đẩy sản xuất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước, kể cả Bộ Thương mại, Ủy ban nhân dân các địa phương và doanh nghiệp chỉ tập trung xuất khẩu, coi nhẹ phát triển thị trường trong nước. Đây là một thiếu sót lớn đã được Hội nghị Thương mại toàn quốc tháng 2-2003 chỉ ra. Hiện tại, chúng ta chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường nội địa, nhất là khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mạng lưới mua bán, đại lý mua bán của các doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở một số đô thị lớn. Thị trường hàng hoá và dịch vụ thiếu cơ chế liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân; hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại kém phát triển; chưa có giải pháp hữu hiệu phát triển hệ thống chợ( chợ chuyên doanh, chợ đầu mối, chợ khu vực) và hỗ trợ phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn dựa chủ yếu vào kinh tế tự cấp, tự túc, giao lưu hàng hoá và dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Thứ mười, thị trường hàng hoá và dịch vụ vừa thiếu tính cạnh tranh , vừa bị chia cắt, manh mún. Tình trạng độc quyền của một doanh nghiệp Nhà nước đang là một cản trở nghiêm trọng đối với phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ theo nguyên tắc thị trường. Hiện tượng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng làm giảm sức cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế. Cho đến nay, nhiều loại hàng hoá và dịch vụ vẫn thuộc độc quyền của Nhà nước ( như xi măng, sắt thép, điện, cung cấp nước, hàng không, vận tải biển, tài chính ). Các cơ quan quản lý nhà nước vẫn can thiệp trực tiếp vào các quyết định kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, thị trường hàng hoá và dịch vụ đang bị chia cắt nghiêm trọng giữa các ngành, các vùng. Như đã nêu ở trên, do nhiều nhà nguyên nhân, thị trường ở một số vùng nông thôn, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu xa đang bị tách rời với thị trường của cả nước. Thậm chí hiện nay, một số bộ ngành và địa phương vẫn áp dụng các biện pháp mệnh lệnh, hành chính trong việc yêu cầu các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân phải tiêu dùng sản phẩm cho bộ, ngành và địa phương mình sản xuất. Đây là một nghịch lý đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập. V. Phương hướng phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ 5.1 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước : Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ hàng tiêu dùng, nâng cao chất lượng, hạ giá thành để đáp ứng tiêu dùng trong nước. Hiện nay, hàng tiêu dùng trong nước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư còn hạn chế. Hàng hóa do Việt Nam sản xuất đáp ứng tiêu dùng trong nước chủ yếu là hàng hóa thông thường như lương thực, thực phẩm, quần áo, giày dép v.v Nhiều chủng loại hàng hóa chất lượng cao cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân còn phụ thuộc vào nhập ngoại, hoặc nếu có sản xuất trong nước thì giá cao.Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, quy luật tất yếu là hàng hóa chất lượng cao, giá cả hợp lý sẽ chiếm lĩnh được thị trường, không kể nguồn gốc sản xuất là của nước nào. Vì thế, để hàng hóa và dịch vụ ở nước ta chiếm lĩnh được thị trường hơn 80 triệu dân trong nước, định hướng quan trọng hàng đầu là phải tăng chất lượng, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo ra các loại hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản đời sống con người như ăn mặc, đi lại, học tập có chất lượng cao, gía cả hợp lý. Nói cách khác, phải làm cho khẩu hiệu “ Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” có cơ sở thuyết phục về kinh tế kỹ thuật. Thứ hai, phát triển mạnh mẽ thị trường hàng hoá và dịch vụ phù hợp với trình độ phát triển và điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Việt Nam. Rõ ràng, muốn cho thị trường hàng tiêu dùng có chất lượng cao và giá cả hợp lý, việc tổ chức thị trường hàng hóa phục vụ sản xuất, cùng các thị trường yếu tố ( đất đai, lao động và vốn) có ý nghĩa quan trọng. Hàng hóa tiêu dùng cá nhân của dân cư không thể có chất lượng cao, giá cả hợp lý nếu như các hàng hóa phục vụ sản xuất và hàng hóa yếu tố sản xuất có trình dộ công nghệ thấp và giá cả cao. Tình trạng giá đầu vào một số hàng phục vụ sản xuất hiện nay như điện, xăng dầu, sắt thép là một ví dụ làm tăng giá hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Chính vì thế, trong định hướng thị trường, cần chú trọng tới phát triển thị trường hàng hóa phục vụ sản xuất. Thứ ba, mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng của các hàng hoá và dịch vụ, nhất là dc du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu chính viễn thông v.v nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân, đồng thời góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.Trong xu thế hiện nay, nhu cầu du lịch phát triển mạnh mẽ. Những năm gần đây, dòng khách từ các châu lục di chuyển sang các nước châu Á, trong đó có Việt Nam rất rõ ràng. Vì thế, chúng ta cần tận dụng điều kiện lích sử, tự nhiên, xã hội để phát triển manh thị trường du lịch. Đồng thời, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại đang làm cho thị trường dịch vụ cao cấp phát triển mạnh mẽ, mang lại nguồn lợi nhuận lớn. Vì vậy, cần phát huy lợi thế, đi tắt đón đầu tiếp thu công nghệ mới, tổ chức kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy trong những năm tới, cần tăng cường quy mô, tăng tốc độ phát triển của thị trường dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ cao cấp. Thứ tư, chú trọng phát triển thị trường ở đô thị, tạo bộ mặt văn minh thương mại, đồng thời chú ý phát triển thị trường ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đảm bảo cho thị trường hàng hoá và dịch vụ xâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào tất cả các vùng của đất nước. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, hiện nay, thị trường ở đô thị tương đối phát triển, nhưng thị trường ở nông thôn, miền núi còn rất lạc hậu. Sự phát triển của thị trường hiện nay chủ yếu tập trung vào các vùng Đông Nam Bộ, đòng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Thị trường nông thôn miền núi ở các vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc phát triển chậm, nghèo nàn và sơ khai, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của sx và dân cư. Ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa chủ yếu vẫn dựa vào kinh tế tự cung tự cấp, khép kín. Trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất đã làm cho phân công lao động không phát triển và kinh tế hàng hoá còn ở trình độ rất thấp. Vì thế, trong định hướng thị trường khu vực, cần chú trọng phát triển thị trường các tỉnh Tây Nguyên, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc. 5.2 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ ngoài nước : Một là, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để thực hiện điều này, trong xuất khẩu, chuyển dần từ xuất khẩu sản phẳm sơ chế sang xuất khẩu hàng hóa chế biến sâu; giảm rỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tăng tỷ trọng xuất khẩu thành phẩm. Trong nhập khẩu, ưu tiên nhập máy móc, thiết bị, đặc biệt là công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn của các nước kinh tế phát triển,giảm đến mức tối đa nhập khẩu công nghệ trung gian, công nghệ chất lượng trung bình và công nghệ đã qua sử dụng. Hai là nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá và dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hiện nay, khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế những năm tới cần nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề này thuộc về trách nhiệm của cả Nhà nước và doanh nghiệp. Đối với Nhà nước, cấn tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý, tọa môi trường cho mọi loại hình doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với doanh nghiệp, cần nhanh chóng xâm nhập và nắm bắt nhu cầu thị trường nước ngoài, đồng thời tích cực cải tiến, nâng cao trình độ công nghệ để sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ba là, xác định rõ đặc điểm các khu vực thị trường để có chính sách cụ thể, thích ứng nhằm xâm nhập vào các thị trường từng khu vực và từng nước. Thị trường khu vực châu Á – Thái Bình Dương là thị trường rộng lớn, dân số hơn 3 tỷ người, nhu cầu đa dạng, phong phú, chiếm 25% tổng kim nghạch buôn bán của thế giới. Tuy nhiên đa số các nước châu Á bao gồm cả Nhật Bản, các nước ASEAN, là thị trường trung gian, mua hàng của Việt Nam, chế biến để tái sản xuất hoặc chuyển khâu nên giá xuất khâu thường thấp hơn giá thị trường thế giới. Vì thế, những năm tới, cần thay đổi chất lượng hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này theo đúng hướng tăng tỷ lệ hàng hoá tiêu dùng cuối cùng cho tiêu dùng trong xuất khẩu sang các nước châu Á. Tung Quốc là thị trường có số dân đông nhất thế giới, dung lượng hàng hoá đang tăng với tốc độ rất nhanh. Đây là nước làng giềng, thuận lợi trong việc vận chuyển, thanh toán; có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự nước ta. Dự báo, tỷ trọng thị trường Trung Quốc sé tăng lên trong những năm tới, cụ thể là 2010: 9% và 2020 chiếm 10% tồng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Châu Âu là thị trường tiêu thụ trực tiếp, mặc dù dân số chỉ hơn 500 triệu người nhưng dung lượng lớn vào bậc nhất thế giới, chiếm 30% kim nghạc buôn bán thế giới( trong đó EU chiếm 19%) và đang có xu hướng tăng lên; giá thường cao hơn các thị trường khác. Vì vậy, cần chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Dự báo trong những năm tới, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ tiếp tục tăng, năm 2010: 26% và 2020 chiếm 27%. Thị trường Châu Mỹ( nhất là Bắc Mỹ) là thị trường tiêu thụ trực tiếp, với dân số gần 800 triệu người, dung lượng lớn vào bậc nhất thế giới, chiếm 30% kim nghạch buôn bán thế giới( trong đó Mỹ chiếm 20%) và đang có xu hướng tăng lên; giá cả thường cao hơn các thị trường khác; dân cư có nhiều giai tầng, nhiều dân tộc khác nhau nên nhu cầu đa dạng, phong phú. Trong thời giang gần đây, thị trường châu Mỹ đang tăng lên. Dự báo năm 2010: 20% và 2020 chiếm 22% tổng kim nghạch xuất khẩu. Châu Phi là thị trường rộng lớn, có số dân gần 800 triệu người; chiếm 15% tổng kim nghạch buôn bán của thế giới. Đây là thị trường tiềm năng. Trên thực tế, nhiều loại hàng hoá( trong đó gần một nửa lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam0 vào thị trường này qua các tổ chức trung gian và bị chi phối, điều tiết bởi các nước hoặc các tổ chức quốc tế có nguồn tài trợ. Gần đây, việc khai thác thị trường khu vực này bước đầu báo hiệu những kết quả tích cực. Tại một số nước, khả năng xuất khẩu hàng hoá của nước ta là khá lớn. trong những năm tới cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xâm nhập mạnh hơn thị trường này. Theo dự báo, tỷ trọng thị trường châu Phi cũng sẽ tăng nhanh, 2010: 6% và 2020 chiếm 8% tổng kim nghạch xuất khẩu. 5.3 yêu cầu phải đổi mới chính sách, luật pháp và tổ chức quản lý : Phân tích cơ hội và thách thức đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh một cách căn bản trong phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Việc điều chỉnh này không phải là sự điều chỉnh cục bộ bên ngoài, mà là sự chuyển biến chiều sâu mang tính chỉnh thể, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chính sách, luật pháp và tổ chức quản lý thị trường hàng hoá và dịch vụ một cách hệ thống. Một là, chuyển trọng tâm chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ, chính sách ngoại thương từ vĩ mô của Chính phủ sang vi mô của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế, mô hình phát triển ngoại thương do doanh nghiệp chủ đạo sẽ thay thế cho mô hình phát triển ngoại thương do Nhà nước chủ đạo. Điều này đòi hỏi trọng tâm chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta chủ yếu chuyển dích sang hướng gây xựng các chủ thể vi mô, môi trường vi mô, phải thay đổi các mặt chính sách tổ chức doanh nghiệp, chính sách cạnh tranh, quy chế chính phủ v.v trong chính sách thị trường mới. Hai là đổi mới căn bản chính sách thị trường thương mại quốc tế. Như đã biết, trong lý thuyết về thị trường, người ta hay đề cập đến lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế. Lợi thế so sánh cho phép các nhà hoạch định chính sách thị trường lựa chọn để chuyên môn hóa sản xuất săn phẩm hàng loạt với chi phí thấp. Thế nhưng trong nền kinh tế hiện đại, khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và tác động của cách mạng khoa học ngày càng có ý nghĩa to lớn. Ngày nay, các nước có thể sản xuất và cung ứng tất cả hàng hóa mà con người có nhu cầu. Chẳng hạn, trước đây, trên thị trường chây Á, chỉ có Nhật Bản là nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất đồ điện gia dụng như tivi, xe máy, quạt điện Song ngày nay, Trung Quốc là nước đang chiếm dần lợi thế này, đặc biệt là săn phẩm tivi, xe máy, của Trung Quốc đang chiếm lĩnh thị trường nông thôn và thị trường có thu nhập thấp. Chính vì vậy trong bối cảnh mới, cần có sự chuyển biến về cơ sở chính sách thương mại. Điểu náy có nghĩa là, chuyển từ việc lấy lợi thế so sánh truyền thống làm cơ sở, từng bước chuyển sang lấy lợi thế cạnh tranh làm cơ sở. Lợi thế cạnh tranh đòi hỏi phải tính toán chi phí, chất lượng, tổ chức cung ứng có hiệu quả. Đối với nước ra, tuy trước mắt lợi thế so sánh vẫn là cơ sở để tham gia vào phân công lao động quốc tế, nhưng về lâu dài, cần lấy lợi thế cạnh tranh làm cơ sở của chính sách thị trường đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động, bền vững và hiệu quả cao. Ba là, thay đổi phạm vi của chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ từ lĩnh vực ngoại thương trước đây sang toàn bộ lĩnh vực lưu thông. Điểu này có nghĩa là chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ phải chú ý nhiều đến sự hội nhập thị trường trong và ngoài nước, thống nhất nội và ngoại thương. Bốn là thay đổi phương hướng chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ từ hạn chế thương mại sang xuc tiến thương mại. Cùng với việc tăng tốc của tién trình toàn cầu hóa kinh tế, xúc tiến thương mại sản xuất thay thế ngày càng nhiều cho hạn chế thương mại, trong đó, đặc biệt là xúc tiến thương mại đối với phát triển doanh nghiệp, quan hệ trực tiếp đặt nền móng của việc thực hiện quản lý thương mại ở nước ta. Năm là đổi mới hệ thống luật pháp phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế, tạo môi trường canh tranh lành mạnh. Xây dựng một bộ luật doanh nghiệp thống nhất cho cả doanh nghiệp đẩu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân để tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật phù hợp với các thông lệ quốc tế, tương thích với các quy định của WTO và các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế. Sáu là chuyển biến phương thức quản lý thị trường hàng hoá và dịch vụ từ trực tiếp sang gián tiếp là chủ yếu. Việc gia nhập ASEAN và WTO cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế. Đây cũng là sự thể hiện nguyên tắc công bằng, minh bạch. Quy phạm hóa, luật hóa, sự quản lý của Nhà nước tất yếu dẫn đến sự thay đổi phương thức quản lý thích ứng với hội nhập kinh tế quốc tế. VI. Giải pháp chủ yếu phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta 6.1 Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách cụ thể về phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ : Chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ là hệ thống các quy định về doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp, chính sách phát triển thương mại trong nước và quốc tế, chức trách của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tổ chức lưu thông hàng hóa, phát triển thương mại các vùng khó khăn, chính sách thuế quan và bảo hộ, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và quyền hạn của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Để phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta những năm tới cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách sau: Thứ nhất, về chính sách đối với hoạt động của doanh nghiệp. Những năm qua, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, việc thực hiện chính sách phát triển các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đã có nhiều tiến bộ, như việc đăng ký kinh doanh đá được thực hiện thuận lợi hơn. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy cần thực hiện một số biện pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay như: - Tôn trọng tự do kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ tình trạng độc quyền doanh nghiệp và bảo hộ đối với các doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất và vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. - Giảm chi phí trung gian và các điều kiện gia nhập thị trường cho doanh nghiệp. - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - Có chính sách tôn vinh các doanh nhân, tạo sự đồng thuận của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân. - Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là môi trường pháp lý. - Thực hiện chế độ “một cửa” một cách triệt để. - Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin thị trường để cung cấp miễn phí cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định pháp luật. Thứ hai, tiếp thục hoàn thiện chính sách thị trường. Trong những năm tới, chính sách thị trường cần tưng bước chuyển đổi vè phương thức quản lý, về phạm vi và phương hướng hoạt động đối với từng khu vực thị trường. Cụ thể là: - Đối với thị trường trong nước, phải đảm bảo tập trung nhân lực để thúc đẩy sản xuất hàng hóa, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn; đảm bảo cho hệ thống lưu thông hàng hóa thông suốt giữa các vùng, các địa phương. Chính sách thị trường trong nước phải đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa cân đối, tránh những khủng hoảng, bất ổn trên thị trường. Chính sách thị trường trong nước còn phải thúc đẩy để hình thành đồng bộ các loại thị trường, thực hiện chính sách nhất quán, ổn định để các chủ thể kinh doanh chủ động với các tình thế trên thị trường. Xây dựng thị trường thống nhất trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và phát triển các thị trường trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ. - Với thị trường nông thôn, ở nước ta, hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn nên thị trường nông thôn có vị trí rất quan trọng. Chính sách thương mại đối với nông thôn là một bộ phận của chính sách nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách thương mại đảm bảo cung ứng những hàng hóa thiết yếu cho nông dân sản xuất và tiêu dùng, bảo đảm tiêu thụ được hàng hóa do nông nghiệp và nông thôn sản xuất ra; góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất ở nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phá bỏ độc canh, đa dạng hóa ngành nghề để thúc đẩy và nâng cao đời sống nông dân và xã hội hóa nông thôn theo con đường văn minh, hiện đại. Phát triển sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập từ đó tăng sức mua, cải thiện điều kiện sống của nông dân là một nội dung quan trọng. Chính sách thương mại nông thôn còn phải góp phần giải quyết việc làm cho nông dân, thực hiện chính sách xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo. Chính sách thương mại đối với nông thôn góp phần hình thành, khôi phục và phát triển các làng nghề, giữ gìn vản sắc văn hoấ truyền thống, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Điều 13 Luật Thương mại cũng đã khẳng định chính sách thương mại đối với nông thôn như sau: Nhà nước có chính sách phát triển thương mại đối với thị trường nông thôn, tạo điều kiện mở rộng và phát triển chợ nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực cùng với hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác thực hiện việc bán vật tư nông nghiệp, hàng công nghiệp, mua nông sản nhằm góp phần nâng cao sức mua của nông dân và tạo tiền đề để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hóa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. - Với thị trường khu vực miền núi, chính sách thương mại cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau: Phát triển thị trường miền núi để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp đồng bào dân tộc định canh, định cư, ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm thị trường tiêu thụ sản phẩm của các địa phương Phát triển hệ thống chợ và trung tâm thương mại huyện và cụm xã, đầu tư xây dựng cơ sỏ vật chất và phát triển hệ thống giao thông để mở rộng giao lưu kinh tế ở miền núi, hải đảo và vùng sâu, vùng xa. Chính sách thương mại đường biên và thương mại cửa khẩu cần được tăng cường để phát triển đúng hướng. Đầu tư phát triển một số khu kinh tế cửa khẩu. Chính sách đàp tạo, bồi dưỡng, khuyến khích cán bộ thương mại cũng cần được quan tâm để tạo đội ngũ cán bộ thương mại co trình độ ngày càng cao cho miền núi. - Đối với thị trường ngoài nước, trong những năm tới, chính sách thị trường ngoài nước cần hướng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn phải chú trọng phát triển các loại thị trường truyền thống như thị trường khu vực chau Á – Thái Bình Dương, thị trường EU, thị trường Nga. Đồng thời tiếp cận và phát triển các thị trường mới có nhiều tiềm năng như thị trường Hoa Kỳ, thị trường Trung cận Đông, chẫu Phi và Mỹ La tinh. Tăng cường khuyến khích, động viên tìm kiếm thị trường xuất khẩu, đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp. Thứ ba, về chính sách mặt hàng - Trước hết là chính sách mặt hàng cấp quốc gia. Danh mục mặt hàng này bao gồm tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, xuất khẩu mũi nhọn của đất nước, các mặt hàng cạnh tranh cấp quốc gia. Các vùng, các địa phương, các bộ ngành cùng xây dựng chính sách mặt hàng của cấp mình. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại, vùa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, đơn vị, của nền kinh tế quốc dân. Chính sách mặt hàng quốc gia phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Mặt hàng đi vào lưu thông phải có chất lượng, mặt hàng qua chế biến phải chiếm tỷ trọng ngày càng cao. - Chính sách thay thế mặt hàng nhập khẩu. Đây là những mặt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng đựoc yêu cầu về số lượng, chất lượng và sức cạnh tranh. Những mặt hàng này dựa trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động và công nghệ sản xuất tiên tiến, Đây cũng là những mặt hàng chiếm ưu thế trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa. Nhà nước có chính sách hợp lý để phát triển các mặt hàng thay thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu. Chính sách mặt hàng còn quy định các mặt hàng lưu thông có điều kiện và mặt hàng cấm lưu thông trên thị trường nội địa, cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Danh mục mặt hàng này do Chính phủ quy định. Đây là những mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các mặt hàng bị cấm buôn bán theo quy định của công an quốc tế mà Việt Nam tham gia Trước đây, danh mục mặt hàng cấm lưu thông được Chính phủ quy định hàng năm. Từ 2001 Chính phủ quy định danh mục này cho cả thời ký 5 năm để đảm bảo tính ổn định và tính có thể nhận biết trước của cơ chế, chính sách, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thế chủ động cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ quyết định thay đổi danh mục các mặt hàng, mặt hàng cấm kinh doanh và mặt hàng có điều kiện trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại và thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành. Thứ tư, về chính sách đầu tư phát triển thị trường. Từ thực trạng và yêu cầu phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ đến 2010, cần có chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho thương mại thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Một mặt tạo điểu kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, mặt khác, bảo đảm nguồn vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật cho thị trường hàng hoá và dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa và phát triển thị trường. Đầu tư cho thương mại có thể từ nhiều nguồn: nguồn vốn ngân sách, vốn đằut nước ngoài, vốn vay các tỏ chức tín dụng trong và ngoài nước. vốn huy động của các doanh nghiệp và tư nhân. Vì vậy, cần có chính sách và giải pháp thu hút, sử dụng vốn thích hợp với từng nguồn vốn trong quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Tập trung thúc đẩy nhanh quá trình phát triển thị trường vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, thị trường chứng khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự do tham gia vào vòng luân chuyển vốn của xã hội và huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường theo quy định của pháp luật. Đối với các công trình và các dịch vụ hỗ trợ thị trường, cần đầu tư vốn với quy mô lớn như các trung tâm đầu mối giao dịch hàng hóa, trung tâm nhập khẩu và phân phối hàng nhập khẩu, hệ thống tổng kho ở các vùng sản xuất tập trung hoặc bến cảng, các trung tâm giới thiệu và bán hàng Việt Nam. Ở các vùng khó khăn, cần tập trung đầu tư có trọng điểm xây dựng chợ đầu nguồn ở một số vùng nông thôn, các trung tâm cụm xã miền núi; các cửa hàng của thương mại nhà nước và hợp tác xã thương mại ở vùng cao, hải đảo, vùng sâu và vùng xa Trong thời gian qua, đầu tư cho thương mại thiếu sự tập trung. Vốn của doanh nghiệp thương mại bình quân thấp. Do đó, đi đôi với sắp xếp lại doanh nghiệp thương mại nhà nước, cần hình thành các doanh nghiệp thương mại đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời, cần áp dụng tổng hợp các chính sách và giải pháp tạo vốn, sử dụng vốn, tăng cường khẳ năng tài chính cho doanh nghiệp; tạo điều kiện tái đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ; tăng cường phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động hàng hoá và dịch vụ có hiệu quả cũng là nhằm mục tiêu thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thị trường hàng hóa. 6.2 Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác tổ chức quản lý hoạt động của thị trường từ phía doanh nghiệp : Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng hệ thống quản lý thị trường có tính tổng hợp, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia có thể thực hiện phân bố các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu. Biện pháp rào cản thương mại không ngăn cản được sự xâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam. Để nền kinh tế nước ta đảm bảo phát triển bền vững, hệ thống quản lý kinh tế đối ngoại đơn nhất phải được chuyển thành hệ thống quản lý tổng hợp, thể nhất hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. trong vận hành thực tế của chính sách thị trường, khó khăn chủ yếu là sự phối hợp đồng bộ của các chính sách có liên quan đến chính sách thị trường với hệ thống chính sách tiền tệ, tài chính. Hệ thống này phải vượt qua hệ thống quản lý ngành hiện hành mới có thể hình thành hệ thống quản lý đồng bộ. Thứ hai, xây dựng hệ thống giám sát điều hành thị trường có hiệu quả. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp quy và cơ cấu tổ chức liên quan đến mở cửa thị trường. trên cơ sở nguyên tắc công khai, minh bạch, quy phạm gia nhập thị trường. - Nhanh chóng định ra hệ thống dự báo vận hành thị trường vĩ mô trong nền kinh tế mở, ở trạng thái động, giám sát điều hành có hiệu quả sự vận hành mở cửa thị trường ở nước ta. về vấn đề này, bất kể là ứng phó với bán phá giá và chống bán phá giá hay là giám sát khống chế những động thái lạ trong thương mại và lưu thông tư bản đều vô cùng quan trọng. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, thì vấn đề an toàn kinh tế của đất nước là yêu cầu thực tế. Thứ ba, xây dựng hệ thống chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp có ưu thế trong nước phát triển theo hướng quốc tế hóa. Hiện nay, thúc đẩy doanh nghiệp nước ta phát triển quốc tế hóa đã trở thành vấn đề cấp bách. Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay là nỗ lực đẩy mạnh sự phát triển mở rộng ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước. Sự phát triển quốc tế hóa của các doanh nghiệp có ưu thế trong nước vừa có thể giảm thiểu được những ngăn cản thương mại, vừa có lợi cho tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp nước ta. Đối mặt với xu hướng gia tăng toàn cầu hóa, các doanh nghiệp cần phải có năng lực phát triển cả trong nước và ngoài nước. Để thúc đẩy quá trình này. Nhà nước cần dành cho các doanh nghiệp sự trợ giúp trong các khâu gia nhập, khai thác phát triển thị trường nước ngoài, đổi mới công nghệ, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại. Thứ tư, khuyến khích tích cực các tổ chức trung gian giữa các doanh nghiệp, đặc biệt chú ý đến các tổ chức hội nghề nghiệp. Thông qua vai trò của các tổ chức tự nguyện của các doanh nghiệp, một mặt có thể xây dựng các quy phạm trật tự thị trường trong nước. tránh sự can thiệp quá sâu của Chính phủ đối với thị trường; mặt khác, có thể bằng các hình thức tổ chức nhân dân điều hòa lợi ích của các doanh nghiệp trong nước, giúp giảm thiểu hành vi bán phá giá đồng thời cũng đặt nền móng tổ chức để nước ta thực thi những điều khoản của cá tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế. Thứ năm, cùng với những định hướng điều chỉnh về tổ chức hoạt động thị trường như trên, cần giải quyết một số điểm cụ thể như: nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng chiến lược, kế hoạch và khả năng dự báo thị trường; cải tiến mạnh mẽ hơn nữa các thủ tục hành chính; tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế; giảm các hoạt động sự vụ, tác nghiệp. tăng cường hoạt động, nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách vĩ mô và kiểm tra, kiểm soát về chấp hành luật pháp; tấn công mạnh mẽ vào các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, làm hàng giả; trong sạch hóa và lành mạnh hóa bộ máy hành chính nhà nước; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế; hiện đại hóa công cụ quản lý nhà nước về thị trường; nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo trvà các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước; tăng cường các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường ngoài nước, sự dụng có hiệu quả các chính sách phi thuế quan. 6.3 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp : Hiện nay khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế. Vì thế, để chú động hội nhập, cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Muốn vậy, cần giải quyết một loạt vấn đề cụ thể để tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như: xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh; đổi mới công nghệ kinh doanh và hoạt động kinh doanh; tăng cường cải tiến tổ chức quản lý, nâng cao năng suất, giảm chi phí kinh doanh; xây dựng văn hóa của doanh nghiệp; áp dụng thương mại điện tử. C. KẾT LUẬN Như vậy, qua quá trình phân tích thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta cho thấy cần phải đẩy mạnh và đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý của nhà nước trong việc định hướng nhiệm vụ chiến lược vè phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; và đòi hỏi mỗi cá nhân, tập thể cần nhận thức sâu sắc hơn vấn đề này trong bối cảnh hội nhập ở nước ta. Trên thực tế, các thị trường bộ phận hoạt động đan xen lẫn nhau, vì thế mà khó có thể tách biệt riêng ra từng thị trường một. Do vậy, phát triển thị trường này thì phải xem xét phát triển các thị trường khác một cách đồng bộ, tương ứng phù hợp nhau trong tổng thể. Để hoàn thiện một mô hình kinh tế với sự phát triển đồng đều các thị trường bộ phận và nhất là thị trường hàng hoá và dịch vụ đòi hỏi chúng ta phải tiến những bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nhưng trong thực hiện phải dứt khoát, tích cực và đạt hiệu quả cao. Nước ta đang đã tiến lên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện vì vậy việc phát triển các loại thị trường cần được ưu tiên đúng mức, có như thế mới khắc phục được những yếu kém, phát huy những thành tựu, đảm bảo sự ổn định, bền vững của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. D. Tài liệu tham khảo 1. Phát triển các loại thị trường trong nên kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. GS.TS Nguyễn Đình Hương 2. Báo tài chính điện tử : http://www.tinhoctaichinh.vn 3. Báo điện tử VietNamnet: http://vietnamnet.vn/ 4. Quản lí nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB lý luận chính trị. GS.TS Lương Xuân Quỳnh 5. Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam : www.dangcongsan.vn

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10291 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân thọ và 8 doanh nghiệp môi gới bảo hiểm. Hiện có 150.000 đại lý bảo hiểm với trên 100 sản phẩm nhân thọ và hơn 500 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ đã được các công ty bảo hiểm đưa ra thị trường. Bảo hiểm cũng đã đóng góp 2% vào GDP của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 29%/năm. Tuy nhiên, với chính sách mở cửa khác nhau nên thị trường bảo hiểm Việt Nam được phân chia khá chênh lệch. Ở lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, do Việt Nam chưa mở cửa nên các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chiếm đến 95% thị phần, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chiếm đến 62,5% thị phần bảo hiểm nhân thọ. Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng. Dù có tăng trưởng cao, nhưng tỉ lệ đóng góp phí bảo hiểm vào GDP của Việt Nam như vậy là khá nhỏ nếu so sánh với các nước trong khu vực. Một vấn đề khác cần quan tâm là cho dù thị trường phát triển nhanh nhưng không cân xứng giữa các công ty, giữa các thành phần kinh tế. Mức độ tập trung thị trường cao nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, có hiện tượng độc quyền nhóm trong một số doanh nghiệp bảo hiểm chuyên sâu các ngành dầu khí, xăng dầu, bưu chính viễn thông. Qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế. Phương thức cạnh tranh vẫn chủ yếu là giảm phí và khai thác thị trường thông qua các mối quan hệ. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế. Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP. Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống.      Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao. Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài. Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”. Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP. Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP.Vậy đâu là giải pháp? Mục tiêu trước mắt đối với ngành bảo hiểm Việt Nam là rất nặng nề. Việc duy trì được tốc độ tăng trưởng lên đến 40% một năm là điều khó khăn, tuy nhiên để nâng cao hơn nữa so với tốc độ tăng trưởng trong ba năm qua là điều có thể thực hiện được. Để làm được việc này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp phù hợp nhằm tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả đầu tư như sau: Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới. Hiện nay các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ sự bảo hộ của Chính phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng từ trước. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác thị trường và các mối quan hệ nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống. Đây là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các công ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện các kế hoạch và chiến lược kinh doanh dài hạn để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực. Thành lập các tổ chức đầu tư độc lập với hoạt động khai thác để có thể thực hiện đầu tư chuyên nghiệp và hiệu quả từ phí bảo hiểm. Liên doanh, liên kết với các tổ chức tài chính để có thể có khả năng mạnh hơn với áp lực cạnh tranh khi các công ty bảo hiểm nước ngoài gia nhập thị trường theo lộ trình cam kết của Việt Nam với WTO. Giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách đưa các doanh nghiệp bảo hiểm lên sàn để vừa gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, vừa dễ huy động vốn, gia tăng khả năng tài chính trong hoạt động. Mười lăm năm qua, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đóng góp một cách chủ động vào phát triển tài chính, nhưng những hạn chế này sẽ nhanh chóng được gỡ bỏ. Với mục tiêu chiến lược phát triển phù hợp và trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vai trò trong nền kinh tế.  4.2.2 Thị trường dịch vụ du lịch : Dịch vụ du lịch phát triển chậm hơn các nước khác nhưng việt Nam có thuận lợi là nằm trong khu vực có dịch vụ du lịch quốc tế phát triển mạnh. Mặt khác, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn về du lịch, giàu tài nguyên du lịch. Ngành du lịch được coi là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao.Giai đoạn 1990-2000 có thể khẳng định là giai đoạn bứt phá trong tăng trưởng khách và thu nhập. Khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250 nghìn lượt (năm 1990) lên 2,05 triệu lượt (năm 2000); khách nội địa tăng 11 lần, từ 1 triệu lượt lên 11 triệu lượt; thu nhập du lịch tăng gần 13 lần từ 1.350 tỷ đồng lên 17.400 tỷ đồng. 5 năm gần đây (2001-2005), tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhưng do áp dụng các biện pháp táo bạo tháo gỡ kịp thời, nên lượng khách và thu nhập du lịch hàng năm vẫn tiếp tục tăng trưởng 2 con số. Khách quốc tế năm 2001 đạt 2,33 triệu lượt, năm 2005 đạt gần 3,47 triệu lượt; khách nội địa năm 2001 đạt 11,7 triệu lượt; năm 2005 đạt 16,1 triệu lượt; người Việt Nam đi du lịch nước ngoài năm 2005 ước khoảng 900 nghìn lượt. Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành dịch vụ (riêng GDP du lịch hiện chiếm khoảng 4% GDP cả nước, theo cách tính của UNWTO thì con số này khoảng 10%). Du lịch là một trong ít ngành kinh tế ở nước ta mang lại nguồn thu trên 2 tỷ USD/năm. Hơn 10 năm trước, Du lịch Việt Nam đứng vào hàng thấp nhất khu vực, nhưng đến nay khoảng cách này đã được rút ngắn, đã đuổi kịp và vượt Philíppin, chỉ còn đứng sau Malaysia, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Theo UNWTO, hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới. Năm 2004, Du lịch Việt Nam được Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới xếp thứ 7 thế giới về tăng trưởng lượng khách trong số 174 nước; Việt Nam được xếp vào nhóm 10 điểm đến hàng đầu thế giới. Du lịch cũng đã góp phần phát triển yếu tố con người trong công cuộc đổi mới. Hoạt động du lịch đã tạo ra trên 80 vạn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các tầng lớp dân cư, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài; đã thực hiện tốt vai trò ngoại giao nhân dân với chức năng “sứ giả’’ của hoà bình, góp phần hình thành, củng cố môi trường cho nền kinh tế mở, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn nhỏ. Tốc độ tăng trưởng việc làm trong ngành vẫn tiếp tục ở mức thấp hơn so với mức tăng trung bình của khu vực. Năng lực của các công ty du lịch Việt Nam không tương xứng với tiềm năng. Nhìn chung, các ngành hỗ trợ du lịch vẫn chưa phát triển cùng nhịp với sự phát triển của ngành du lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, phương tiện vận tải lạc hậu, đường vận chuyển hàng không vẫn chưa được phát triển đúng mức. Công nghệ thông tin chưa được ứng dụng nhiều; ứng dụng thương mại điện tử trong điều hành các tour du lịch và giao dịch giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch chưa được nhiều, hoạt động xúc tiến du lịch ở nước ngoài còn yếu về số lượng và hiệu quả. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao vẫn chưa phát triển và các dịch vụ ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu. Sản phẩm dịch vụ du lịch chưa phong phú, đa dạng. Ta có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp và có bãi biển được xếp hạng tầm quốc tế, nhưng trên phạm vi cả nước, chưa có được một khu du lịch tầm cỡ và có tên tuổi như Pataya, Phuket (Thái Lan), Sentosa (Singapore), Bali (Inđônesia), hay Genting, Langkawi (Malaysia). Đặc điểm này đã ảnh hưởng đến việc thu hút được sự chú ý của khách du lịch, không kéo dài được thời gian nghỉ ngơi của khách tại Việt Nam, không tạo cơ hội để tăng chi tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam.     Nguồn nhân lực cho du lịch chưa được đào tạo một cách hệ thống về chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp. Năng lực ngoại ngữ, kỹ năng công nghệ thông tin và khả năng giao tiếp còn hạn chế. Các cơ sở đào tạo du lịch phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù có sự bùng nổ về số lượng các công ty du lịch lữ hành trong nước, song các công ty này cạnh tranh thiếu lành mạnh về giá, giảm chất lượng dịch vụ, vi phạm các yêu cầu về giấy phép hành nghề. Hiện nay sự liên kết, hợp tác giữa các Bộ ngành, địa phương, lãnh thổ tuy gần đây có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn yếu hoặc thiếu (Tổng cục Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông Vận tải, Công an) đặc biệt là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên. Cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành (tài chính, ngân hàng, hàng không, biên phòng, hải quan, điện lực và viễn thông…) trong hỗ trợ phát triển du lịch. Bên cạnh đó, hệ thống thống kê áp dụng trong ngành du lịch Việt Nam cũng chưa được cải tiến nhiều. Vấn đề cảnh quan môi trường du lịch chưa được chú trọng đúng mức: Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thế giới, truyền thống lịch sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên phong phù và sự đa dạng của các nền văn hoá dân tộc, thời gian gần đây Việt Nam đã nổi lên và trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn cho du khách quốc tế. Tuy nhiên, sự gia tăng lớn về khách du lịch, trong khi việc giữ gìn cảnh quan, môi trường tại các khu, điểm du lịch lại chưa được chú trọng đúng mức, cộng thêm sự phát triển của các hoạt động kinh tế khác và nạn chặt phá rừng đã và đang gây ra các tác động không tốt tới môi trường du lịch. 4.2.3 Thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông : Từ 1991 đển nay, mạng lưới bưu chính viễn thông Việt Nam đã thay đổi căn bản từ hệ analog lạc hậu sang mạng kỹ thuật số hiện đại, rút ngắn khoảng cách về công nghệ hiện đại so với thế giới, đảm bảo thông tin trong nước và quốc tế cũng như liên lạc cho các vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước Việc mở cửa cho nhiều doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường dịch vụ viễn thông, phá bỏ dần thế độc quyền của VNPT, là động lực chính thúc đẩy dịch vụ này ở Việt Nam tăng trưởng. Liên tục sáu năm qua, thị trường viễn thông luôn tăng trưởng trên 30% mỗi năm, đặc biệt trong hai năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng đã vọt lên trên 50%/năm, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có ngành viễn thông tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Chỉ riêng tám tháng đầu năm 2006, số thuê bao điện thoại mới đã gần gấp đôi tổng thuê bao của giai đoạn 1975-2000. Hai năm qua cũng là thời kỳ cạnh tranh quyết liệt nhất trong lịch sử phát triển ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam với sự tham gia của bốn nhà cung cấp, qua đó tạo ra những thay đổi mang tính đột phá về chính sách giá cước và chi phí tiếp cận dịch vụ.  Mặc dù đạt được tốc độ phát triển ấn tượng như vậy, nhưng mật độ điện thoại tính trên 100 dân của Việt Nam mới đạt 24,42, còn kém nhiều nước trong khu vực và thua xa các quốc gia châu Âu. Điều này cho thấy thị trường viễn thông Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển. Bộ Bưu chính Viễn thông dự báo đến năm 2010 mật độ điện thoại có thể đạt tới 42 máy/100 dân, trong đó gần hai phần ba là thuê bao di động. Số liệu thống kê chính thức của bộ công bố cho thấy bảy tháng đầu năm 2006, mạng điện thoại của Việt Nam tăng thêm gần 4,6 triệu thuê bao, đưa tổng số thuê bao điện thoại lên 20,44 triệu, trong đó mạng điện thoại di động đóng góp nhiều nhất vào sự phát triển này với hơn 11 triệu thuê bao còn đang hoạt động, ngoài ra còn khoảng sáu triệu thuê bao khác của những khách hàng đã bị khóa hai chiều. Hai mạng MobiFone và Vinaphone của VNPT chiếm thị phần lớn nhất với trên tám triệu khách hàng, còn lại thuộc về Viettel Mobile, S-Fone và EVN Telecom.  Ngoài dịch vụ điện thoại, thị trường Internet cũng phát triển rất nhanh, bình quân năm sau cao gần gấp đôi so với năm trước kể từ khi dịch vụ này thâm nhập vào Việt Nam từ cuối năm 1997. Hiện có chín doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet đang hoạt động, trong đó VNPT chiếm 42,63% thị phần, FPT 23,86% và Viettel 18,02%. Đến cuối tháng 7/2006, Việt Nam có trên 3,688 triệu thuê bao Internet, tăng gần 800.000 thuê bao so với cuối năm ngoái. Số người sử dụng dịch vụ này khoảng 13,4 triệu, tương đương 16% dân số và ngang với tỷ lệ sử dụng Internet bình quân của thế giới. Bộ Bưu chính Viễn thông dự báo số người sử dụng Internet của Việt Nam vào năm 2010 có thể đạt 35% dân số. Hiện nay, nhu cầu thuê bao Internet băng thông rộng đang có xu hướng tăng mạnh, đặt các nhà cung cấp dịch vụ vào tình trạng cung không đáp ứng đủ nhu cầu 4.3 Những vấn đề còn tồn tại trên thị trường hàng hóa và dịch vụ hiện nay : Thứ nhất, thị trường về cơ bản vẫn là manh mún, phân tán và nhỏ bé. Sức mua còn thấp, tình trạng thiếu cầu không thể sớm khăc phục được. Hàng hóa ứ đọng khó tiêu thụ đang là bài toán khó vời Nhà nước doanh nghiệp. Thứ hai, thị trường trong nước tuy tăng trưởng nhưng còn ở trình độ phát triển thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông thôn, thị trường nông thôn, miền núi đặc biệt vùng sâu, vùng xa còn quá nghèo nàn lạc hậu và sơ khai. Đời sống của nông dân còn thấp nên sức mua kém. Chênh lệch về thu nhập, mức sống và đời sống vủa nông thôn và thành thị ngày càng cách xa. Với tổng dân số khoảng 83 triệu người vào năm 2005 và khoảng 88 triệu người vào năm 2010, tuy tỉ trọng dân cư nông thôn có giảm xuống( 72% năm 2005 và dự kiến 67% năm 2010), nhưng với gần 60 triệu người thì thị trường nông thôn vẫn chưa mạnh, tình trạng tự cấp, tự túc còn ở mức cao(50%), do vậy vần đề tiêu thụ và nhu cầu của thị trường nông thôn đã và đang trở thành vấn đề bức xúc đối với sự phát triển của thị trường nông thôn và thị trường hàng hoá và dịch vụ trong cả nước. Thứ ba, khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế còn yếu. Cơ cấu sản phẩm lưu thông trên thị trường đơn điệu, chất lượng thấp. Thứ tư, thâm nhập và phát triển thị trường quốc tế vẫn còn dừng lại ở một số ít mặt hàng truyền thống và chưa ổn định. Những mặt hàng khác mới dừng lại ở mức độ thăm dò thị trường và trong tiềm năng. Khi thực hiện AFTA/CEPT và tự do hóa thương mại quốc tế, chúng ta gặp phải nhiều bất lợi và thách thức. Thứ năm, tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường đang là một quốc nạn. Những hàng hóa này làm hại nghiêm trọng tới lợi ích Nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thứ sáu, điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường đã có nhiều thay đổi song còn chậm so với yêu cầu. Công tác phân tích, dự báo thị trường của cả doanh nghiệp và Nhà nước còn yếu. Sự thiếu định hướng chiến lược và chính sách hợp lý đã làm tăng nguy cơ bất ổn của thị trường, làm cho tính tự phát của thị trường gia tăng. Thứ bẩy, thị trường trong nước mới chỉ tập trung vào thương mại hàng hóa và hầu như quên lãng thị trường dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, ngân hàng. Trong khi đó, thực tế hội nhập kinh tế thế giới cho thấy dịch vụ mới là quyết định chứ không phải là hàng hóa thông thường. Thứ tám, tổ chức hệ thống thị trường còn ở tầm thấp, mang nặng tính chất quá độ từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường hiện đại. Thị trường nội địa còn giản đơn thiếu hoàn thiện. Hệ thống tổ chức lưu thông phân phối được tổ chức hết sức giản đơn, thiếu chặt. Điều này đã dẫn đến hai tác động tiêu cực: một là, các doanh nghiệp nước ngoài rất dễ len lỏi thậm chí chi phối hệ thống phân phối trên thị trường trong nước; hai là, thiếu sự liên kết chặt chẽ có hệ thống của hệ thống thị trường, gây ách tắc thị trường và là một trong những nguyên nhân gây ra các cơn sốt giá cục bộ. trong khi đó, ở nhiều nước, với hệ thống tổ chức thị trường chặt chẽ, liên hoàn nên các doanh nghiệp nước ta khó len vào hệ thống phân phối của họ, do đó rất khó tiếp cận được thị trường bên ngoài. Thứ chín, thị trường trong nước ít được chú ý phát triển. Với hơn 80 triệu dân, thị trường nội địa có vị trí đặc biệt quan trọng để thúc đẩy sản xuất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước, kể cả Bộ Thương mại, Ủy ban nhân dân các địa phương và doanh nghiệp chỉ tập trung xuất khẩu, coi nhẹ phát triển thị trường trong nước. Đây là một thiếu sót lớn đã được Hội nghị Thương mại toàn quốc tháng 2-2003 chỉ ra. Hiện tại, chúng ta chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường nội địa, nhất là khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mạng lưới mua bán, đại lý mua bán của các doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở một số đô thị lớn. Thị trường hàng hoá và dịch vụ thiếu cơ chế liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân; hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại kém phát triển; chưa có giải pháp hữu hiệu phát triển hệ thống chợ( chợ chuyên doanh, chợ đầu mối, chợ khu vực) và hỗ trợ phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn dựa chủ yếu vào kinh tế tự cấp, tự túc, giao lưu hàng hoá và dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Thứ mười, thị trường hàng hoá và dịch vụ vừa thiếu tính cạnh tranh , vừa bị chia cắt, manh mún. Tình trạng độc quyền của một doanh nghiệp Nhà nước đang là một cản trở nghiêm trọng đối với phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ theo nguyên tắc thị trường. Hiện tượng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng làm giảm sức cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế. Cho đến nay, nhiều loại hàng hoá và dịch vụ vẫn thuộc độc quyền của Nhà nước ( như xi măng, sắt thép, điện, cung cấp nước, hàng không, vận tải biển, tài chính…). Các cơ quan quản lý nhà nước vẫn can thiệp trực tiếp vào các quyết định kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, thị trường hàng hoá và dịch vụ đang bị chia cắt nghiêm trọng giữa các ngành, các vùng. Như đã nêu ở trên, do nhiều nhà nguyên nhân, thị trường ở một số vùng nông thôn, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu xa đang bị tách rời với thị trường của cả nước. Thậm chí hiện nay, một số bộ ngành và địa phương vẫn áp dụng các biện pháp mệnh lệnh, hành chính trong việc yêu cầu các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân phải tiêu dùng sản phẩm cho bộ, ngành và địa phương mình sản xuất. Đây là một nghịch lý đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập. V. Phương hướng phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ 5.1 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước : Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ hàng tiêu dùng, nâng cao chất lượng, hạ giá thành để đáp ứng tiêu dùng trong nước. Hiện nay, hàng tiêu dùng trong nước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư còn hạn chế. Hàng hóa do Việt Nam sản xuất đáp ứng tiêu dùng trong nước chủ yếu là hàng hóa thông thường như lương thực, thực phẩm, quần áo, giày dép v.v.. Nhiều chủng loại hàng hóa chất lượng cao cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân còn phụ thuộc vào nhập ngoại, hoặc nếu có sản xuất trong nước thì giá cao.Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, quy luật tất yếu là hàng hóa chất lượng cao, giá cả hợp lý sẽ chiếm lĩnh được thị trường, không kể nguồn gốc sản xuất là của nước nào. Vì thế, để hàng hóa và dịch vụ ở nước ta chiếm lĩnh được thị trường hơn 80 triệu dân trong nước, định hướng quan trọng hàng đầu là phải tăng chất lượng, giảm chi phí sản xuất nhằm tạo ra các loại hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản đời sống con người như ăn mặc, đi lại, học tập… có chất lượng cao, gía cả hợp lý. Nói cách khác, phải làm cho khẩu hiệu “ Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” có cơ sở thuyết phục về kinh tế kỹ thuật. Thứ hai, phát triển mạnh mẽ thị trường hàng hoá và dịch vụ phù hợp với trình độ phát triển và điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Việt Nam. Rõ ràng, muốn cho thị trường hàng tiêu dùng có chất lượng cao và giá cả hợp lý, việc tổ chức thị trường hàng hóa phục vụ sản xuất, cùng các thị trường yếu tố ( đất đai, lao động và vốn) có ý nghĩa quan trọng. Hàng hóa tiêu dùng cá nhân của dân cư không thể có chất lượng cao, giá cả hợp lý nếu như các hàng hóa phục vụ sản xuất và hàng hóa yếu tố sản xuất có trình dộ công nghệ thấp và giá cả cao. Tình trạng giá đầu vào một số hàng phục vụ sản xuất hiện nay như điện, xăng dầu, sắt thép… là một ví dụ làm tăng giá hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Chính vì thế, trong định hướng thị trường, cần chú trọng tới phát triển thị trường hàng hóa phục vụ sản xuất. Thứ ba, mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng của các hàng hoá và dịch vụ, nhất là dc du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu chính viễn thông v.v.. nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân, đồng thời góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.Trong xu thế hiện nay, nhu cầu du lịch phát triển mạnh mẽ. Những năm gần đây, dòng khách từ các châu lục di chuyển sang các nước châu Á, trong đó có Việt Nam rất rõ ràng. Vì thế, chúng ta cần tận dụng điều kiện lích sử, tự nhiên, xã hội để phát triển manh thị trường du lịch. Đồng thời, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại đang làm cho thị trường dịch vụ cao cấp phát triển mạnh mẽ, mang lại nguồn lợi nhuận lớn. Vì vậy, cần phát huy lợi thế, đi tắt đón đầu tiếp thu công nghệ mới, tổ chức kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy trong những năm tới, cần tăng cường quy mô, tăng tốc độ phát triển của thị trường dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ cao cấp. Thứ tư, chú trọng phát triển thị trường ở đô thị, tạo bộ mặt văn minh thương mại, đồng thời chú ý phát triển thị trường ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đảm bảo cho thị trường hàng hoá và dịch vụ xâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào tất cả các vùng của đất nước. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, hiện nay, thị trường ở đô thị tương đối phát triển, nhưng thị trường ở nông thôn, miền núi còn rất lạc hậu. Sự phát triển của thị trường hiện nay chủ yếu tập trung vào các vùng Đông Nam Bộ, đòng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Thị trường nông thôn miền núi ở các vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc phát triển chậm, nghèo nàn và sơ khai, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của sx và dân cư. Ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa chủ yếu vẫn dựa vào kinh tế tự cung tự cấp, khép kín. Trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất đã làm cho phân công lao động không phát triển và kinh tế hàng hoá còn ở trình độ rất thấp. Vì thế, trong định hướng thị trường khu vực, cần chú trọng phát triển thị trường các tỉnh Tây Nguyên, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc. 5.2 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ ngoài nước : Một là, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để thực hiện điều này, trong xuất khẩu, chuyển dần từ xuất khẩu sản phẳm sơ chế sang xuất khẩu hàng hóa chế biến sâu; giảm rỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tăng tỷ trọng xuất khẩu thành phẩm. Trong nhập khẩu, ưu tiên nhập máy móc, thiết bị, đặc biệt là công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn của các nước kinh tế phát triển,giảm đến mức tối đa nhập khẩu công nghệ trung gian, công nghệ chất lượng trung bình và công nghệ đã qua sử dụng. Hai là nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá và dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hiện nay, khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế những năm tới cần nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề này thuộc về trách nhiệm của cả Nhà nước và doanh nghiệp. Đối với Nhà nước, cấn tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý, tọa môi trường cho mọi loại hình doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với doanh nghiệp, cần nhanh chóng xâm nhập và nắm bắt nhu cầu thị trường nước ngoài, đồng thời tích cực cải tiến, nâng cao trình độ công nghệ để sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ba là, xác định rõ đặc điểm các khu vực thị trường để có chính sách cụ thể, thích ứng nhằm xâm nhập vào các thị trường từng khu vực và từng nước. Thị trường khu vực châu Á – Thái Bình Dương là thị trường rộng lớn, dân số hơn 3 tỷ người, nhu cầu đa dạng, phong phú, chiếm 25% tổng kim nghạch buôn bán của thế giới. Tuy nhiên đa số các nước châu Á bao gồm cả Nhật Bản, các nước ASEAN, là thị trường trung gian, mua hàng của Việt Nam, chế biến để tái sản xuất hoặc chuyển khâu nên giá xuất khâu thường thấp hơn giá thị trường thế giới. Vì thế, những năm tới, cần thay đổi chất lượng hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này theo đúng hướng tăng tỷ lệ hàng hoá tiêu dùng cuối cùng cho tiêu dùng trong xuất khẩu sang các nước châu Á. Tung Quốc là thị trường có số dân đông nhất thế giới, dung lượng hàng hoá đang tăng với tốc độ rất nhanh. Đây là nước làng giềng, thuận lợi trong việc vận chuyển, thanh toán; có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự nước ta. Dự báo, tỷ trọng thị trường Trung Quốc sé tăng lên trong những năm tới, cụ thể là 2010: 9% và 2020 chiếm 10% tồng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Châu Âu là thị trường tiêu thụ trực tiếp, mặc dù dân số chỉ hơn 500 triệu người nhưng dung lượng lớn vào bậc nhất thế giới, chiếm 30% kim nghạc buôn bán thế giới( trong đó EU chiếm 19%) và đang có xu hướng tăng lên; giá thường cao hơn các thị trường khác. Vì vậy, cần chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Dự báo trong những năm tới, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ tiếp tục tăng, năm 2010: 26% và 2020 chiếm 27%. Thị trường Châu Mỹ( nhất là Bắc Mỹ) là thị trường tiêu thụ trực tiếp, với dân số gần 800 triệu người, dung lượng lớn vào bậc nhất thế giới, chiếm 30% kim nghạch buôn bán thế giới( trong đó Mỹ chiếm 20%) và đang có xu hướng tăng lên; giá cả thường cao hơn các thị trường khác; dân cư có nhiều giai tầng, nhiều dân tộc khác nhau nên nhu cầu đa dạng, phong phú. Trong thời giang gần đây, thị trường châu Mỹ đang tăng lên. Dự báo năm 2010: 20% và 2020 chiếm 22% tổng kim nghạch xuất khẩu. Châu Phi là thị trường rộng lớn, có số dân gần 800 triệu người; chiếm 15% tổng kim nghạch buôn bán của thế giới. Đây là thị trường tiềm năng. Trên thực tế, nhiều loại hàng hoá( trong đó gần một nửa lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam0 vào thị trường này qua các tổ chức trung gian và bị chi phối, điều tiết bởi các nước hoặc các tổ chức quốc tế có nguồn tài trợ. Gần đây, việc khai thác thị trường khu vực này bước đầu báo hiệu những kết quả tích cực. Tại một số nước, khả năng xuất khẩu hàng hoá của nước ta là khá lớn. trong những năm tới cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xâm nhập mạnh hơn thị trường này. Theo dự báo, tỷ trọng thị trường châu Phi cũng sẽ tăng nhanh, 2010: 6% và 2020 chiếm 8% tổng kim nghạch xuất khẩu. 5.3 yêu cầu phải đổi mới chính sách, luật pháp và tổ chức quản lý : Phân tích cơ hội và thách thức đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh một cách căn bản trong phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Việc điều chỉnh này không phải là sự điều chỉnh cục bộ bên ngoài, mà là sự chuyển biến chiều sâu mang tính chỉnh thể, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chính sách, luật pháp và tổ chức quản lý thị trường hàng hoá và dịch vụ một cách hệ thống. Một là, chuyển trọng tâm chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ, chính sách ngoại thương từ vĩ mô của Chính phủ sang vi mô của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế, mô hình phát triển ngoại thương do doanh nghiệp chủ đạo sẽ thay thế cho mô hình phát triển ngoại thương do Nhà nước chủ đạo. Điều này đòi hỏi trọng tâm chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta chủ yếu chuyển dích sang hướng gây xựng các chủ thể vi mô, môi trường vi mô, phải thay đổi các mặt chính sách tổ chức doanh nghiệp, chính sách cạnh tranh, quy chế chính phủ v.v.. trong chính sách thị trường mới. Hai là đổi mới căn bản chính sách thị trường thương mại quốc tế. Như đã biết, trong lý thuyết về thị trường, người ta hay đề cập đến lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế. Lợi thế so sánh cho phép các nhà hoạch định chính sách thị trường lựa chọn để chuyên môn hóa sản xuất săn phẩm hàng loạt với chi phí thấp. Thế nhưng trong nền kinh tế hiện đại, khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và tác động của cách mạng khoa học ngày càng có ý nghĩa to lớn. Ngày nay, các nước có thể sản xuất và cung ứng tất cả hàng hóa mà con người có nhu cầu. Chẳng hạn, trước đây, trên thị trường chây Á, chỉ có Nhật Bản là nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất đồ điện gia dụng như tivi, xe máy, quạt điện… Song ngày nay, Trung Quốc là nước đang chiếm dần lợi thế này, đặc biệt là săn phẩm tivi, xe máy, …của Trung Quốc đang chiếm lĩnh thị trường nông thôn và thị trường có thu nhập thấp. Chính vì vậy trong bối cảnh mới, cần có sự chuyển biến về cơ sở chính sách thương mại. Điểu náy có nghĩa là, chuyển từ việc lấy lợi thế so sánh truyền thống làm cơ sở, từng bước chuyển sang lấy lợi thế cạnh tranh làm cơ sở. Lợi thế cạnh tranh đòi hỏi phải tính toán chi phí, chất lượng, tổ chức cung ứng có hiệu quả. Đối với nước ra, tuy trước mắt lợi thế so sánh vẫn là cơ sở để tham gia vào phân công lao động quốc tế, nhưng về lâu dài, cần lấy lợi thế cạnh tranh làm cơ sở của chính sách thị trường đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động, bền vững và hiệu quả cao. Ba là, thay đổi phạm vi của chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ từ lĩnh vực ngoại thương trước đây sang toàn bộ lĩnh vực lưu thông. Điểu này có nghĩa là chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ phải chú ý nhiều đến sự hội nhập thị trường trong và ngoài nước, thống nhất nội và ngoại thương. Bốn là thay đổi phương hướng chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ từ hạn chế thương mại sang xuc tiến thương mại. Cùng với việc tăng tốc của tién trình toàn cầu hóa kinh tế, xúc tiến thương mại sản xuất thay thế ngày càng nhiều cho hạn chế thương mại, trong đó, đặc biệt là xúc tiến thương mại đối với phát triển doanh nghiệp, quan hệ trực tiếp đặt nền móng của việc thực hiện quản lý thương mại ở nước ta. Năm là đổi mới hệ thống luật pháp phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế, tạo môi trường canh tranh lành mạnh. Xây dựng một bộ luật doanh nghiệp thống nhất cho cả doanh nghiệp đẩu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân để tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật phù hợp với các thông lệ quốc tế, tương thích với các quy định của WTO và các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế. Sáu là chuyển biến phương thức quản lý thị trường hàng hoá và dịch vụ từ trực tiếp sang gián tiếp là chủ yếu. Việc gia nhập ASEAN và WTO cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế. Đây cũng là sự thể hiện nguyên tắc công bằng, minh bạch. Quy phạm hóa, luật hóa, sự quản lý của Nhà nước tất yếu dẫn đến sự thay đổi phương thức quản lý thích ứng với hội nhập kinh tế quốc tế. VI. Giải pháp chủ yếu phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta 6.1 Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách cụ thể về phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ : Chính sách thị trường hàng hoá và dịch vụ là hệ thống các quy định về doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp, chính sách phát triển thương mại trong nước và quốc tế, chức trách của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tổ chức lưu thông hàng hóa, phát triển thương mại các vùng khó khăn, chính sách thuế quan và bảo hộ, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và quyền hạn của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Để phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta những năm tới cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách sau: Thứ nhất, về chính sách đối với hoạt động của doanh nghiệp. Những năm qua, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, việc thực hiện chính sách phát triển các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đã có nhiều tiến bộ, như việc đăng ký kinh doanh đá được thực hiện thuận lợi hơn. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy cần thực hiện một số biện pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay như: - Tôn trọng tự do kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ tình trạng độc quyền doanh nghiệp và bảo hộ đối với các doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất và vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. - Giảm chi phí trung gian và các điều kiện gia nhập thị trường cho doanh nghiệp. - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - Có chính sách tôn vinh các doanh nhân, tạo sự đồng thuận của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân. - Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là môi trường pháp lý. - Thực hiện chế độ “một cửa” một cách triệt để. - Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin thị trường để cung cấp miễn phí cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định pháp luật. Thứ hai, tiếp thục hoàn thiện chính sách thị trường. Trong những năm tới, chính sách thị trường cần tưng bước chuyển đổi vè phương thức quản lý, về phạm vi và phương hướng hoạt động đối với từng khu vực thị trường. Cụ thể là: - Đối với thị trường trong nước, phải đảm bảo tập trung nhân lực để thúc đẩy sản xuất hàng hóa, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn; đảm bảo cho hệ thống lưu thông hàng hóa thông suốt giữa các vùng, các địa phương. Chính sách thị trường trong nước phải đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa cân đối, tránh những khủng hoảng, bất ổn trên thị trường. Chính sách thị trường trong nước còn phải thúc đẩy để hình thành đồng bộ các loại thị trường, thực hiện chính sách nhất quán, ổn định để các chủ thể kinh doanh chủ động với các tình thế trên thị trường. Xây dựng thị trường thống nhất trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và phát triển các thị trường trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ. - Với thị trường nông thôn, ở nước ta, hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn nên thị trường nông thôn có vị trí rất quan trọng. Chính sách thương mại đối với nông thôn là một bộ phận của chính sách nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách thương mại đảm bảo cung ứng những hàng hóa thiết yếu cho nông dân sản xuất và tiêu dùng, bảo đảm tiêu thụ được hàng hóa do nông nghiệp và nông thôn sản xuất ra; góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất ở nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phá bỏ độc canh, đa dạng hóa ngành nghề để thúc đẩy và nâng cao đời sống nông dân và xã hội hóa nông thôn theo con đường văn minh, hiện đại. Phát triển sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập từ đó tăng sức mua, cải thiện điều kiện sống của nông dân là một nội dung quan trọng. Chính sách thương mại nông thôn còn phải góp phần giải quyết việc làm cho nông dân, thực hiện chính sách xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo. Chính sách thương mại đối với nông thôn góp phần hình thành, khôi phục và phát triển các làng nghề, giữ gìn vản sắc văn hoấ truyền thống, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Điều 13 Luật Thương mại cũng đã khẳng định chính sách thương mại đối với nông thôn như sau: Nhà nước có chính sách phát triển thương mại đối với thị trường nông thôn, tạo điều kiện mở rộng và phát triển chợ nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực cùng với hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác thực hiện việc bán vật tư nông nghiệp, hàng công nghiệp, mua nông sản nhằm góp phần nâng cao sức mua của nông dân và tạo tiền đề để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hóa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. - Với thị trường khu vực miền núi, chính sách thương mại cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau: Phát triển thị trường miền núi để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp đồng bào dân tộc định canh, định cư, ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm thị trường tiêu thụ sản phẩm của các địa phương Phát triển hệ thống chợ và trung tâm thương mại huyện và cụm xã, đầu tư xây dựng cơ sỏ vật chất và phát triển hệ thống giao thông để mở rộng giao lưu kinh tế ở miền núi, hải đảo và vùng sâu, vùng xa. Chính sách thương mại đường biên và thương mại cửa khẩu cần được tăng cường để phát triển đúng hướng. Đầu tư phát triển một số khu kinh tế cửa khẩu. Chính sách đàp tạo, bồi dưỡng, khuyến khích cán bộ thương mại cũng cần được quan tâm để tạo đội ngũ cán bộ thương mại co trình độ ngày càng cao cho miền núi. - Đối với thị trường ngoài nước, trong những năm tới, chính sách thị trường ngoài nước cần hướng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn phải chú trọng phát triển các loại thị trường truyền thống như thị trường khu vực chau Á – Thái Bình Dương, thị trường EU, thị trường Nga. Đồng thời tiếp cận và phát triển các thị trường mới có nhiều tiềm năng như thị trường Hoa Kỳ, thị trường Trung cận Đông, chẫu Phi và Mỹ La tinh. Tăng cường khuyến khích, động viên tìm kiếm thị trường xuất khẩu, đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp. Thứ ba, về chính sách mặt hàng - Trước hết là chính sách mặt hàng cấp quốc gia. Danh mục mặt hàng này bao gồm tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, xuất khẩu mũi nhọn của đất nước, các mặt hàng cạnh tranh cấp quốc gia. Các vùng, các địa phương, các bộ ngành cùng xây dựng chính sách mặt hàng của cấp mình. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại, vùa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, đơn vị, của nền kinh tế quốc dân. Chính sách mặt hàng quốc gia phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Mặt hàng đi vào lưu thông phải có chất lượng, mặt hàng qua chế biến phải chiếm tỷ trọng ngày càng cao. - Chính sách thay thế mặt hàng nhập khẩu. Đây là những mặt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng đựoc yêu cầu về số lượng, chất lượng và sức cạnh tranh. Những mặt hàng này dựa trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động và công nghệ sản xuất tiên tiến, Đây cũng là những mặt hàng chiếm ưu thế trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa. Nhà nước có chính sách hợp lý để phát triển các mặt hàng thay thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu. Chính sách mặt hàng còn quy định các mặt hàng lưu thông có điều kiện và mặt hàng cấm lưu thông trên thị trường nội địa, cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Danh mục mặt hàng này do Chính phủ quy định. Đây là những mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các mặt hàng bị cấm buôn bán theo quy định của công an quốc tế mà Việt Nam tham gia… Trước đây, danh mục mặt hàng cấm lưu thông được Chính phủ quy định hàng năm. Từ 2001 Chính phủ quy định danh mục này cho cả thời ký 5 năm để đảm bảo tính ổn định và tính có thể nhận biết trước của cơ chế, chính sách, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thế chủ động cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ quyết định thay đổi danh mục các mặt hàng, mặt hàng cấm kinh doanh và mặt hàng có điều kiện trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại và thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành. Thứ tư, về chính sách đầu tư phát triển thị trường. Từ thực trạng và yêu cầu phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ đến 2010, cần có chính sách và giải pháp phát triển vốn đầu tư cho thương mại thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Một mặt tạo điểu kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, mặt khác, bảo đảm nguồn vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật cho thị trường hàng hoá và dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa và phát triển thị trường. Đầu tư cho thương mại có thể từ nhiều nguồn: nguồn vốn ngân sách, vốn đằut nước ngoài, vốn vay các tỏ chức tín dụng trong và ngoài nước. vốn huy động của các doanh nghiệp và tư nhân. Vì vậy, cần có chính sách và giải pháp thu hút, sử dụng vốn thích hợp với từng nguồn vốn trong quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Tập trung thúc đẩy nhanh quá trình phát triển thị trường vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, thị trường chứng khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự do tham gia vào vòng luân chuyển vốn của xã hội và huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường theo quy định của pháp luật. Đối với các công trình và các dịch vụ hỗ trợ thị trường, cần đầu tư vốn với quy mô lớn như các trung tâm đầu mối giao dịch hàng hóa, trung tâm nhập khẩu và phân phối hàng nhập khẩu, hệ thống tổng kho ở các vùng sản xuất tập trung hoặc bến cảng, các trung tâm giới thiệu và bán hàng Việt Nam. Ở các vùng khó khăn, cần tập trung đầu tư có trọng điểm xây dựng chợ đầu nguồn ở một số vùng nông thôn, các trung tâm cụm xã miền núi; các cửa hàng của thương mại nhà nước và hợp tác xã thương mại ở vùng cao, hải đảo, vùng sâu và vùng xa… Trong thời gian qua, đầu tư cho thương mại thiếu sự tập trung. Vốn của doanh nghiệp thương mại bình quân thấp. Do đó, đi đôi với sắp xếp lại doanh nghiệp thương mại nhà nước, cần hình thành các doanh nghiệp thương mại đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời, cần áp dụng tổng hợp các chính sách và giải pháp tạo vốn, sử dụng vốn, tăng cường khẳ năng tài chính cho doanh nghiệp; tạo điều kiện tái đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ; tăng cường phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động hàng hoá và dịch vụ có hiệu quả cũng là nhằm mục tiêu thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thị trường hàng hóa. 6.2 Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác tổ chức quản lý hoạt động của thị trường từ phía doanh nghiệp : Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng hệ thống quản lý thị trường có tính tổng hợp, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia có thể thực hiện phân bố các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu. Biện pháp rào cản thương mại không ngăn cản được sự xâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam. Để nền kinh tế nước ta đảm bảo phát triển bền vững, hệ thống quản lý kinh tế đối ngoại đơn nhất phải được chuyển thành hệ thống quản lý tổng hợp, thể nhất hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. trong vận hành thực tế của chính sách thị trường, khó khăn chủ yếu là sự phối hợp đồng bộ của các chính sách có liên quan đến chính sách thị trường với hệ thống chính sách tiền tệ, tài chính. Hệ thống này phải vượt qua hệ thống quản lý ngành hiện hành mới có thể hình thành hệ thống quản lý đồng bộ. Thứ hai, xây dựng hệ thống giám sát điều hành thị trường có hiệu quả. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp quy và cơ cấu tổ chức liên quan đến mở cửa thị trường. trên cơ sở nguyên tắc công khai, minh bạch, quy phạm gia nhập thị trường. - Nhanh chóng định ra hệ thống dự báo vận hành thị trường vĩ mô trong nền kinh tế mở, ở trạng thái động, giám sát điều hành có hiệu quả sự vận hành mở cửa thị trường ở nước ta. về vấn đề này, bất kể là ứng phó với bán phá giá và chống bán phá giá hay là giám sát khống chế những động thái lạ trong thương mại và lưu thông tư bản đều vô cùng quan trọng. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, thì vấn đề an toàn kinh tế của đất nước là yêu cầu thực tế. Thứ ba, xây dựng hệ thống chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp có ưu thế trong nước phát triển theo hướng quốc tế hóa. Hiện nay, thúc đẩy doanh nghiệp nước ta phát triển quốc tế hóa đã trở thành vấn đề cấp bách. Nhiệm vụ chủ yếu hiện nay là nỗ lực đẩy mạnh sự phát triển mở rộng ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước. Sự phát triển quốc tế hóa của các doanh nghiệp có ưu thế trong nước vừa có thể giảm thiểu được những ngăn cản thương mại, vừa có lợi cho tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp nước ta. Đối mặt với xu hướng gia tăng toàn cầu hóa, các doanh nghiệp cần phải có năng lực phát triển cả trong nước và ngoài nước. Để thúc đẩy quá trình này. Nhà nước cần dành cho các doanh nghiệp sự trợ giúp trong các khâu gia nhập, khai thác phát triển thị trường nước ngoài, đổi mới công nghệ, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại. Thứ tư, khuyến khích tích cực các tổ chức trung gian giữa các doanh nghiệp, đặc biệt chú ý đến các tổ chức hội nghề nghiệp. Thông qua vai trò của các tổ chức tự nguyện của các doanh nghiệp, một mặt có thể xây dựng các quy phạm trật tự thị trường trong nước. tránh sự can thiệp quá sâu của Chính phủ đối với thị trường; mặt khác, có thể bằng các hình thức tổ chức nhân dân điều hòa lợi ích của các doanh nghiệp trong nước, giúp giảm thiểu hành vi bán phá giá đồng thời cũng đặt nền móng tổ chức để nước ta thực thi những điều khoản của cá tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế. Thứ năm, cùng với những định hướng điều chỉnh về tổ chức hoạt động thị trường như trên, cần giải quyết một số điểm cụ thể như: nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng chiến lược, kế hoạch và khả năng dự báo thị trường; cải tiến mạnh mẽ hơn nữa các thủ tục hành chính; tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế; giảm các hoạt động sự vụ, tác nghiệp. tăng cường hoạt động, nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách vĩ mô và kiểm tra, kiểm soát về chấp hành luật pháp; tấn công mạnh mẽ vào các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, làm hàng giả; trong sạch hóa và lành mạnh hóa bộ máy hành chính nhà nước; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế; hiện đại hóa công cụ quản lý nhà nước về thị trường; nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo trvà các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước; tăng cường các hoạt động hỗ trợ phát triển thị trường ngoài nước, sự dụng có hiệu quả các chính sách phi thuế quan. 6.3 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp : Hiện nay khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế. Vì thế, để chú động hội nhập, cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Muốn vậy, cần giải quyết một loạt vấn đề cụ thể để tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như: xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh; đổi mới công nghệ kinh doanh và hoạt động kinh doanh; tăng cường cải tiến tổ chức quản lý, nâng cao năng suất, giảm chi phí kinh doanh; xây dựng văn hóa của doanh nghiệp; áp dụng thương mại điện tử. C. KẾT LUẬN Như vậy, qua quá trình phân tích thị trường hàng hoá và dịch vụ ở nước ta cho thấy cần phải đẩy mạnh và đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý của nhà nước trong việc định hướng nhiệm vụ chiến lược vè phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; và đòi hỏi mỗi cá nhân, tập thể cần nhận thức sâu sắc hơn vấn đề này trong bối cảnh hội nhập ở nước ta. Trên thực tế, các thị trường bộ phận hoạt động đan xen lẫn nhau, vì thế mà khó có thể tách biệt riêng ra từng thị trường một. Do vậy, phát triển thị trường này thì phải xem xét phát triển các thị trường khác một cách đồng bộ, tương ứng phù hợp nhau trong tổng thể. Để hoàn thiện một mô hình kinh tế với sự phát triển đồng đều các thị trường bộ phận và nhất là thị trường hàng hoá và dịch vụ đòi hỏi chúng ta phải tiến những bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nhưng trong thực hiện phải dứt khoát, tích cực và đạt hiệu quả cao. Nước ta đang đã tiến lên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện vì vậy việc phát triển các loại thị trường cần được ưu tiên đúng mức, có như thế mới khắc phục được những yếu kém, phát huy những thành tựu, đảm bảo sự ổn định, bền vững của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. D. Tài liệu tham khảo 1. Phát triển các loại thị trường trong nên kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. GS.TS Nguyễn Đình Hương 2. Báo tài chính điện tử : 3. Báo điện tử VietNamnet: 4. Quản lí nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB lý luận chính trị. GS.TS Lương Xuân Quỳnh 5. Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam : www.dangcongsan.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan