Khi dự án được triển khai, muốn thực hiện tốt dự án thì giữa chủ đầu tư 
và chủ thầu phải có sự kết hợp nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện và chuẩn 
bị bàn giao dự án thông qua Ban quản lý dựán. Khi dựán hoàn thành thì 
bàn giao cho chủ đầu tư để khai thác dự án. Việc tổ chức triển khai dựán 
có ý nghĩa quan trọng đến thành công của dựán cả về lực lượng sản xuất 
trực tiếp cũng như cán bộ quản lý khai thác dự án: Quá trình triển khai 
dựán và đưa dự án vào hoạt động là nhiệm vụ của Ban điều hành sản 
xuất để tiến tới thành lập Công ty theo mô hình thích hợp với từng hình 
thức đầu tư.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 54 trang
54 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4604 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương án xây dựng nhà máy sản xuất sô đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1970 Mỹ bắt đầu khai thác khu 
mỏ trona tại Wyoming. Từ thời gian đó đến nay, sản xuất sôđa ở Mỹ 
chủ yếu dựa trên nguồn nguyên liệu trona quan trọng này. Từ năm 1986, 
sản xuất sôđa quy mô lớn theo phương pháp Solvay ở Mỹ thực tế đã 
chấm dứt. Hiện nay, khu mỏ tại Wyoming đang được khai thác với tốc 
độ 15 triệu tấn quặng/năm, tương đương 8,3 triệu tấn sôđa /năm. 
 Năm 1999, Mỹ cũng bắt đầu sản xuất sôđa từ nguyên liệu nahcolit 
được phát hiện ở vùng Colorado. Công ty America Soda đã xây dựng 
nhà máy sản xuất sôđa tại đây với công suất 1 triệu tấn sôđa/năm và 
150.000 tấn NaHCOÂ3Â/năm. 
 Trước đây, ở Mỹ người ta sản xuất sôđa theo phương pháp khai thác 
đào lấy quặng, sau đó chở đến nhà máy xử lý để tiến hành chiết, thu 
được sản phẩm sôđa. Ngày nay, người ta áp dụng công nghệ hòa tan để 
sản xuất sôđa từ quặng. Trước tiên, nước nóng được bơm vào mỏ 
quặng, sau đó người ta bơm dung dịch lên và tiến hành tách COÂ2Â. 
Bùn chứa NaÂ2ÂCOÂ3 thu được sẽ được bơm đến nhà máy xử lý để 
tách nước và lấy sản phẩm sôđa khan. Một phần sôđa khan được 
chuyển hóa ngược lại thành NaHCOÂ3Â nhờ phản ứng với COÂ2Â đã 
được tách ra trước đó từ dung dịch ban đầu. Phương pháp sản xuất này 
cho phép giảm nhiều giá thành sản xuất, vì chi phí nhân công chỉ bằng 
1/3 so với phương pháp đào lấy quặng trực tiếp từ mặt đất. 
 Hiện nay, Mỹ là nước sản xuất sôđa với giá thành thấp nhất thế giới. 
Nhìn chung, chi phí sản xuất sôđa từ quặng tự nhiên thấp hơn chi phí 
sản xuất sôđa theo phương pháp tổng hợp và cũng ít kéo theo các vấn 
đề về ô nhiễm môi trường hoặc an toàn lao động hơn. 
 Mặc dù sản xuất sôđa từ các khoáng thiên nhiên như trona, 
nahcolit có nhiều ưu điểm và giá thành hạ hơn, nhưng đối với những 
quốc gia không có những nguồn tài nguyên đó mà lại có nguồn đá vôi, 
than đá và muối ăn dồi dào thì phương pháp Solvay để sản xuất sôđa là 
công nghệ thích hợp nhất. 
1.3 Phương pháp Solvay: 
Trong sản xuất sôđa theo phương pháp tổng hợp, hiện nay trên thế giới 
hầu như chỉ áp dụng phương pháp Solvay, đi từ các nguyên liệu NaCl, 
CO2 và NH3. Phương pháp sản xuất này đã tồn tại gần 140 năm. Công 
nghệ của nó thay đổi rất ít. Quá trình sản xuất gồm các công đoạn sau: 
- Chuẩn bị dung dịch nước muối NaCl bão hòa có độ sạch yêu cầu. 
- Chuẩn bị sữa vôi và khí CO2. 
- Amôn hóa nước muối NaCl bão hòa bằng khí NH3 tái sinh. 
- Cacbonat hóa dung dịch sau amon hóa để tạo bán thành phẩm 
NaHCO3 ẩm tách khỏi dung dịch. 
- Lọc tách NaHCO3 khỏi dung dịch huyền phù sau cacbonat hóa, rửa 
các tạp chất bám trên NaHCO3. 
- Nhiệt phân NaHCO3 ẩm đã rửa để chuyển thành sản phẩm 
sôđa Na2CO3. 
- Tái sinh NH3 từ nước lọc sau khi tách NaHCO3 để tuần hoàn NH3 cho 
quá trình sản xuất. 
Phương pháp Solvay có những ưu điểm như sau: 
- Nguyên liệu sản xuất chủ yếu là muối ăn, đá vôi, đó là những 
nguyên liệu rẻ tiền, sẵn có. Quy trình có thể sử dụng các loại nguyên 
liệu muối chất lượng khác nhau và CO2 thu hồi khi đốt nhiên liệu hoặc 
nung đá vôi. 
- Các phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ không cao (dưới 1000C) 
và áp suất gần áp suất khí quyển. 
- Quá trình sản xuất được thực hiện liên tục trong dòng nguyên 
liệu khí - lỏng là chủ yếu, do đó dễ cơ giới hóa và tự động hóa sản xuất. 
- Quá trình sản xuất được phân đoạn cho phép thu hồi tối đa các 
khí nguyên liệu NH3, CO2 theo khí phóng không, do đó đảm bảo tổn 
thất NH3 nhỏ, môi trường sản xuất sạch, điều kiện lao động tốt. 
- Công đoạn làm sạch nước muối và amôn hóa nước muối cho 
phép loại triệt để các tạp chất tan làm bẩn sản phẩm sôđa, do đó chất 
lượng sôđa của phương pháp Solvay rất cao thỏa mãn yêu cầu sử dụng 
sôđa cho các ngành công nghệ truyền thống và công nghệ cao. 
Với phương pháp Solvay, nếu kết hợp tốt việc sử dụng các nguyên liệu 
NaCl, CO2, NH3 thì có thể tạo được thế cạnh tranh về giá thành sản 
phẩm sôđa trong khu vực và trên thế giới. 
Nhưng phương pháp Solvay cũng có một số nhược điểm như sau: 
- hiệu suất sử dụng nguyên liệu ban đầu thấp. 
- thải ra một lượng phế thải lớn cần xử lý. 
- chi phí năng lượng cao. 
- đầu tư cơ bản cho xây dựng khá lớn. 
Ở quy trình Solvay, nguyên liệu NaCl không được tận dụng triệt để vì 
hiệu suất chuyển hóa tối đa chỉ đạt 73%, còn lại 27% NaCl theo dung 
dịch nước lọc ra ngoài bãi thải. Ngoài ra, lượng CaCl2 tạo thành khi tái 
sinh NH3 bằng sữa vôi cũng bị thải ra ngoài theo dung dịch sau tái sinh. 
Vì vậy, khi sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay truyền thống (tuần 
hoàn NH3) cần phải có bãi thải chứa các chất không phản ứng và các 
chất không sử dụng. Do đó, khi xây dựng nhà máy sản xuất sôđa cần 
phải lưu ý đến diện tích chứa chất thải. 
Vấn đề phế thải và bãi thải khi sản xuất sôđa 
Tùy theo biện pháp công nghệ và nguyên liệu đầu vào, khi sản xuất 
sôđa tổng hợp hoặc sôđa thiên nhiên đều có những chất thải dạng lỏng 
hoặc dạng rắn cần loại bỏ khỏi quá trình. 
Trong sản xuất sôđa thiên nhiên từ các mỏ khoáng chứa sôđa, các tạp 
khoáng không chứa sôđa phải loại bỏ ở dạng rắn, tạo thành nguồn chất 
thải rắn. Còn nếu sản xuất sôđa thiên nhiên từ các hồ nước muối chứa 
sôđa thì thường thu được sản phẩm phụ là các muối khác tách khỏi 
sôđa, nếu không dùng được cũng phải thải bỏ ở dạng rắn hoặc lỏng. 
Trong sản xuất sôđa tổng hợp theo phương pháp Solvay truyền thống, 
người ta dùng đá vôi để tạo ra CO2 và vôi, vì vậy có chất thải rắn là các 
tạp chất trong đá vôi và vôi chưa bị phân hủy. Nếu nhiên liệu đốt là 
chất rắn thì còn tạo thêm nguồn chất thải rắn là xỉ than. Ngoài chất thải 
rắn, còn có chất thải lỏng là dung dịch chứa NaCl, CaCl2 với tạp chất 
rắn sau khi tái sinh NH3 bằng sữa vôi. Lượng nước thải này là khoảng 
7,0 m3/ tấn sôđa, cần thải bỏ ra môi trường xung quanh khu vực sản 
xuất. 
Để giảm thiểu lượng chất thải lỏng này, trong sản xuất sôđa tổng hợp 
người ta áp dụng một số biện pháp như sau: 
- Lọc bỏ chất thải ở dạng rắn khỏi dung dịch sau tái sinh NH3, nước lọc 
trong đem cô đặc kết tinh thu được phụ phẩm là NaCl và CaCl2 , có thể 
dùng cho các ứng dụng cần CaCl2 và NaCl sạch. Tuy nhiên, khi sản 
lượng sôđa lớn thì lượng sản phẩm phụ cũng tăng. Trong thực tế sản 
xuất, khi sản xuất một tấn sôđa thì sẽ thải ra ngoài 6,55 m3 dung dịch 
thải (đã lọc bỏ bã rắn), nếu cô đặc sẽ thu hồi được khoảng 450 kg NaCl 
sạch và 428 kg CaCl2 100%. Song do nhu cầu sử dụng CaClÂ2 khá hạn 
chế nên chỉ có thể dùng một phần nước lọc để sản xuất CaCl2, phần còn 
lại phải thải ra môi trường xung quanh, gây ô nhiễm nguồn nước sinh 
hoạt và canh tác. Vì vậy, khi sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay 
truyền thống vẫn cần phải có bãi thải để chứa các chất thải rắn và lỏng 
ở địa điểm xây dựng nhà máy. 
- Tuần hoàn dung dịch nước lọc về công đoạn amon hóa và cacbonat 
hóa. Đây là chính bản chất của phương pháp Solvay cải tiến. 
1.4. Phương pháp Solvay cải tiến 
Để khắc phục nhược điểm về bãi thải của phương pháp Solvay truyền 
thống, đã có một số nước như Trung Quốc nghiên cứu cải tiến phương 
pháp Solvay truyền thống thành phương pháp Solvay cải tiến: Thay 
tuần hoàn NH3 bằng tuần hoàn NaCl, còn các quá trình khác thay đổi 
không giống nhau. 
Quá trình sản xuất sẽ tạo ra 2 sản phẩm là sôđa và phân đạm NH4Cl, bỏ 
qua công đoạn tái sinh NH3 và nung vôi, nhưng phải bổ sung thường 
xuyên lượng NH3 cần thiết cho giai đoạn amon hóa. Nước lọc sau tách 
NaHCO3 được tuần hoàn trở lại quá trình amon hóa và bổ sung NaCl 
rắn cho đủ nồng độ yêu cầu. 
Như vậy, quá trình sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay cải tiến sẽ 
không có chất thải lỏng như phương pháp Solvay truyền thống. Tuy 
nhiên, phương pháp Solvay cải tiến đòi hỏi phải có nguồn NH3 bổ sung 
và nguồn CO2 không lấy từ lò vôi. 
Do không dùng sữa vôi cho tái sinh NH3 nên công đoạn nung vôi cũng 
bỏ qua. Như vậy, sản xuất sôđa theo Solvay cải tiến công nghệ sẽ gọn 
hơn và không phải đầu tư cho công đoạn nung vôi và tái sinh NH3 là 
hai công đoạn có chi phí đầu tư lớn và làm việc ở nhiệt độ cao. Nhưng 
nhà máy sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay cải tiến cần phải kết 
hợp với nhà máy sản xuất NH3 trong cùng một khu vực để có nguồn 
CO2 và NH3 phục vụ cho sản xuất sôđa, và cần có nguyên liệu là NaCl 
sạch bậc công nghiệp. 
Với phương pháp tuần hoàn dung dịch NaCl, cần phải bổ sung NaCl 
rắn có độ sạch yêu cầu theo các chỉ số sau: 
Hàm lượng NaCl ≥ 99,5% 
Tạp chất tan Mg2+ ≤ 0,1% 
 Ca2+ ≤ 0,02% 
 SO42- ≤ 0,19% 
Tạp chất không tan 0,03% 
Hiện nay muối NaCl thu từ các đồng muối nói chung không đạt chất 
lượng này, cần phải có biện pháp xử lý tiếp. Dự án của Tổng Công 
ty Muối Việt Nam đang triển khai ở một vài cơ sở đã cho phép sản 
xuất NaCl đạt chất lượng này. Vì vậy, vấn đề sản xuất muối NaCl rắn 
đạt chất lượng cho sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay cải tiến đã 
có cơ sở để triển khai. Nếu dùng NaCl chất lượng cao thì trong hệ 
thống sản xuất sôđa không cần công đoạn tinh chế nước muối như 
phương pháp Solvay truyền thống với nguyên liệu là muối công nghiệp 
hay nước muối bão hòa khai thác ngầm từ các mỏ muối dưới đất. Đầu 
tư cho xưởng làm sạch nước muối ở phương pháp Solvay cải tiến nhỏ 
hơn đầu tư cho bộ phận tinh chế muối thô thành muối tinh. Với thành 
phần tạp chất tan trong muối tinh chế nêu trên, sau quá trình amôn hóa 
và cácbonat hóa sơ bộ để tách NH4Cl thì các tạp chất này cũng bị tách 
theo, đảm bảo nước muối bão hòa cho giai đoạn kết tinh NaHCO3 có độ 
sạch yêu cầu. Do đó chất lượng sôđa tổng hợp không thay đổi khi dùng 
muối rắn NaCl vào sản xuất sôđa thay cho dung dịch nước muối sạch. 
2. Tình hình sản xuất sôđa tại Việt Nam 
Từ trước tới nay, nước ta chưa có sản xuất sôđa quy mô công nghệ ổn 
định. Hàng năm, nước ta vẫn phải nhập sôđa để phục vụ cho nhu cầu 
sản xuất thủy tinh, bột giặt và hóa chất, với số lượng nhập ngày càng 
tăng, từ 30.000 tấn những năm 1960 - 1970 lên 50.000 - 60.000 tấn 
những năm 1980 - 1990 và 100.000 - 120.000 tấn sau những năm 1990 
- 2000. 
Trong những năm sau ngày thống nhất đất nước, do nhu cầu tiêu thụ 
sôđa tăng nhanh, phải nhập nhiều sôđa và tiêu tốn nhiều ngoại tệ, nên 
Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam đã có chủ trương đầu tư nghiên cứu 
và sản xuất sôđa trong nước với quy mô ≤ 3.000 tấn/năm để khẳng định 
thiết bị và công nghệ do ta tự xây dựng ở 3 địa điểm khác nhau: Tràng 
Kênh - Hải Phòng, Nhà máy Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc, Văn Điển - 
Hà Nội, đều áp dụng phương pháp Solvay truyền thống. 
Các dự án đã thực hiện về sản xuất sôđa tổng hợp theo phương pháp 
Solvay truyền thống thường dùng nhiên liệu đốt lò là than antraxit Hòn 
Gai, thiết bị công nghệ chưa hoàn thiện nên các quá trình amon hóa và 
cacbonat hóa không liên kết được với nhau. Do đó, các chỉ tiêu kỹ thuật 
và kinh tế không đảm bảo, dẫn đến chất lượng sản phẩm sôđa thấp, chi 
phí nguyên nhiên liệu cao hơn định mức. Vì vậy các dự án không thu 
được kết quả mong muốn về chất lượng và kinh tế nên đã phải ngừng 
họat động. 
Nếu chúng ta đầu tư về mặt công nghệ và vật liệu chế tạo thiết bị thì có 
thể thực hiện quá trình tổng hợp sôđa theo phương pháp Solvay, nhưng 
phải qua một giai đoạn hoạt động mới có kinh nghiệm sản xuất. Để rút 
ngắn thời gian đào tạo và xây dựng đội ngũ kỹ thuật và quản lý ngành 
công nghiệp sản xuất sôđa, ta nên nhập công nghệ hiện đại của nước 
ngoài để xây dựng cơ sở đầu tiên sản xuất sôđa của Việt nam vào 
những năm đầu của thế kỷ 21 này, nhằm khai thác tài nguyên muối 
biển và đá vôi của nước ta phục vụ cho nhu cầu phát triển của các 
ngành công nghiệp khác trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại 
hóa nền kinh tế đất nước. 
3. Lựa chọn công nghệ sản xuất sôđa của dự án 
Chúng ta đã có tiền đề là sản xuất sôđa của Công ty Phân đạm và Hóa 
chất Hà Bắc những năm 1986 - 1988 theo phương pháp Solvay truyền 
thống, nhưng công nghệ có sự thay đổi: chuyển từ công nghệ sản xuất 
liên tục sang công nghệ gián đoạn, lấy muối rắn NH4HCO3 (thu được 
khi cacbonat hóa NH3) cho phản ứng trao đổi với dung dịch NaCl bão 
hòa đã làm sạch tạp chất như sau: 
NH4HCO3 + NaCl + H2O = NH4Cl + NaHCO3 
Bán thành phẩm NaHCO3 sẽ kết tinh tách khỏi dung dịch đặc, khi lọc 
tách thu được NaHCO3 rắn, sau đó cho kết tinh, lọc rửa và thu được sản 
phẩm sôđa. 
Trong dự án chọn phương pháp Solvay là phương pháp có nhiều kinh 
nghiệm và thực tế sản xuất trên thế giới với các lý do sau: 
- Dễ dàng cơ giới hóa và tự động hóa trong sản xuất, cho phép ổn định 
và nâng cao chất lượng sản phẩm sôđa công nghiệp. 
- Môi trường sản xuất ít độc hại, làm việc ở áp suất thường và nhiệt độ 
không cao nên dễ lựa chọn vật liệu chế tạo thiết bị sản xuất. 
- Có tính thương mại cao, dễ gọi đấu thầu, có nhiều khả năng lựa chọn 
về quy mô công suất và công nghệ tiên tiến mà các công ty quốc tế đã 
và đang chuyển giao ở nhiều nước trên thế giới. 
Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương pháp Solvay truyền thống 
là phải có bãi thải đủ lớn để chứa chất thải, tránh làm ô nhiễm môi 
trường đất và nước của các khu vực lân cận. Vì vậy, khi xét duyệt 
phương án sản xuất sôđa thì một vấn đề rất quan trọng là lựa chọn địa 
điểm xây dựng. Đây là vấn đề nhạy cảm gây tranh luận nhiều từ trước 
tới nay đối với phương pháp Solvay sản xuất sôđa. Với những nước đất 
rộng người thưa, vấn đề này dễ giải quyết. Nhưng các nước đất hẹp, 
người đông thì thường cần có đất canh tác nên đây là vấn đề khó giải 
quyết khi xây dựng dự án sản xuất sôđa. 
Việt Nam thuộc vào trong số những nước đất hẹp người đông, nên yêu 
cầu về bãi thải lớn là điều khó đáp ứng khi chọn địa điểm xây dựng nhà 
máy sôđa. Để giải quyết vấn đề này, một số nước trên thế giới đã 
chuyển công nghệ sản xuất sôđa theo Solvay từ tuần hoàn NH3 sang 
tuần hoàn NaCl. Khi đó không cần bãi thải vì chu trình công nghệ khép 
kín, nước lọc sau khi tách NaHCO3 được quay lại quá trình sản xuất. 
Sau khi được bổ sung 1 lượng NH3 và NaCl thích hợp, dung dịch vẫn 
đạt các chỉ tiêu công nghệ về hiệu suất chuyển hóa NaCl thành 
NaHCO3, sản phẩm sôđa đạt chất lượng yêu cầu. 
Phương án tuần hoàn NaCl (phương pháp Solvay cải tiến) cho phép kết 
hợp tốt sản xuất sôđa trong các liên hợp đạm để có nguồn NH3 và CO2 
cung cấp thường xuyên cho sản xuất sôđa. Phương pháp này đặc biệt 
thích hợp với những vùng không có nguyên liệu đá vôi. Tuy nhiên sản 
xuất sôđa theo phương pháp tuần hoàn NaCl đòi hỏi phải có NaCl công 
nghiệp. Nếu Nhà nước có chính sách đầu tư để nâng cao hiệu quả sản 
xuất muối biển, nhà máy sản xuất sôđa được xây dựng cũng sẽ góp 
phần thúc đẩy ngành công nghiệp muối biển của Việt Nam phát triển về 
mặt công nghệ và nâng cao hiệu quả kinh tế. 
Ở phương án sản xuất sôđa theo phương pháp tuần hoàn muối ăn, sẽ 
thu được 2 sản phẩm là sôđa và phân đạm NH4Cl có hàm lượng đạm 
cao hơn amoni sunphat (NH4)2SO4, có thể dùng để sản xuất phân hỗn 
hợp NPK với tỷ lệ N:P:K được điều chỉnh theo yêu cầu của từng loại 
cây trồng và vùng lãnh thổ. Cũng có ý kiến cho rằng, nếu thay 
(NH4)2SO4 bằng NH4Cl trong phân hỗn hợp NPK thì thiếu gốc sunphat, 
thừa gốc Cl, vậy có để lại hậu quả gì cho đất trồng trọt không? Vấn đề 
này đã được nhà nông học Đào Thế Tuấn trả lời trong những năm sáu 
mươi của thế kỷ vừa qua : khi bón thử nghiệm trên ruộng cấy lúa nước 
với cùng lượng đạm của 2 loại phân (NH4)2SO4 và NH4Cl thì cho sản 
lượng như nhau và độ chua của đất sau canh tác không khác nhau, 
chứng tỏ NH4Cl không có hậu quả gì cho đất canh tác lúa nước. 
Theo nhà nghiên cứu người Nga Tepango, NH4Cl là một loại phân đạm 
chứa tới 26,16% N2, cao hơn lượng đạm có trong (NH4)2SO4 (20,58 % 
N2) do đó có thể sử dụng NH4Cl để bón cho một số loại cây trồng với 
hiệu quả không thua kém (NH4)2SO4. Tuy nhiên, khi bón NH4Cl phải 
xem xét đối tượng cây trồng, loại đất canh tác, phương thức canh tác 
(trồng cạn hay nước) và cách bón. Vấn đề sử dụng NH4Cl đã được 
nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20 ở một số nước như Đức, Nga, Trung Quốc, 
nhưng loại phân đạm này chưa phổ biến vì các lý do sau: 
- Chưa nghiên cứu đầy đủ các đối tượng đất và cây trồng ở các phương 
thức canh tác khác nhau. 
- Giá đắt do quy mô sản xuất nhỏ 
- Độ sạch của NH4Cl cao, nếu dùng làm chất điện giải cho pin thì có 
hiệu quả kinh tế hơn là dùng làm phân bón. 
Các khảo sát một số loại cây trồng ở Đức và Nga cho thấy, khi 
bón NH4Cl cho cây thuốc lá, cây ăn quả, cây có củ thì chất lượng sản 
phẩm thu được kém hơn so với khi bón (NH4)2SO4. Nếu bón NH4Cl 
cho các loại cây khác trồng trên ruộng cạn (như cây có sợi, cây có dầu, 
rau các loại), kết quả thu được bằng và hơn so với khi bón (NH4)2SO4. 
Riêng tác dụng của NH4Cl đối với cây trồng ruộng nước thì chưa được 
khảo sát. 
Nguyên nhân của sự hạn chế dùng NH4Cl làm phân bón là ion Cl- bị 
giữ lại ở đất làm tăng độ chua của đất canh tác khi bón trên ruộng cạn. 
Có thể khắc phục bằng cách bón độn cùng CaCO3 nghiền (tỷ lệ 1 : 1) 
để đất không bị chua. Đây là vấn đề cần tìm hiểu kỹ và xem xét đến đặc 
điểm đồng ruộng và phương thức canh tác của Việt Nam. Với cây trồng 
chủ lực là lúa nước, ở Việt Nam không có các hạn chế như đối với canh 
tác trên ruộng cạn ở một số nước khác. Hơn nữa, trong sản xuất sôđa 
theo phương pháp Solvay cải tiến, khi tinh chế muối thì ion Ca2+ sẽ tách 
ra và lẫn vào sản phẩm NH4Cl ở dạng CaCO3 làm cho hiệu quả của 
phân cao hơn vì CaCO3 có tác dụng giảm độ chua của đất. 
Quá trình tổng hợp sôđa từ dung dịch NaCl bão hòa với amoniac và khí 
CO2 xảy ra có kèm theo các phản ứng tỏa nhiệt. Khi hấp thụ, một mol 
NH3 tỏa ra một nhiệt lượng là 496 cal. Phản ứng giữa CO2 với NH3 
cũng tỏa ra một lượng nhiệt là 34,5 cal/mol. Vì vậy, trong quá trình 
tổng hợp sôđa theo phưong pháp Solvay phải tiến hành làm lạnh dung 
dịch để hạn chế phân hủy muối amon cacbonat thoát ra khỏi dung dịch. 
Nhiệt độ tối đa cho phép của dung dịch muối amon là 65oC và phải 
khống chế ở nhiệt độ đó để đảm bảo quá trình amôn hóa và cacbonat 
hóa tạo được bán thành phẩm NaHCO3 tách khỏi dung dịch. 
Do sự hấp thụ NH3 xảy ra cách xa nồng độ cân bằng, nên nhiệt độ ít 
ảnh hưởng đến sự hấp thụ này. Trong khi đó, quá trình tách NaHCO3 
lại cần nhiệt độ thấp hơn để tăng hiệu suất kết tinh do khi đó độ hòa tan 
của muối NaHCO3 trong dung dịch giảm. Khi nhiệt độ giảm, độ hòa tan 
của NaHCO3 cũng giảm, do đó hiệu suất kết tinh tăng. Theo nghiên cứu 
của Phedorốp về quá trình tổng hợp sôđa, hiệu suất kết tinh NaHCO3 ở 
15oC và 30oC có khác nhau : ở 15oC là 78,8%, còn ở 30oC là 83,5%. 
Như vậy, nếu giảm nhiệt độ từ 30oC xuống 15oC thì hiệu suất tách 
NaHCO3 giảm 4,7%. Ngoài ra còn phải tiêu hao một lượng nhiệt làm 
lạnh khá lớn để hạ nhiệt độ dung dịch từ 30oC xuống 15oC. Hơn nữa, 
khi kết tinh ở nhiệt độ thấp thì chất lượng kết tinh không tốt do kích 
thước các hạt nhỏ, không đồng đều, rất khó lọc và rửa các tạp chất bám 
trên các hạt NaHCO3. Chính vì vậy nhiệt độ đầu ra của tháp kết tinh 
phải được duy trì ở 30 - 32oC để đảm bảo tốc độ kết tinh và kích thước 
các hạt tinh thể NaHCO3 đồng đều và lớn, dễ loại tạp chất bám theo, 
đảm bảo chất lượng Na2CO3 theo quy định. Do vậy, trong sản xuất sôđa 
ở các vùng khí hậu nhiệt đới, ôn đới hoặc lạnh người ta đều phải thực 
hiện quá trình kết tinh NaHCO3 ở 30 - 32oC. Ở những vùng khí hậu 
lạnh giá thì nhiệt độ môi trường và nước thường thấp, nhiệt phản ứng 
sẽ thoát ra môi trường nhiều hơn, vì vậy lượng nước làm lạnh có thể ít 
hơn so với những vùng khí hậu nhiệt đới, nhờ đó tiết kiệm được một 
phần năng lượng làm lạnh. 
Theo thống kê của tạp chí "Chemical Week" số 5/2002, hiện nay các 
nước Đông Nam Á không sản xuất sôđa khan hoặc sản xuất với sản 
lượng không đáng kể. Có ý kiến cho rằng, có thể là vì các nước này 
không có đá vôi hoặc do khí hậu nhiệt đới nóng bức không thuận lợi về 
mặt nhiệt động học cho quá trình phản ứng tổng hợp sôđa. Về mặt nhiệt 
động học, nhiệt độ ảnh hưởng đến cân bằng phản ứng thông qua hằng 
số cân bằng K. Ở phản ứng tỏa nhiệt thì K tăng khi nhiệt độ giảm, do 
vậy khi nhiệt độ giảm thì hiệu suất kết tinh tăng nhưng chất lượng tinh 
thể kém như trên đã nói, do vậy khi kết tinh phải duy trì nhiệt độ dung 
dịch thấp nhất là 30 - 32oC mới đảm bảo chất lượng tinh thể NaHCO3 
tạo ra, và phải chấp nhận tốc độ phản ứng thấp hơn một chút. Do đó các 
nước khí hậu nhiệt đới vẫn sản xuất được sôđa theo phương pháp 
Solvay. Ví dụ các nước khí hậu nóng bức như Kenya, Nam Phi hiện 
nay vẫn đang sản xuất sôđa với công suất mỗi nước đạt 300.000 tấn/ 
năm. Vì vậy, các nước Đông Nam Á chưa sản xuất sôđa không phải vì 
không có điều kiện khí hậu tốt để sản xuất sôđa theo phương pháp 
Solvay, mà vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác. 
Theo phương pháp Solvay cải tiến, có thể thu được 2 sản phẩm là sôđa 
và NHÂ4Cl làm phân đạm, do đó có thể mở rộng khả năng cung ứng 
NH4Cl cho cây lúa nước ở Việt Nam, hạn chế nhập khẩu (NH4)2SO4 để 
sản xuất phân NPK cho cây lúa. Một số cây công nghiệp và lúa nước có 
thể không sử dụng được những loại NPK với phân đạm có gốc SO42-. 
Vì vậy, nếu sử dụng NHÂCl làm phân đạm sẽ giảm được phần lớn 
lượng amon sunphát phải nhập để sản xuất NPK cho cây lúa nước ở 
Việt Nam. Do đó, dự án sản xuất sôđa của Việt Nam có thể đi theo 
hướng tuần hoàn NaCl; kết hợp sản xuất sôđa với nhà máy sản xuất 
phân đạm một cách thích hợp. 
Nhìn chung, phương án tuần hoàn NaCl có các điểm nổi trội hơn so với 
phương án tuần hoàn NH3 như sau: 
- Hiệu suất sử dụng nguyên liệu NaCl cao do phần NaCl không phản 
ứng được tuần hoàn trở lại chu trình sản xuất. 
- Công nghệ khép kín không có chất thải ra môi trường, hợp với xu thế 
phát triển công nghệ sạch của thế giới. 
- Số công đoạn sản xuất sôđa theo phương án tuần hoàn NaCl ít hơn so 
với phương án tuần hoàn NH3, do đó chi phí đầu tư ít hơn và có sức 
cạnh tranh lớn hơn vì giá đầu vào giảm so với tuần hoàn NH3 
- Có thể xây dựng nhà máy sôđa ở các vùng có những nguồn tài nguyên 
thích hợp, những nơi mà đất hẹp không có chỗ làm bãi thải nhưng vẫn 
sản xuất được sôđa theo phương pháp tuần hoàn NaCl. 
Về khí hậu, thủy văn, thì trong sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay 
các quá trình cacbonat hóa và amon hóa có thể được thực hiện ở nhiệt 
độ 60 - 65oC, chỉ có công đoạn kết tinh thực hiện ở 30 - 32oC cho 
những vùng khí hậu nhiệt đới. Ở những vùng khí hậu ôn đới hoặc lạnh, 
có thể kết tinh ở nhiệt độ 25 - 300C, song độ tan của NaHCO3 thay đổi 
không nhiều khi giảm từ 30oC đến 250C. Vì vậy, trong sản xuất sôđa ở 
các nước có khí hậu lạnh, về mùa đông người ta vẫn duy trì nhiệt độ kết 
tinh khoảng 300C để kết tinh tinh thể lớn dễ lọc rửa, khi đó hiệu suất 
chuyển hóa vẫn cao. Do đó, các nước Nam Á và Đông Nam Á như Ấn 
Độ, Việt Nam, các nước Châu Phi như Kenia,... vẫn có đủ điều kiện về 
khí hậu cho các quá trình sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay 
truyền thống hoặc Solvay cải tiến. 
III. KHẢ NĂNG THỰC HIỆN DỰ ÁN 
1. Khả năng tài nguyên 
1.1 Tài nguyên muối biển 
Nước ta có thuận lợi là vùng bờ biển dài dọc theo đất nước có khả năng 
tạo dựng các đồng muối để chế biến nước biển thành muối NaCl phục 
vụ cho dân sinh và công nghiệp. Hiện ở các đồng muối đã có, công 
nghệ chưa được đầu tư nhiều nhưng cũng đã sản xuất được muối cho 
dân sinh vượt yêu cầu. Nước ta hiện có 7 đồng muối quy mô vừa và 
nhỏ, tổng diện tích đạt 2000 ha, sản lượng khai thác đạt trung bình 
600.000-800.000 tấn/năm (năm 2002 đạt 750.000 tấn). Trong khi đó, 
nhu cầu dân sinh chỉ khoảng 300.000 - 400.000 tấn/năm. Nếu được đầu 
tư thêm khoa học và công nghệ thì các đồng muối có thể đạt công suất 
tới 1.000.000 tấn /năm. 
Tuy nhiên các đồng muối của nước ta chưa được đầu tư khoa học kỹ 
thuật nhiều, do đó chất lượng muối thấp, không đáp ứng yêu cầu đối 
với muối công nghiệp, hàm lượng NaCl chỉ đạt khoảng 92% - 96%, tạp 
chất nhiều, trong khi đó muối công nghiệp phải đạt các chỉ tiêu chất 
lượng sau: 
NaCl ≤ 98 - 98,3% 
Ca2+ ≤ 0,1% 
Mg2+ ≤ 0,2% 
SO42- ≤ 0,4% 
Chất không tan ≤ 0,2% 
Như vậy, để sản xuất sôđa chúng ta phải tinh chế muối thô thu được từ 
các đồng muối thành muối công nghiệp (có thể xuất khẩu một phần). 
Việc tinh chế này sẽ tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm NaCl của các đồng 
muối hiện có và những đồng muối mới xây dựng để phục vụ cho công 
nghiệp xút - clo và sôđa. Khi sản xuất mỗi tấn xút 92,0% sẽ cần khoảng 
1650 kg NaCl 100%, còn khi sản xuất mỗi tấn sôđa sẽ cần 1560 kg 
NaCl 100%. Vì vậy, sự phát triển sản xuất sôđa sẽ thúc đẩy ngành công 
nghiệp muối biển của Việt Nam phát triển cả về diện tích, sản lượng và 
chất lượng sản phẩm. 
Nếu xây dựng nhà máy sản xuất sôđa công suất 200.000 tấn/năm, nhu 
cầu muối công nghiệp phải đáp ứng là 350.000 tấn/năm. Như vậy, muối 
dân sinh dư hiện nay có thể biến thành muối công nghiệp được nếu có 
đầu tư không nhiều cho ngành công nghiệp muối biển. 
Hiện nay, hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu 300.000 – 500.000 
tấn muối cho các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng khác nhau (năm 2002 
nhập 300.000 tấn). Nhưng trong tương lai, chính phủ đang có kế hoạch 
phát triển đồng muối lên 10.000 ha vào năm 2010 và hiện đang xây 
dựng khu chế biến muối công nghiệp tại Quán Thẻ, Ninh Thuận, với 
diện tích 2.500 ha. Dự kiến, khu sản xuất muối công nghiệp Quán Thẻ 
sẽ hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng vào cuối năm 2003. Dây chuyền 
sản xuất muối ở đây áp dụng theo công nghệ tiên tiến là phơi nắng kết 
tinh dài ngày có bạt che mưa, bốc hơi phân đoạn, vận chuyển cơ giới 
liên hợp. Sản phẩm chính ở đây là 308.000 tấn muối chất lượng cao 
mỗi năm. Như vậy, cùng với những khu chế biến muối công nghiệp 
khác, trước mắt có thể đảm bảo cung cấp muối công nghiệp đáp ứng 
nhu cầu sản xuất sôđa. 
Để đảm bảo nguồn cung cấp muối công nghiệp về lâu dài, ngành 
CNHC cần phối hợp với Tổng công ty muối trong việc quy hoạch và 
phát triển các khu công nghiệp muối, đồng thời đầu tư máy móc thiết bị 
để nâng cao chất lượng muối công nghiệp, tiến tới chủ động khai thác 
và chế biến nước biển thành dung dịch muối bão hòa cho sản xuất sôđa 
và các sản phẩm hóa chất quan trọng khác. 
1.2 Tài nguyên đá vôi 
Tại nước ta, 125 tụ khoáng đá vôi đã được tìm kiếm và thăm dò, trữ 
lượng ước đạt 13 tỷ tấn, tài nguyên dự báo khoảng 120 tỷ tấn. 
Đá vôi Việt Nam tập trung chủ yếu ở phía Bắc, Bắc Trung Bộ nên có 
cung cấp cho các nhà máy sôđa truyền thống được xây dựng từ Bắc 
Trung Bộ trở ra. 
Đá vôi ở Bắc Sơn và Đồng Giao phân bố rộng và có tiềm năng lớn hơn 
cả. Tại Hải Dương, đá vôi được phân bố chủ yếu trong phạm vi giữa 
sông Bạch Đằng và sông Kinh Thày. Những núi có quy mô lớn như núi 
Han, núi Áng Dâu, núi Nham Dương đã được thăm dò tỷ mỷ. 
Tại Hải Phòng, đá vôi tập trung chủ yếu ở Trại Sơn và Tràng Kênh 
thuộc huyện Thủy Nguyên. Ngoài ra còn có những mỏ đá vôi phân bố 
rải rác ở Dương Xuân-Pháp Cổ, Phi Liệt, Thiếm Khê, Mai Động và 
Nam Quan. 
Đá vôi đôlômit tập trung ở dãy núi Han, các núi dãy Hoàng Thạch-Hải 
Dương, với trữ lượng lên tới 150 triệu tấn. Trữ lượng địa chất của khu 
vực Hải Phòng là 782.240 nghìn tấn cấp A+B+C. 
Còn phía Nam và Nam Trung Bộ thiếu đá vôi; nếu có cũng chỉ đủ cho 
sản xuất ximăng. Vì vậy, nếu sản xuất sôđa ở các tỉnh phía Nam thì 
phải có nguồn CO2 từ các khí công nghiệp thu hồi. 
Theo báo cáo của các nhà địa chất, đá vôi Việt Nam có tỷ lệ khoáng 
canxit (CaCO3) khoảng 90 - 96%, còn lại là các tạp chất SiO2, Al2O3, 
Fe2O3 ≤ 3%, MgCO3 ≤ 1%. Cụ thể tại một số mỏ như sau : 
Thành phần hóa học của đá vôi tại một số mỏ ở Việt Nam 
Hàm lượng (%) 
Mỏ 
CaO SiO2 Fe2O3 MgO Mất khi 
nung 
Tràng Kênh (Hải 
Phòng) 
55,44 0,2 0,48 0,4 41,36 
Chùa Trầm (Hà Tây) 55,33 0,23 0,1 0,41 43,28 
Núi Voi (Bắc Thái) 50,57 0,87 0,63 0,65 31,3 
Núi Nhồi (Thanh 
Hóa) 
53,4 0,8 0,65 1,21 43,5 
Diễn Châu (Nghệ An) 50,51 1,24 0,24 3,12 43,57 
Yêu cầu đối với đá vôi dùng cho sản xuất sôđa là hàm lượng tạp chất 
phải thấp, do đó thường phải chọn loại đá vôi có hàm lượng CaCO3 ~ 
96% làm nguyên liệu cung cấp CO2 và sữa vôi cho quá trình sản xuất. 
1.3 Tài nguyên khí 
Việt Nam có nguồn tài nguyên dầu khí phong phú mới được khai thác 
trong những năm gần đây với quy mô ngày càng tăng. Riêng về khí, trữ 
lượng ước tính khoảng 2000 - 3000 tỷ m3 khí tiêu chuẩn, bao gồm: khí 
thiên nhiên, khí đồng hành. Các mỏ dầu và khí phân tán ở nhiều vùng 
khác nhau. Năm 2002 đã hoàn thành hệ thống thu gom khí đồng hành 
của mỏ Bạch Hổ để cung cấp cho cụm công nghiệp Điện đạm Phú Mỹ 
với công suất khoảng 2 tỷ m3/năm, còn hệ thống thu gom khí thiên 
nhiên khu Nam Côn Sơn với công suất 2,7 - 3 tỷ m3/ năm đang chuẩn 
bị đưa vào hoạt động sẽ cung cấp chủ yếu cho Cụm công nghiệp Điện 
đạm Phú Mỹ và Cà Mau với tổng công suất 1500 MW và 1,5 triệu tấn 
urê/năm. Nhà máy đạm với công suất 800.000 tấn/ năm sẽ tiêu thụ 
khoảng 500 triệu m3 khí/ năm, còn nhà máy điện với công suất 720 
MW tiêu thụ khoảng 900 triệu m3 khí/ năm. 
Hai nguồn khí của chúng ta là khí thiên nhiên và khí đồng hành trong 
khai thác dầu mỏ đều có thể dùng làm nguyên liệu cho tổng hợp NH3. 
Khi sản xuất khí tổng hợp có thể lấy ra một phần khí CO2 để dùng cho 
sản xuất sôđa. Ở phía Bắc, sản lượng khí thiên nhiên khai thác còn thấp, 
trữ lượng công nghiệp chưa rõ. Nguyên liệu khí hiện nay tập trung chủ 
yếu ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, cũng có thể xây dựng các nhà máy 
sôđa ở miền Nam theo phương án không tái sinh NH3. 
Chúng ta có các nguồn khí cho phép sản xuất đạm từ nguyên liệu khí 
thay than, do đó sẽ có đủ NH3 cung cấp cho các nhà máy sản xuất sôđa 
tổng hợp không những theo phương pháp Solvay truyền thống mà cả 
theo phương pháp tuần hoàn NaCl, kết hợp sản xuất sôđa với sản xuất 
phân đạm NH4Cl để cung cấp cho nông nghiệp. Đối với nhà máy sôđa 
công suất 200.000 tấn/ năm theo công nghệ Solvay truyền thống, mỗi 
năm sẽ cần cung cấp 500 tấn NH3Â để bù vào lượng NH3 bị tiêu hao 
trong sản xuất. Còn nếu sản xuất 200.000 tấn sôđa/ năm kết hợp với sản 
xuất NH4Cl thì mỗi năm sẽ cần cung cấp khoảng 67.000 tấn NH3. 
2. Khả năng về khoa học kỹ thuật và lao động 
2.1 Tiềm năng về đội ngũ khoa học 
Hiện nay nước ta đã có một số trường Đại học đào tạo kỹ sư ngành 
Công nghệ hóa học, trong đó có ngành Kỹ sư các hợp chất vô cơ với 
chuyên ngành sôđa. Các trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đà Nẵng, 
Thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo được hàng ngàn kỹ sư công nghệ, 
những người đã và đang tham gia sản xuất tại các nhà máy. Các viện 
nghiên cứu hóa học, thiết kế thiết bị và công trình hóa chất có khả năng 
tiếp thu và tiếp nhận các tiến bộ kỹ thuật công nghệ và thiết kế chỉ đạo 
thiết bị. Cần tổ chức và tập hợp cán bộ các viện này lại trong một dự án 
sản xuất mới với công nghệ hiện đại và thiết bị tiên tiến. Các trường đại 
học, các viện nghiên cứu hiện có đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên 
cứu có trình độ để tiếp thu và vận dụng vào điều kiện Việt nam. Do vậy, 
dự án sản xuất sôđa sẽ là cơ hội cho các nhà khoa học thể hiện những 
kiến thức của mình trong chuyên ngành sôđa, số kỹ sư mới đào tạo có 
cơ hội phát huy trí tuệ tuổi trẻ năng động và sáng tạo. 
2.2 Tiềm năng cơ sở vật chất 
Về cơ sở vật chất, ngoài đội ngũ các nhà khoa học nước ta chưa có nhà 
máy sản xuất sôđa nào còn tồn tại tới thời điểm lập dự án này. 
Tuy nhiên, chúng ta đã có nhà máy sản xuất NH3 là cơ sở để có thể kết 
hợp sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay tuần hoàn muối NaCl 
thuận lợi hơn phương án tuần hoàn NH3. Trong những năm tới, nước ta 
sẽ xây dựng mới một số cơ sở sản xuất NH3, cho phép lồng ghép sản 
xuất phân đạm với sản xuất sôđa. Ngành sản xuất muối công nghiệp 
NaCl sẽ được đầu tư, còn khi các nhà máy đạm mới đi vào hoạt động 
thì sẽ có các nguồn cung CO2 và NH3 cần thiết cho sản xuất sôđa . 
2.3 Tiềm năng về đội ngũ lao động kỹ thuật 
Hiện tại chúng ta đã có đội ngũ công nhân vận hành tại một số nhà máy 
phân bón như Nhà máy phân đạm Hà Bắc, Nhà máy Supe phốtphát 
Long Thành, Công ty Supe phốtphát và hóa chất Lâm Thao, cũng như 
một số cơ sở sản xuất phân bón, hóa chất khác. Đây là đội ngũ công 
nhân được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm sản xuất hóa chất nói chung. 
Nhưng đối với sản xuất sôđa, chúng ta chưa có đội ngũ được đào tạo 
hoàn chỉnh, khi dự án được hình thành có thể tổ chức đào tạo chuyển 
đổi, sẽ không mất nhiều thời gian đào tạo nếu công nhân được thực 
tập tại cơ sở sản xuất sôđa ở nước ngoài. Khi nhà máy sôđa được xây 
dựng thì đội ngũ lao động kỹ thuật sẽ đáp ứng cả về số lượng và chất 
lượng nếu được đầu tư và có chủ trương chuyển đổi hoặc đào tạo mới. 
Trên cơ sở phân tích các tiềm năng của nước ta, có thể thấy dự án sôđa 
hoàn toàn có thể thực hiện được nếu Nhà nước có chính sách đầu tư 
thích đáng cho ngành sản xuất hóa chất cơ bản. 
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ KỸ THUẬT CỦA DỰ ÁN 
1. Quy mô công suất của dự án 
Nửa đầu thế kỷ 20, trên thế giới còn tồn tại một số nhà máy sản xuất 
sôđa với quy mô 100.000 tấn/năm. Sang nửa cuối thế kỷ 20, quy mô 
công suất 100.000 tấn/năm không còn tồn tại, nhà máy nhỏ nhất cũng 
có công suất 150.000 tấn/năm. Đến cuối thế kỷ 20, công suất nhỏ nhất 
cũng phải đạt 200.000 tấn/năm. Quy mô công suất lớn nhất hiện nay là 
khoảng 500.000 tấn/năm. Quy mô và suất đầu tư trên thế giới hiện nay 
như sau: 
Quy mô sản xuất (tấn/năm) 100.000 200.000 
Vốn đầu tư triệu USD 35 - 45 56 - 60 
Suất đầu tư USD/tấn 350 - 450 240 - 300 
Tuy nhiên, suất đầu tư mỗi nước có giá trị khác nhau tùy thuộc trình độ 
công nghệ và phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế khoa học 
kỹ thuật. Trong thập niên 1950 của thế kỷ 20, suất đầu tư của Mỹ cho 
nhà máy sôđa với quy mô 100.000 tấn/năm chỉ khoảng 52 - 60 
USD/tấn, nhưng đến năm 2000 suất đầu tư đã lên đến 400 USD/tấn. 
Còn ở Đức, vào thập niên 1950 suất đầu tư cho nhà máy sôđa quy mô 
200.000 tấn/năm là 46 - 50 DM/tấn, đến năm 2000 lên tới 350 - 360 
DM/tấn. Đối với Nga, trong thập niên 1950 suất đầu tư là 105 - 110 
Rúp/tấn, đến năm 2000 quy đổi ra USD đã lên đến trên 400 USD/tấn. 
So sánh quy mô công suất và suất đầu tư trên của Đức và Nga cho thấy, 
quy mô tăng 2 lần thì suất đầu tư giảm khoảng 35 - 36%. Như vậy, quy 
mô công suất nhà máy càng lớn thì suất đầu tư càng giảm, tuy nhiên 
quy mô sản xuất lại phụ thuộc nhu cầu tiêu thụ và thị trường vốn đầu tư. 
Quy mô lớn thì tổng vốn đầu tư cao mặc dù suất đầu tư thấp hơn. Vì 
vậy, trong dự án sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay nên chọn quy 
mô 200.000 tấn/năm. Đó là quy mô sản xuất phù hợp với nước ta trong 
giai đoạn 2003 - 2010, có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ trong nước và 
tiến tới xuất khẩu một lượng nhỏ trong khu vực nếu sản phẩm cạnh 
tranh được trên thị trường khu vực. Hiện nay giá bán sôđa là khoảng 
100 -105 USD/tấn đối với sôđa loại 1. 
2. Tính khoa học và công nghệ của dự án 
Công nghệ sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay là công nghệ tiên tiến 
hiện nay. Quá trình sản xuất xảy ra trong hệ nhiều thành phần và nhiều 
pha ở áp suất và nhiệt độ không cao, được phân chia thành các giai đoạn 
sau: 
- Chuẩn bị nguyên liệu ban đầu là NaCl và CO2 
- Tinh chế nguyên liệu 
- Kết tinh bán thành phẩm NaHCO3 sau khi cacbonat hóa dung dịch 
nước muối bão hòa chứa NH3. 
- Lọc rửa bán thành phẩm NaHCO3 và nhiệt phân để thu sản phẩm sôđa 
các dạng 
- Tái sinh NH3 hoặc xử lý nước lọc để tuần hoàn NH3 hay tuần hoàn 
NaCl trong sản xuất. 
Mức độ công nghệ như vậy là hoàn hảo trong ngành sản xuất sôđa. Còn 
tính khoa học của dự án được thể hiện ở kết cấu thiết bị và hệ thống 
điều khiển quá trình sản xuất trong từng công đoạn. 
Hệ thống kiểm soát sản xuất phải khống chế và điều chỉnh được lưu 
lượng các dòng vật chất dạng khí, lỏng và rắn, đảm bảo chế độ thủy 
động và chế độ nhiệt trong các thiết bị sản xuất bằng kỹ thuật điện tử số, 
điều khiển qua trung tâm chỉ huy và điều khiển. 
Các thiết bị sản xuất cần có kết cấu tối ưu cho năng suất cao nhất và 
làm việc bền trong môi trường NaCl. 
Hệ thống tinh chế nước muối phải có bể lắng liên tục, kết cấu hợp lý, 
tạo lớp lỏng ổn định đạt hiệu suất thu hồi cao. 
Hệ thống tháp cácbonat hóa cần có bề mặt tiếp xúc pha khí-lỏng lớn, làm 
việc ổn định, năng suất cao, kích thước gọn nhẹ, hệ số trao đổi nhiệt cao. 
Hệ thống nhiệt giải NaHCO3 ẩm là hệ thống có hiệu suất sử dụng nhiệt tốt; 
công suất cấp nhiệt lớn, nhờ đó năng suất thiết bị cao, kích thước gọn nhẹ. 
Đối với hệ thống phân ly chất rắn khi lọc rửa, sẽ chọn máy ly tâm để 
giảm độ ẩm của bán thành phẩm nhằm giảm tiêu hao nhiệt và năng 
lượng cho sôđa hồi lưu. 
Khi chưng cất hay làm lạnh kết tinh NH4Cl, hệ thống tái sinh tuần hoàn 
NH3 hoặc chế biến nước lọc phải tận dụng nhiệt ở mức tối đa để tiết kiệm 
năng lượng, giảm tiêu hao nguyên liệu và hóa chất xuống mức tối thiểu. 
Đối với máy nén khí nguyên liệu, việc dùng nhiệt năng thay cho điện 
năng sẽ làm giảm chi phí điện năng, tạo thế cạnh tranh cho sản phẩm. 
Vận chuyển sản phẩm NaCO3 theo đường ống bằng khí nén sẽ giảm tổn 
thất và đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định. 
Tính năng kỹ thuật của các thiết bị công nghệ phải đảm bảo cho dự án 
đạt trình độ khoa học tiên tiến và hiện đại trên thế giới hiện nay. Vì vậy, 
dự án đề nghị nhập ngoại nhà máy đầu tiên để sản xuất sôđa ở Việt 
Nam trong những năm tới đây. 
3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm 
Nếu dự án chọn công nghệ sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay cải 
tiến, tuần hoàn NaCl và kết hợp sản xuất sôđa với sản xuất phân đạm 
NH4Cl, thì giá thành của sôđa có thể giảm được do các yếu tố sau: 
- Tiết kiệm được khoảng 30% lượng NaCl tuần hoàn, do đó tiêu hao 
NaCl cho 1 tấn sản phẩm giảm từ 1,6 tấn khi tuần hoàn NH3 xuống còn 
1,2 tấn khi tuần hoàn NaCl. 
- Khí CO2 lấy từ quá trình tinh chế khí tổng hợp NH3 sạch hơn khí CO2 
thu từ lò vôi, giá thành khí CO2 này thấp hơn khí CO2 lấy từ lò vôi vì 
đây là khí tận dụng và không phải làm sạch bằng lọc điện như ở các lò 
vôi đốt bằng than. 
- Giảm được vốn đầu tư vào 3 giai đoạn là amon hóa, tái sinh NH3 và 
nung vôi. Vốn đầu tư của 3 công đoạn này chiếm khoảng 29 - 30% 
tổng vốn đầu tư, do đó khấu hao thiết bị giảm so với phương án tuần 
hoàn NH3. 
- Không phải xử lý chất thải trong sản xuất như phương án tuần hoàn 
NH3 nên giảm được chi phí xử lý môi trường trong sản xuất, nhờ đó 
giảm giá thành sản phẩm sôđa. 
- Sản phẩm phụ NH4Cl có thể dùng làm phân bón cho lúa nước nên sẽ 
gánh chịu một phần chi phí của dây chuyền sản xuất sôđa, nhờ đó chi 
phí sản xuất sôđa sẽ giảm. 
Với các yếu tố đã nêu, giá thành sôđa theo phương án tuần hoàn muối 
ăn sẽ thấp hơn so với giá thành sôđa sản xuất theo phương pháp Solvay 
truyền thống, vì vậy sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn so với sôđa 
sản xuất theo phương pháp tuần hoàn NH3 như ở một số nước. 
Với công nghệ Solvay truyền thống theo phương pháp tuần hoàn NH3 
như các nước đang thực hiện, các ưu điểm cạnh tranh là: chất lượng sản 
phẩm sôđa ổn định vì trên thế giới đã có 140 năm kinh nghiệm sản xuất, 
thiết bị đã được cải tiến nhiều, công suất thiết bị tăng, dẫn đến năng 
suất lao động tăng, giá thành hạ. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của 
phương pháp Solvay truyền thống là hiệu suất sử dụng nguyên liệu 
thấp : hiệu suất sử dụng muối ăn chỉ đạt dưới 75%, còn lại trên 25% 
NaCl phải thải bỏ. Lượng NaCl bị thải bỏ tuy có giá trị kinh tế không 
lớn, nhưng lại đặt ra một vấn đề lớn về môi trường : đó là phải có diện 
tích bãi thải đủ lớn để chứa chất thải trong sản xuất sôđa. 
Như vậy, nếu chọn phương án sản xuất sôđa theo công nghệ Solvay 
truyền thống thì mỗi năm chỉ cần bổ sung một lượng NH3 lỏng không 
lớn từ các nhà máy tổng hợp NH3, nhưng nơi sản xuất phải có bãi thải 
đủ lớn để chứa chất thải, phải có nguồn đá vôi chất lượng tốt và gần 
vùng nguyên liệu muối NaCl. Nếu phải đầu tư nhiều về khai thác vận 
chuyển nguyên liệu và thiết lập mặt bằng sản xuất lớn thì giá thành sẽ 
cao, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. 
4. Khả năng đảm bảo môi trường 
Sản xuất sôđa theo phương pháp Solvay truyền thống gây ô nhiễm môi 
trường do hai yếu tố sau: 
- Bộ phận sản xuất vôi và sữa vôi có các chất thải rắn như vôi sống, xỉ 
than 
- Sau khi tái sinh NH3 phải thải bỏ dung dịch muối, trong đó có NaCl 
và CaCl2 dễ dàng thẩm thấu vào đất làm cho đất xung quanh vùng thải 
bị nhiễm mặn và chai cứng, làm giảm độ phì của đất canh tác, gây 
nhiễm mặn nguồn nước sinh hoạt và canh tác. 
Vì 2 lý do đó, việc lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy sôđa theo 
phương án tuần hoàn NH3 sẽ gặp nhiều khó khăn. 
Trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam là nước nông nghiệp đất hẹp, người 
đông, khó có đất hoang hóa làm bãi thải, nên có thể chọn phương án 
tuần hoàn NaCl không có các chất thải lỏng và rắn như phương án tuần 
hoàn NH3, do đó sẽ thuận lợi hơn khi lựa chọn địa điểm xây dựng nhà 
máy sản xuất sôđa. 
Đặc biệt. tại những nơi đã có nhà máy phân đạm thì có thể xây dựng 
nhà máy sản xuất sôđa theo phương pháp tuần hoàn NaCl là công nghệ 
không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Đây cũng là công nghệ 
phù hợp với xu thế phát triển công nghệ sạch. Hiện nay, trên thế giới 
đang tập trung tìm kiếm các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm ngay tại 
nguồn gây ô nhiễm. Hơn nữa, nhu cầu nước làm mát cho các quá trình 
sản xuất theo phương pháp tuần hoàn NaCl nhỏ hơn vì không phải làm 
lạnh khí tái sinh NH3 bằng nước công nghiệp. 
Nếu chọn phương pháp tuần hoàn NH3 trong sản xuất sôđa tổng hợp thì 
phải có bãi thải cách ly với các khu vực canh tác và sinh hoạt xung 
quanh, ngoài ra cần đầu tư cho xử lý môi trường để đảm bảo an toàn 
cho sản xuất và dân sinh. 
5. Hiệu quả kinh tế xã hội của dự án 
Nếu dự án được thực hiện với quy mô 200.000 tấn/ năm, sản phẩm 
sôđa sẽ được cung cấp cho các hộ tiêu thụ công nghiệp như hóa chất, 
thủy tinh, hóa dầu, kim loại màu,.... Với công suất lựa chọn, sản lượng 
sôđa đến năm 2010 sẽ thỏa mãn nhu cầu các ngành công nghiệp trong 
nước. Vì vậy, dự án phải được thực hiện xong trước năm 2010. 
Nếu sản xuất dư thừa, một lượng sôđa không lớn có thể được xuất khẩu 
sang các nước trong khu vực, vì giá thành của sôđa trong dự án có tính 
cạnh tranh cao. Như vậy, hàng năm chúng ta sẽ tiết kiệm được khoảng 
15 - 20 triệu USD/ năm do không phải nhập sôđa công nghiệp. Ngoài 
ra, còn có khả năng thu thêm 5 - 10 triệu USD nhờ xuất khẩu sôđa cho 
các nước xung quanh. Hiện nay chúng ta phải mua sôđa của nhiều nước 
khác nhau với giá 130 - 135 USD/ tấn. Giá chào hàng sôđa theo 
phương pháp tuần hoàn NH3 hiện nay khoảng 100 - 105 USD/ tấn. Như 
vậy, sản xuất sôđa trong nước sẽ mang lại lợi nhuận khoảng 30 USD/ 
tấn và hàng năm dự án sẽ thu lợi do chênh lệch giá khoảng 6 triệu 
USD/ năm. Tổng cộng, cả tiết kiệm và sinh lợi của dự án hàng năm đạt 
khoảng 30 triệu USD cho một cơ sở sản xuât sôđa theo phương án tuần 
hoàn NH3 như các nước đang sản xuất, còn nếu sản xuất theo phương 
án tuần hoàn NaCl thì hiệu quả và doanh thu sản phẩm còn cao hơn. 
Ngoài ra, khi dự án sôđa hoạt động sẽ tiêu thụ được khoảng 250.000 
tấn NaCl công nghiệp, tạo việc làm cho nhiều diêm dân ở các cánh 
đồng muối từ Bắc vào Nam, và nếu tận thu được các hóa chất sau thu 
muối thì thu nhập của diêm dân còn cao hơn, đời sống diêm dân sẽ 
được cải thiện và nâng cao, khai thác được tài nguyên và sức lao động 
dồi dào của Việt Nam trong những năm tới. Dự án được thực hiện còn 
là nơi đào tạo cán bộ chuyên ngành sôđa của nước ta trong những năm 
tới, nơi vận dụng và sáng tạo của thế hệ trẻ Việt nam trong thế kỷ 21 
này. 
Như vậy, hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đã rõ mặc dù chưa đánh giá 
hết các mặt của dự án sản xuất sôđa của Việt Nam bằng phương pháp 
Solvay tuần hoàn NH3 hoặc tuần hoàn NaCl. 
V. ĐỊA ĐIỂM XÂY DỰNG DỰ ÁN 
Căn cứ các đặc điểm về khí hậu, giao thông, cơ sỏ hạ tầng, khả năng 
cung ứng nguyên liệu, khả năng tiêu thụ sản phẩm, dự án đề xuất các 
địa điểm sau : 
1. Địa điểm phía Bắc 
Phía Bắc chọn địa điểm là Nhà máy Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc cho 
phương án tuần hoàn NaCl với các lý do: 
- Có nguồn NH3 và CO2 thường xuyên vì sản xuất urê đòi hỏi phải có 2 
nguyên liệu này. Hiện tại CO2 đang dư thừa còn NH3 chỉ đủ cho sản 
lượng 130.000 tấn urê/ năm. 
- Có mặt bằng để mở rộng thêm mặt hàng sôđa mà trước kia đã làm, 
nay có thể khôi phục lại phần mặt bằng đó và mở rộng thêm cho phù 
hợp với quy mô dự án. 
- Có hệ thống giao thông thuận lợi: đường sắt, đường sông và đường 
bộ, lại gần các hộ tiêu thụ là các nhà máy thủy tinh hiện đang sản xuất 
tại Bắc Ninh. 
 Chỉ có nguồn nguyên liệu muối phải vận chuyển, nhưng theo 
đường sông hoặc đường sắt tới Hà Bắc cũng thuận lợi. 
- Do NH3 chỉ đủ dùng cho sản xuất urê 130.000 T/năm, nên muốn sản 
xuất sôđa theo phương án tuần hoàn muối ăn phải lấy một phần NH3 từ 
sản xuất urê sang sản xuất sôđa và chuyển NH3 đó về dạng phân đạm 
khác là amon clorua. Như vậy sản lượng đạm tổng hợp không thay đổi 
mà chỉ thay đổi dạng phân đạm từ urê sang NH4Cl phục vụ cho cây lúa 
nước. Hơn nữa, sản lượng urê Miền Bắc tối đa hiện nay cũng chỉ đạt 
150.000 tấn, đáp ứng 1/10 nhu cầu phân đạm của cả nước, do đó nếu có 
giảm sản lượng ở Miền Bắc thì đã có urê Miền Nam bù vào, vì năm 
2004 nhà máy Đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất với công suât 760.000 tấn 
urê/năm. 
Do vậy, có thể lựa chọn Hà Bắc là địa điểm thích hợp trong những năm 
trước mắt để sản xuất sôđa theo phương án tuần hoàn NaCl. Tuy khí 
hậu Miền Bắc không ổn định nhưng nhiệt độ bình quân trong năm thấp 
hơn miền Nam, giảm được lượng nước phải làm lạnh trong sản xuất 
sôđa. 
Còn nếu chọn phương pháp tuần hoàn NH3 thì phía Bắc phải chọn Hà 
Nam hay Thanh Hóa là những nơi có nhiều đá vôi và muối biển, có 
điều kiện xây dựng bãi thải ở những khu đất không canh tác nông 
nghiệp. 
2. Địa điểm phía Nam 
Về địa điểm xây dựng nhà máy sôđa ở phía Nam, nhà máy đạm Phú 
Mỹ sẽ đi vào hoạt động từ năm 2004 là nơi có điều kiện cung cấp CO2 
và NH3 cho sản xuất sôđa. Với công suất sôđa lựa chọn trong dự án thì 
lượng urê của Phú Mỹ sẽ giảm không đáng kể so với công suất thiết kế 
760.000 tấn/ năm. Phú Mỹ có lợi thế là gần nguồn nguyên liệu NaCl 
hơn so với phía Bắc, nhưng hiện tại nhà máy chỉ có đường bộ, việc vận 
tải muối cho sản xuất sôđa sẽ có khó khăn và sản phẩm sôđa xa các hộ 
tiêu thụ lớn hiện nay. Vì vậy, trước mắt chưa nên xây dựng nhà máy 
sản xuất sôđa tại Phú Mỹ, tại đây sẽ xây dựng cơ sở thứ 2 nếu sau năm 
2010 nhu cầu sôđa vượt quy mô của dự án. Điều kiện khí hậu của Phú 
Mỹ hoàn toàn đáp ứng cho sản xuất sôđa, nhưng nhiệt độ bình quân 
năm ở đây cao hơn Hà Bắc, nên sẽ phải tiêu tốn thêm nước làm lạnh. 
Nói chung, Phú Mỹ cũng thích hợp cho phương pháp tuần hoàn NaCl. 
Nếu lựa chọn phương pháp tuần hoàn NH3 thì phía Nam chỉ có khu 
Kiên Giang là thích hợp vì có đá vôi, còn các nơi khác do phải vận 
chuyển đá vôi từ xa đến nên hiệu quả sản xuất sẽ kém. 
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ AN TOÀN LAO ĐỘNG 
1. Thành lập Ban chuẩn bị dự án 
Để lập dự án tiền khả thi đưa ra Nhà nước phê duyệt, cần phải tập hợp 
một đội ngũ cán bộ của một số lĩnh vực như : công nghệ, quản trị kinh 
doanh, xây dựng, thiết kế công nghiệp hóa chất và quản lý môi trường. 
Sau khi dự án sơ bộ được bộ phận thông qua này, phải nhanh chóng 
chuẩn bị đầy đủ các nội dung của dự án tiền khả thi để chọn thầu hoặc 
mời thầu. 
2. Thành lập Ban quản lý dự án 
Khi dự án tiền khả thi được duyệt và chọn thầu thì Ban quản lý tổ chức 
các hình thức gọi thầu khác nhau như: xây dựng-kinh doanh-chuyển 
giao (BOT), liên doanh (JV), hợp đồng, hợp tác liên doanh (BCC) hoặc 
tự đầu tư tùy theo điều kiện và khả năng của chủ đầu tư. 
3. Tổ chức triển khai dự án và quản lý dự án 
Khi dự án được triển khai, muốn thực hiện tốt dự án thì giữa chủ đầu tư 
và chủ thầu phải có sự kết hợp nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện và chuẩn 
bị bàn giao dự án thông qua Ban quản lý dự án. Khi dự án hoàn thành thì 
bàn giao cho chủ đầu tư để khai thác dự án. Việc tổ chức triển khai dự án 
có ý nghĩa quan trọng đến thành công của dự án cả về lực lượng sản xuất 
trực tiếp cũng như cán bộ quản lý khai thác dự án: Quá trình triển khai 
dự án và đưa dự án vào hoạt động là nhiệm vụ của Ban điều hành sản 
xuất để tiến tới thành lập Công ty theo mô hình thích hợp với từng hình 
thức đầu tư. 
Ban điều hành dự án sẽ tổ chức các xưởng sản xuất cho từng bộ phận, 
tổ chức cán bộ kỹ thuật, công nhân vận hành và ban quản lý để xưởng 
hoạt động liên tục theo ca kíp và đảm bảo có sản phẩm cung cấp cho thị 
trường. Việc chuẩn bị lực lượng sản xuất phải tiến hành song song với 
qúa trình triển khai dự án, để khi dự án bàn giao cho sản xuất thì lực 
lượng sản xuất đã sẵn sàng tiếp nhận và hoạt động kinh doanh. 
4. Công tác phòng chống cháy nổ, độc hại trong sản xuất và biện 
pháp xử lý sự cố. 
Khi triển khai dự án, phải đề cập ngay vấn đề an toàn cho con người và 
thiết bị trong quá trình vận hành sản xuất. Bộ phận an toàn của dự án 
phải có đội ngũ chuyên môn hiểu biết về phòng chống cháy, dự trù các 
phương tiện phòng chống cháy, xây dựng các nội quy, quy trình vận 
hành đối với từng công đoạn và từng cương vị sản xuất trên dây truyền. 
Cần tổ chức cho cán bộ học tập và kiểm tra kết quả học tập trước khi 
làm việc ở các cương vị sản xuất khác nhau, có hồ sơ sổ sách theo dõi 
các vị trí nguy hiểm dễ gây tai nạn và có kế hoạch khắc phục, xử lý sự 
cố để sản xuất hoạt động trở lại một cách nhanh chóng. 
VII. KẾT LUẬN 
1. Do thực tiễn đòi hỏi và điều kiện khách quan của ngành hóa chất, 
cần phải có một dự án sản xuất sôđa công nghiệp với quy mô 200.000 
tấn / năm. 
2 Nên nhập một nhà máy sản xuất sôđa theo công nghệ Solvay, theo 
phương án tuần hoàn NaCl là tốt nhấtÂ, với công nghệ tiên tiến, thiết bị 
hiện đại để nâng cao hiệu suất sử dụng nguyên liệu và tận dụng nhiệt 
năng trong sản xuất. 
3. Về địa điểm xây dựng, có thể kết hợp nhà máy sản xuất sôđa trong 
khu liên hiệp phân đạm để sản xuất sôđa và phân đạm ổn định, có sức 
cạnh tranh trên thị trường. 
4. Để triển khai dự án có hiệu quả, cần tìm hình thức đấu thầu phù hợp 
cho phép thi công an toàn, đảm bảo chất lượng công trình và nhanh ổn 
định sản xuất. 
5. Phải chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ vận hành và quản lý dự án để sẵn 
sàng tiếp nhận và đưa vào hoạt động khi dự án được nghiệm thu toàn 
bộ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_6__5513.pdf luan_van_6__5513.pdf