MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm văn hiến có truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo. Học trước hết là để làm người và sau đó để góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ xa xưa, nhân dân ta có câu: “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là biểu hiện của tinh thần ham học hỏi, cầu thị. Văn bia ở Văn Miếu ghi rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao; nguyên khí suy thì đất nước yếu, mà càng xuống thấp”. Từ Việt Nam đi ra thế giới, hòa nhập vào đại dương trí tuệ của thời đại, Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa của nền giáo dục nhân loại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và từng bước xây dựng nền giáo dục mới. Sự cống hiến của Người về lý luận và thực tiễn giáo dục là vô giá, đem lại thành tựu và niềm vinh quang cho giáo dục Việt Nam, góp phần đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng một xã hội phát triển nhanh và bền vững. Nhiệm vụ cao cả của giáo dục là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, có phẩm chất đạo đức góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều “bất cập về khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục đại học đối với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và nhu cầu học tập của nhân dân”. Nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chưa cao, gây nhiều những vấn đề nhức nhối như: học giả bằng thật Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng và đạt hiệu quả cao trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực có trình độ là một đòi hỏi lớn đối với các trường đại học, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội X đã đề ra là: “Về Giáo dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [5,tr.34]. Một trong những giải pháp quan trọng là chúng ta cần nghiên cứu một cách sâu sắc hệ thống tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh và vận dụng có sáng tạo vào hoạt động giáo dục, nhất là vận dụng phương pháp giáo dục của Người vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Trước hết là những công trình sưu tập những bài nói, bài viết có tính chuyên đề giáo dục của Hồ Chí Minh như: Hồ Chí Minh - Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang, Nxb. Giáo dục, H, 1969; Hồ Chí Minh - Bàn về giáo dục, Nxb. Sự thật, H, 1975; Hồ Chí Minh - Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, H, 1980
Trước yêu cầu bức xúc trong giáo dục và đào tạo, nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác di sản tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Tiêu biểu có: Nguyễn Lân: Hồ Chủ tịch nhà giáo dục vĩ đại, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1990; Hà Thế Ngữ: Hồ Chí Minh với vấn đề dân chủ hóa nền giáo dục, Nxb. Giáo dục, H, 1990; Hà Huy Giáp: Làm công tác giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa thông tin, H, 1998; Song Thành: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2005; Ngoài ra phải kể đến nhiều bài viết trên các tạp chí như: Nguyễn Khánh Bật: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo, Tạp chí giáo dục, số 4 (tháng 5/2001); Bùi Đình Phong: tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục cách mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 11 (tháng 6/2004);
Những công trình này đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau với nội dung khá đa dạng về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhìn tổng thể trong tất cả các công trình trên, chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu về phương pháp giáo dục một cách đầy đủ, các công trình mới chỉ bàn đến một số khía cạnh nhất định, mà đây lại là vấn đề rộng lớn có ý nghĩa tác động trực tiếp đến vấn đề giáo dục và yêu cầu xã hội đòi hỏi.
2.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam
Các công trình đã được xuất bản như: Lương Gia Ban (chủ biên): Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Phạm Văn Đồng: Giáo dục - quốc sách hàng đầu, tương lai của dân tộc, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999; Phạm Ngọc Liên: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hoá người học, Thông báo khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1994; Nguyễn Văn Sơn: Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 Các công trình này đều nêu cụ thể, toàn diện tình hình và phương hướng đổi mới giảng dạy các môn lý luận chính trị các trường chuyên nghiệp nước ta. Tuy vậy, chưa có công trình nào quán triệt phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy đại học.
Do đó, nghiên cứu “phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay” vừa có ý nghĩa lý luận vừa thiết thực đối với công tác giáo dục đại học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn tập trung phân tích những nội dung phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học ở Hà Nội.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có nhiều vấn đề và nhiều nội dung. Trong khuôn khổ luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về phương pháp giáo dục trong tư tưởng của Người.
- Nghiên cứu thực trạng giáo dục các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về giáo dục.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; các phương pháp cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương như sau:
- Chương I: Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay.
- Chương II: Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tàiTình hình nghiên cứu của đề tàiMục đích và nhiệm vụ nghiên cứuPhương pháp nghiên cứu của đề tàiBố cục của đề tài
NỘI DUNG
Chương I: Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay
Một số khái niệm cơ bản
1.2. Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục
1.2.2. Phương châm giáo dục của Hồ Chí Minh
1.2.2.1. Giáo dục toàn diện
1.2.2.2. Lý luận gắn liền với thực tiễn; học đi đôi với hành
1.2.3. Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
1.2.3.1. Phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm đối tượng, gắn giáo dục vào ứng dụng nghiên cứu khoa học và sản xuất
1.2.3.2. Phương pháp giáo dục phải thiết thực cơ bản, gợi trí thông minh và tính sáng tạo của người học
1.2.3.3. Phương pháp đối thoại làm căn bản và lấy tự học làm gốc
1.2.3.4. Phương pháp cảm hóa thông qua tình cảm; thực hiện phê bình và tự phê bình
1.2.3.5. Phương pháp nêu gương; gắn giáo dục với thi đua
1.3.Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học
1.3.1. Yêu cầu khách quan
1.3.2. Yêu cầu chủ quan
Chương II: Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học hiện nay
2.1. Thực trạng chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học
2.1.1. Vài nét về tình hình giáo dục đại học của Việt Nam
2.1.2. Thực trạng về chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội
2.1. 2.1. Thành tựu
2.1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.2. Những giải pháp vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị ở các trường đại học hiện nay
Nâng cao chất lượng nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
Nâng cao chất lượng nội dung chương trìnhCải tiến phương pháp giảng dạyNâng cao trình độ chuyên môn, trình độ sư phạm của đội ngũ giảng viênĐổi mới công tác tổ chức, điều hành quản lý hệ thống các trường đại học
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
84 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3801 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổ chức quản lý. Còn có những nguyên nhân khác như: Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có phần làm suy giảm niềm tin chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản; Mặt trái của cơ chế thị trường và những tiêu cực trong bộ máy Nhà nước cũng làm giảm nhiệt tình, hứng thú trong việc học tập các bộ môn Mác - Lênin; Giữa lý luận và thực tiễn không thuận chiều là một trở ngại lớn cho việc nâng cao chất lượng và giảng dạy bộ môn khoa học Mác -Lênin; Tuy nhiên những yếu kém, bất cập trong giảng dạy lý luận Mác - Lênin chủ yếu là do nhận thức không đúng về vị trí, vai trò của các môn khoa này trong kết cấu nội dung chương trình học tập của sinh viên. Cho đến nay, ở rất nhiều trường đại học có không ít người cho đây chỉ là môn học phụ, nên không coi trọng. Trong hệ thống các trường dân lập, bán công thì nhận thức này lại càng rõ nét, ở đây lại chưa hình thành tổ bộ môn, khoa Mác - Lênin, mà chủ yếu mời giảng viên các trường khác, các trung tâm khác nên cũng không quản lý được nội dung và chất lượng giảng dạy, mà chỉ nắm sinh viên qua kết quả thi. Chất lượng nhận thức về vai trò của lý luận chính trị trong hệ thống các môn học của các sinh viên không cao.
Thực tiễn cho thấy, kết quả học tập phụ thuộc vào sự tương tác giữa người học và người dạy. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học các môn lý luận cần phải tạo ra sự đồng điệu giữa người dạy và người học, đổi mới cả nội dung và phương pháp giảng dạy, trong đó đổi mới phương pháp giảng dạy giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị ở bậc đại học hiện nay.
Những giải pháp vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay
Trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen, nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các biện pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay”. Gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra công văn số 11381/BGĐT-ĐH&SĐH về việc hướng dẫn giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh năm học 2006 - 2007 trong đó yêu cầu: “Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc đại học thành quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng viên, ứng dụng mạnh mẽ các phương tiện hỗ trợ và công nghệ thông tin, chấm dứt tình trạng “đọc - chép” trên giảng đường đại học…Trong năm học 2006 - 2007, thực hiện 50% thời gian môn học dành cho lên lớp và 50% thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu”.
Như vậy, có thể nói việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị ở nước ta là một yêu cầu khách quan xuất phát từ mục đích, yêu cầu và thực tiễn việc dạy học các môn học này bậc đại học ở Hà Nội trong thời gian vừa qua.
Một trong những yếu tố nâng cao chất lượng giảng dạy là đổi mới phương pháp. Việc xây dựng những giải pháp khả thi nhằm vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị là việc làm có ý nghĩa cấp bách về lý luận và thực tiễn. Những giải pháp cần thực hiện là:
Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
Đổi mới nội dung chương trình
Một trong những vấn đề cơ bản của lý luận dạy học hiện đại là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục, phát triển, hay nói cách khác là trang bị tri thức, hình thành kỹ năng, phương pháp học tập, nghiên cứu nhằm xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan, bồi dưỡng phẩm chất cho người học thông qua quá trình dạy học. Đó là mối quan hệ giữa dạy chữ và dạy người, giữa “hồng” và “chuyên” trong quá trình dạy học. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra cho chúng ta phương hướng và giải quyết đúng đắn vấn đề trên. Người đã nói: nhiệm vụ giáo dục quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội.
Nội dung dạy học bao giờ cũng phải phục vụ cho một mục đích giảng dạy nhất định. Chế độ khác thì giáo dục cũng phải khác. “Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn có những yêu cầu cụ thể của nó. Vì vậy, chương trình, nội dung, tài liệu học tập cũng phải thay đổi cho phù hợp”. Người lại chỉ rõ, “huấn luyện chính trị môn nào cũng phải có. Nhưng phải tuỳ mỗi môn mà định nhiều hay ít. Thí dụ cán bộ chuyên môn về y tế, về văn nghệ …thì ít hơn. Cán bộ về tuyên truyền, tổ chức…thì phải nghiên cứu chính trị nhiều hơn”.
Như vậy, nội dung chương trình phải phong phú, toàn diện, phải bao gồm lý luận Mác - Lênin, chính trị, thời sự, văn hoá, chuyên môn và nghiệp vụ. Mỗi ngành nghề phải học tất cả các môn trên nhưng tuỳ theo đặc điểm nghề nghiệp và trình độ của từng người mà nghiên cứu nhiều hay ít về từng môn.
Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc, tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới…Phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành tương đối hoàn chỉnh. Đối với các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phải phù hợp với trình độ đại học vừa phải cân đối với chương trình đào tạo. Nội dung chương trình không nhất thiết phải rộng, mà cần đi theo các chuyên đề sâu, đặc biệt là phải được cập nhật những tri thức mới, bảo đảm cho sinh viên am hiểu được sâu sắc kiến thức. Như môn triết học cần thay đổi, bổ sung tri thức mới được nghiên cứu về triết học mở, Lịch sử Đảng phải cập nhật thường xuyên qua từng năm Đảng lãnh đạo, Kinh tế chính trị phải dựa vào những văn kiện Đảng, v.v..
Nội dung chương trình phải lấy những tài liệu về “chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc” nhưng phải “lựa chọn, sắp đặt lại” cho phù hợp với trình độ người học. Ngoài những tài liệu về lý luận chính trị, theo Hồ Chí Minh “kinh nghiệm do người học mang đến” đều là “những tài liệu thiết thực” cần trao đổi, gom góp lại. Một nội dung không kém phần quan trọng phải được xếp trong chương trình học tập, đó là “những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của đoàn thể và Chính phủ” liên hệ với thực tiễn công tác đào tạo không phải lúc nào chúng ta cũng làm tốt vấn đề này, nhất là nghiên cứu, học tập các nghị quyết của Đảng.
Tuy nhiên đối với các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng nội dung chương trình, giáo trình không phải là công việc dễ làm và không thể tuỳ tiện. Bởi vì nội dung chương trình các môn lý luận chính trị phụ thuộc nhiều vào yếu tố: sự phát triển về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, sự tổng kết thực tiễn, đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá,…việc đánh giá tình hình thế giới, các nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng, mỗi thời kỳ lịch sử có mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau, để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi trên từng lĩnh vực, từng ngành, thì công tác đào tạo cũng phải bám sát yêu cầu thực tiễn.
Những tư tưởng trên của Người đã gợi ý cho chúng ta hướng giải quyết việc bố trí, sắp xếp các môn học, cấu tạo chương trình, nội dung các môn học. Đó là phải học tập lý luận Mác - Lênin, chính trị, thời sự, chính sách, văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp; và phải đặc biệt chú ý lựa chọn những tri thức lý luận chính trị một cách thiết thực, sát hợp với từng đối tượng, từng loại trường đại học và thích hợp với nhu cầu trước mắt và lâu dài của của sự nghiệp giáo dục.
Đổi mới phương pháp giảng dạy
Đổi mới phương pháp giảng dạy để có thể truyền tải nội dung đến người học một cách tốt nhất. Phương pháp giảng dạy truyền thống, truyền thụ một chiều không còn đủ khả năng truyền tải một khối lượng chương trình ngày càng lớn với tốc độ thay đổi và đòi hỏi của thực tiễn ngày càng mạnh. Vì thế để giải quyết được vấn đề trên, quan trọng và then chốt là phải áp dụng phương pháp giảng dạy thích hợp nhằm tạo nên phong cách “làm việc mới” của sinh viên. Hay nói cách khác, mục tiêu giảng dạy ở đại học là phát triển tri thức và tư duy cho sinh viên; khả năng hiểu biết và đánh giá vấn đề; các kỹ năng giải quyết tình huống; khả năng phân tích và nhận biết các mối quan hệ trong kiến thức đã học một cách sâu sắc hơn. Giảng viên cung cấp cho sinh viên phương thức nghiên cứu, sáng tạo và độc lập suy nghĩ trong quá trình học tập.
Nói đến học tập lý luận thì khâu cơ bản nhất vẫn là bài giảng của giảng viên và việc đọc tài liệu của sinh viên. Bài giảng cần có chất lượng, nghĩa là làm sao cho đủ những tri thức cơ bản, sâu sắc những vấn đề cần phân tích thêm và làm sao cho hấp dẫn đối với người nghe. Như vậy là đòi hỏi giảng viên phải đảm bảo cả kiến thức và phương pháp sư phạm để truyền tải tri thức. Còn đối với người học, ngoài nghe giảng, phải đọc thêm nhiều tài liệu, ít ra là những tài liệu tối thiểu, bắt buộc mà chương trình học đề ra, tránh tình trạng chỉ dựa vào những điều ghi chép được khi nghe giảng và giáo trình.
Thứ nhất, học đi đôi với kết hợp nghiên cứu khoa học và ứng dụng thực tiến.
Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh về lý luận liên hệ thực tiễn, học đi đôi với hành, theo tôi trong quá trình giáo dục tăng cường cho sinh viên tiếp cận nghiên cứu thực tế, xây dựng phương pháp luận khoa học và niềm tin vững chắc vào các bộ môn lý luận chính trị. Sinh viên được giảng viên hướng dẫn kỹ năng học lý luận, hiểu sâu và nắm chắc kiến thức lý luận cơ bản, dần dần tự bản thân giải quyết những vấn đề từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Không nên tuyệt đối hoá lý luận, mà giảng viên khéo léo xen kẽ những dẫn chứng cụ thể, kết hợp hài hoà những phương pháp khác để sinh viên nắm vững lý luận và thực tiễn.
Giáo dục của các trường phải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một nguyên tắc xây dựng nền giáo dục, vừa là đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả giáo dục phục vụ sản xuất và đời sống. Vì vậy, các trường cần chú ý giáo dục khả năng lao động, gắn kiến thức học với ngành nghề sản xuất, từ đó tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên sau này.
Phát triển giáo dục đi đôi với tạo điều kiện nghiên cứu khoa học và cơ chế học tập suốt đời là yếu tố quan trọng để tạo ra một xã hội học tập. Việc học không chỉ đối với người được giáo dục mà cả những người làm công tác giáo dục cũng phải học liên tục, nâng cao lý luận và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ hai, lấy người học làm trung tâm
Trong xã hội hiện đại, chúng ta đang và sẽ còn đứng trước những mâu thuẫn sau: khối lượng tri thức cần chuyển tải đến người học thực sự là khổng lồ nhưng khung thời gian cho chương trình đào tạo là có hạn. Một bên là tri thức luôn luôn mở và luôn được nạp thêm khối lượng tri thức đã khổng lồ và ngày càng khổng lồ thêm. Các môn đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cũng vậy. Ngày càng có nhiều khoa học liên ngành, đa ngành. Xã hội càng phát triển thì các môn khoa học càng xâm nhập, giao thoa nhau, đồng thời càng có xu hướng tách riêng với tư cách là một chuyên ngành.
Để giải quyết mâu thuẫn trên, không phải là cứ tăng số tiết học và tăng số môn học lên mà là ở chỗ cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập. Phương pháp này lấy người học làm trung tâm. Đối với một số môn, một số bài chỉ cần giới thiệu những ý chính, đi sâu vào một vài vấn đề, nêu lên quy định sách và tài liệu bắt buộc phải đọc, để học viên tự thu hoạch, tự nêu cách xử lý tình huống, v.v..Trong thời gian được giáo dục những bộ môn lý luận chính trị, sinh viên phải được trang bị về phương pháp tiếp nhận lý luận, vận dụng và xử lý thực tiễn để làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.
Thứ ba, cải tiến cách tổ chức lớp học và phương pháp giảng dạy
Để có phương pháp giảng dạy hiệu quả, cần thiết phải cải tiến phương thức đào tạo và hình thức tổ chức học tập của sinh viên. Có nhiều mô hình tổ chức học tập phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của sinh viên. Tạo thời cơ để sinh viên tiếp cận, có điều kiện tỏ rõ quan điểm của mình. Trong đó có thể kể đến các hình thức học tập: học theo nhóm, theo tổ, tham quan thực địa, thâm nhập thực tế, xêmina…Các hình thức học tập trên giúp sinh viên xây dựng kỹ năng nói, kỹ năng viết, rèn luyện nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng tác phong học tập thiết thực và có hiệu quả cao. Một số trường đã mạnh dạn áp dụng phương thức đào tạo tín chỉ, tạo thế chủ động trong kế hoạch học tập của sinh viên.
Đối với quá trình dạy học các môn lý luận chính trị, giảng bài là một khâu cơ bản và quan trọng. Trước đây nó được coi là khâu đầu của quá trình giảng dạy, còn hướng dẫn tự học là việc phụ thuộc, có cũng được, không có cũng được, nhiều thầy cô không chú ý.
Hiện nay cần thực hiện khâu giảng bài sau khâu hướng dẫn tự học bài trước khi nghe giảng. Và lựa chọn phương pháp giảng dạy như thế nào để không làm giảm hoặc “triệt tiêu” tính tích cực tự học của sinh viên, mà tạo ra thêm những tiền đề để học tốt hơn. Qua sự kế thừa kinh nghiệm thực tế, dựa vào sự phân hoá nhu cầu của người học và những cơ sở sinh học, tâm lý học, thì để có một buổi giảng tích cực với chất lượng cao và hiệu quả cần phải có những điều kiện, những thao tác chủ yếu sau đây:
- Lượng sinh viên, học viên trong buổi học chỉ nên trong khoảng 30 đến 50 người. Điều này đặt ra cần phải có đủ giảng đường và kiên quyết sớm khắc phục bài giảng theo kiểu mít tinh. Số lượng này tạo thuận lợi cho việc sử dụng các phương tiện như bảng, biểu, đèn chiếu cũng như cho phép giảng viên áp dụng các phương pháp kết hợp trong giờ giảng.
- Thời lượng của một buổi giảng chỉ nên là 3 đến 4 tiết, nếu kéo dài hơn, những tiết sau cả thầy và trò thường căng thẳng, mệt mỏi, kém hiệu quả, cần thay thế bằng môn học khác.
- Phương pháp tốt nhất thực hiện các tiết giảng là huy động tính tích cực của người học, tạo hưng phấn với cường độ cao, bầu không khí hấp dẫn mọi người tham gia trong giờ giảng.
- Cần có quy trình của các thao tác trong mỗi tiết giảng và cả buổi giảng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Thầy cô nên ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng để thêm sinh động, thu hút, sinh viên sẽ tiếp thu nhanh và nhớ lâu hơn so với việc chỉ nói suông. Chính thầy cô là người tạo không khí thoải mái cho lớp học bằng những câu chuyện trong cuộc sống, những câu hỏi... vừa kích thích sự động não vừa giúp sinh viên ứng dụng kiến thức vào thực tế”.
Thứ tư, kết hợp tổ chức các hình thức phụ khoá, ngoại khoá
Đây là phương pháp học tập bổ sung kiến thức, chứng minh và làm phong phú, sâu sắc hơn cho bài giảng trên lớp mà trong khi giảng bài không thể thực hiện được. Phương pháp này là một khâu cần thiết, quan trọng và hầu như nhiều môn học đều thực hiện.
Những hình thức phụ khoá, ngoại khoá là những phương pháp hữu hiệu để thực hiện những nguyên lý, nguyên tắc giảng dạy: kết hợp học với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nhà trường gắn với xã hội ngay trong quá trình học.
Trên một ý nghĩa nào đó, việc thực hiện khâu này là cơ hội để ứng dụng những thành tựu kỹ thuật mới, hiện đại vào quá trình giảng dạy, nhất là thời gian gần đây, nhiều trường đã trang bị những phương tiện tối thiểu cần thiết cho các khoa, bộ môn Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh như: ti vi, đầu video, băng cát sét, đĩa CD, VCD, DVD, máy vi tính, máy chiếu đa năng…
Thực hiện được các hình thức phụ khoá, ngoại khoá là một trong những biểu hiện quan trọng của việc nâng cao phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại hoá, đặc biệt với các môn lý luận chính trị lâu nay vẫn bị coi là “khô khan”, khắc phục tình trạng giảng viên chỉ dừng ở bục giảng. Làm tốt khâu này sẽ bổ sung được lượng kiến thức mới phong phú, làm tăng thêm sức hấp dẫn của môn học, và cuối cùng tạo ra sự chuyển biến vững chắc từ kiến thức thành năng lực và phẩm chất nhân cách.
Một số hình thức phụ khoá, ngoại khoá cụ thể cần thực hiện bao gồm:
+ Nghe báo cáo thực tế chuyên đề;
+ Tổ chức tham quan, khảo sát theo chuyên đề;
+ Tổ chức câu lạc bộ theo chuyên đề;
+ Tổ chức chiếu phim tư liệu theo chuyên đề.
Thứ năm, lấy tự học làm gốc và chú trọng thảo luận chuyên đề (xêmina).
* Lấy tự học làm gốc: Về ý nghĩa, cần xác định đây là một khâu cơ bản trong quy trình giảng dạy. Dựa vào quan niệm giảng dạy, trước hết phải dạy cho người học về cách học, tức là phương pháp tự học. Nhờ đó, người dạy và người học thống nhất về phương pháp tiếp cận môn học, đặc biệt giúp người học đỡ lúng túng, bỡ ngỡ, mò mẫm, dẫn tới chán nản. Hướng dẫn tự học, một mặt vẫn khẳng định vai trò chủ đạo của người dạy, “không thầy đố mày làm nên”, đồng thời mặt khác quy trình giảng dạy tạo tiền đề phát huy tính tích cực, năng động, tự chủ của người học.
* Chú trọng thảo luận chuyên đề (xêmina): Xêmina theo chuyên đề các môn lý luận chính trị phải là hình thức mới, nó được coi là khâu quan trọng, bắt buộc trong quá trình giảng dạy và quy định thời gian chính khoá nằm trong chương trình môn học. Nhưng như phần thực trạng đã phân tích, nhiều bộ môn không thực hiện. Nếu có thực hiện thì chất lượng, hiệu quả thấp.
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đối với các môn lý luận chính trị, xêminna cần được khẳng định là một khâu cơ bản và khó có hình thức, phương pháp nào có thể thay thế. Vấn đề là đổi mới phương pháp này như thế nào để có chất lượng, hiệu quả?
Khâu này cần được thực hiện sau khi đã làm bài tập, sau các hình thức học phụ khoá, ngoại khoá nhằm có lượng thông tin mới, phong phú cả về lý luận và thực tiễn vượt ra ngoài nội dung giảng bài của giáo viên. Không có tiêu đề này thì việc tổ chức xêmina sẽ rất hiệu quả.
Vị trí, ý nghĩa của xêmina là kết hợp giải quyết một vấn đề nội dung cụ thể có phương pháp và rèn luyện phương pháp tư duy khoa học cho người học, tập cho sinh viên chuẩn bị những thao tác nghiên cứu khoa học thuộc môn học như xây dựng đề cương, thu thập, xử lý thông tin, tập rèn dũa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết về một vấn đề của môn học.
Việc tổ chức xêmina thường ít hiệu quả vì người hướng dẫn thực hiện phương pháp chỉ là “hội” mà không “thảo”. nói chung là chỉ định một số người đọc những bản chuẩn bị viết sẵn, còn những người khác thường phân làm ba loại: Một số chú ý lắng nghe; một số nói chuyện riêng, còn lại chú ý vào bài chuẩn bị của mình để chờ đến lượt chỉ định; số khác mở tài liệu, báo, tạp chí ra đọc. Nội dung các bài phát biểu lặp lại bài giảng. Còn thầy giáo lại giành thời gian “bổ sung” kiến thức. Nói chung không khí tẻ nhạt. Để khắc phục những hạn chế trên, giảng viên hướng dẫn xêmina phải biết thu hút, lôi cuốn mọi người cùng tham gia, huy động tính tích cực tham gia và sự bày tỏ chính kiến riêng của sinh viên. Cần có sự chuẩn bị thật công phu cho một buổi xêmina cả về tổ chức và nội dung. Nêu vấn đề ra trước để mọi người chuản bị và phân chia ra thành những câu hỏi nhánh, chi tiết, chia nhóm, tạo không khí tranh luận giữa các nhóm sinh viên. Giảng viên tổng kết, đánh giá những ý kiến đúng, sai, biểu dương động viên những người học tích cực phát biểu, gợi mở những vấn đề cần nghiên cứu…
Thứ sáu, hướng dẫn sinh viên học tập, ôn tập học phần và thi hết môn
* Hướng dẫn sinh viên học tập: Sinh viên cần tập trung cao độ trong quá trình nghe giảng trên lớp. Mỗi sinh viên phải tự xác định mình là thành viên tích cực, chủ động để không rơi vào tình trạng tiếp thu một chiều, coi giảng viên là “máy phát”, coi mình là “máy thu”.
Sinh viên cần tham gia tích cực vào công việc xây dựng giờ học tốt bằng cách trả lời những câu hỏi của giảng viên đưa ra. Sinh viên trả lời sai hay đúng không quan trọng mà điều cốt yếu là tạo khả năng tiếp cận vấn đề; chủ động trong quá trình nhận thức; tự tạo niềm say mê hứng thú học tập của giảng viên. Tập trung nghe giảng của sinh viên ở trên lớp giúp sinh viên ghi nhận được những kiến thức sau giờ giảng.
Sau khi học một bài, một chương, sinh viên cần tạo thói quen lập đề cương, dàn ý theo cách hiểu của mình. Với phương pháp này sinh viên luyện cho mình được cách ghi chép, cách phân tích và học được nó theo một hệ thống mới, nghĩa là học được phương pháp xử lý và trình bày thông tin khoa học. Phương pháp này giúp cho sinh viên hiểu kỹ, hiểu sâu những điều đã học, biết vận dụng chúng để thực hiện có kết quả công việc, hình thành kỹ năng tìm tòi các phương án tối ưu để giải quyết các loại bài tập lý thuyết và thực tế.
Sinh viên cần tích cực, chủ động tham gia vào các cuộc thảo luận chuyên đề, các buổi xêmina và tiếp cận các vấn đề liên quan. Với việc tham gia các hoạt động trên sẽ hình thành trong mỗi sinh viên thói quen quan tâm đến môn học, nảy sinh suy nghĩ về tầm quan trọng của môn học, tạo hứng thú học tập, mở mang kiến thức…
Với việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng, sinh viên nắm bắt được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới, trong nước và địa phương, qua đó có cái nhìn tổng quát khách quan.
Bên cạnh đó việc trao đổi kiến thức, tranh luận với bạn bè về những vấn đề liên quan cũng rất có ý nghĩa mang lại hiệu quả nhất định. Sau khi nghe giảng trên lớp, sinh viên có thể đọc thêm và thảo luận về các vấn đề còn vướng mắc, từ đó có thể tự rút ra được kết luận cần thiết. Đây là phương pháp mà mỗi cá nhân, bằng trí tuệ, kiến thức đã có, bằng năng lực và sự sáng tạo của mình đóng góp vào việc học tập các môn lý luận chính trị. Mỗi sinh viên tự biến mình thành những cá nhân tích cực, chủ động, đồng thời phương pháp này giúp sinh viên nhớ lâu, nhớ sâu vấn đề cần trao đổi.
Sinh viên phải thường xuyên tự nghiên cứu tài liệu trước và sau khi lên lớp và phải coi trọng sự thống nhất giữa lý thuyết và thực hành.
Nghiên cứu tài liệu trước khi lên lớp và tự tạo tâm thế cho mình trong quá trình học tập.
Cách học này nằm trong phương pháp tự học. Nội dung của nó là học bài cũ, chuẩn bị bài mới, làm các bài tập vận dụng kiến thức và làm những bài tập sáng tạo khác.
Muốn làm được điều đó, trước hết đòi hỏi mỗi sinh viên phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu. Việc đánh giá đúng đắn tài liệu chính là đã xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu về kiến thức và trình độ nhận thức của bản thân.
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tài liệu, sinh viên phải biết chế biến, gia công tài liệu, nhằm làm cho nó đảm bảo tính lôgíc của sự phát triển khoa học. Trong cơ chế học tập trên quan điểm hoạt động, sinh viên không phải làm công việc tiếp nhận tri thức một chiều, mà phải biết giành lấy những tri thức khoa học trong các tài liệu, làm cho những tri thức ấy có ý nghĩa đối với cuộc sống của mình.
Để có được những điều này, bản thân mỗi sinh viên cần tự giác nghiên cứu tài liệu, thường xuyên tạo cho mình khả năng phân tích, tổng hợp khái quát kiến thức.
Sinh viên cần coi trọng sự thống nhất giữa lý luận và thực hành, lý luận và thực tiễn.
Nhiệm vụ quan trọng của mỗi sinh viên là làm sao có được hệ thống lý thuyết khái quát bao gồm các khái niệm, phạm trù, quy tắc, quy luật - là những sản phẩm hoạt động nghiên cứu sâu sắc của các nhà kinh điển. Nắm vững hệ thống tri thức lý thuyết này tạo nên những hiểu biết về tự nhiên và xã hội. tuy nhiên, có lý thuyết mà không biết thực hành thì sẽ trở thành vô dụng. Bởi vậy, mỗi sinh viên cần rèn luyện cho mình kỹ năng vận dụng lý thuyết vào cuộc sống để qua đó thấy được bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc kết hợp các phương pháp trên phải không quên việc lấy người học làm trung tâm. Trong thời gian đào tạo, đối với một số môn, một số bài chỉ cần giới thiệu những ý chính, đi sâu vào một vài vấn đề, nêu quy định sách và tài liệu bắt buộc phải đọc, để sinh viên tự thu hoạch, tự nêu cách xử lý tình huống, v.v..Nhưng với các môn lý luận chính trị, sinh viên còn phải được trang bị về phương pháp tiếp nhận lý luận, vận dụng và xử lý thực tiễn để làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.
Chúng ta không phủ định sạch trơn, không xoá bỏ toàn bộ những phương pháp cũ mà chỉ cải tiến hoặc thay thế những phương pháp nào không còn phù hợp với tình hình mới. Nhưng để khẳng định phương pháp cũ nào tốt hay không còn phù hợp thì cần phải được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để đổi mới.
Từ những điều trình bày như trên, có thể rút ra được một kết luận: Muốn học tập có hiệu quả tốt các môn lý luận chính trị thì mỗi sinh viên phải tích cực tiến hành các phương pháp học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân. Đồng thời việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng tạo môi trường thuận lợi cho việc tích cực hoá học tập, nghiên cứu các môn lý luận chính trị của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
* Hướng dẫn sinh viên ôn tập học phần và thi hết môn: Đây là khâu cơ bản, một hình thức và phương pháp đã có từ lâu và được nhiều trường duy trì trong quá trình giảng dạy các môn học lý luận chính trị.
Duy trì việc ấn định thời gian ôn tập tập trung vào một số ngày nhất định.
Biên soạn lại phần hướng dẫn ôn tập theo hướng chọn lựa những vấn đề bao gồm cả lý luận cơ bản và thực tiễn, nhưng không có phần đáp án, câu trả lời. Hướng dẫn ôn tập đảm bảo được sự kế thừa và phát triển cả quá trình học phần hoặc môn học.
Hướng dẫn ôn tập một mặt không quá mở rộng vấn đề, nhưng mặt khác cũng không thu hẹp quá nội dung để biến thành “tủ” cho người học.
Nếu phần hướng dẫn ôn tập được biên soạn tốt sẽ đáp ứng được cho cả đối tượng học tập trung và đối tượng là sinh viên, học viên tại chức, liên kết.
Trong những ngày ôn tập của sinh viên, có thể tổ chức buổi giải đáp những thắc mắc của sinh viên, kết hợp với phụ đạo thêm cho một số sinh viên yếu kém.
Xây dựng đội ngũ giảng viên “vừa hồng”, “vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học
* Thứ nhất, đối với giảng viên
Giảng viên cũng phải đạt được những yêu cầu chung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: giảng viên đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn, lành mạnh, trong sáng, có tấm lòng nhiệt thành với nghề nghiệp, có thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, để góp phần hình thành thế hệ trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng. Bất cứ giảng viên nào cũng không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức của bộ môn, mở rộng sự hiểu biết kiến thức chung có liên quan đến nội dung bộ môn; có phương pháp giảng dạy tốt, không ngừng hoàn thiện và cải tiến nghiệp vụ sư phạm. Giảng viên phải nâng cao trình độ chuyên môn của mình để đáp ứng yêu cầu giáo dục đại học ở các trường.
Để truyền đạt hữu hiệu đến sinh viên, ngoài những kĩ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức về chuyên ngành để có thể khai triển những lí thuyết và ý tưởng từ nội dung của giáo trình. Những kiến thức này có thể tiếp thu qua nghiên cứu khoa học. Nhưng “hộ chiếu” để làm nghiên cứu khoa học là học vị, học hàm. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy các trường đại học phương Tây xem văn bằng tiến sĩ như là một tiêu chuẩn tối thiểu để được bổ nhiệm làm giảng viên hay giáo sư đại học. Một phần lớn các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục đại học xoay quanh trình độ của người thầy và nghiên cứu khoa học.
Ở đại học, nghiên cứu khoa học thường do các nghiên cứu sinh cấp thạc sĩ và tiến sĩ thực hiện dưới sự chỉ đạo của các giảng viên và giáo sư. Để đủ tư cách hướng dẫn luận án cấp thạc sĩ và tiến sĩ, giảng viên hay giáo sư phải hội đủ một số điều kiện như có chương trình nghiên cứu tầm cỡ, có cơ sở vật chất sẵn có, và quan trọng hơn là có kinh nghiệm làm nghiên cứu khoa học tầm quốc tế. Vì thế, một tiêu chuẩn quan trọng cần được đặt ra là phần trăm giảng viên và giáo sư có khả năng hướng dẫn luận án cấp thạc sĩ và tiến sĩ.
* Thứ hai, đối với nhà trường
Không ngừng bổ sung, nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, những tri thức ngoài chuyên ngành cho giảng viên. Bồi dưỡng kiến thức cơ bản của các ngành khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên. Đây chính là cơ sở, nền tảng để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên.
Chú trọng bồi dưỡng cho giảng viên những kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục, về lý luận dạy học, ngoại ngữ, tin học, khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đó hoàn thiện phương pháp giảng dạy. Có hướng giải quyết những giảng viên không đủ trình độ, năng lực chuyên môn, sức khỏe không bảo đảm. Từng bước chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn phẩm chất đạo đức, chính trị.
Tăng cường bồi dưỡng vốn kinh nghiệm thực tiễn cho giảng viên bằng nhiều hình thức như: đưa thăm quan thực tế ở các địa phương, di tích,…
Đổi mới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn lý luận chính trị. Các trường được giao nhiệm vụ đào tạo giảng viên các môn lý luận chính trị như: Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Quốc gia Hà Nội,…Cần chú trọng phẩm chất đạo đức, lập trường chính trị, về mặt nội dung và trang bị phương pháp sư phạm để giúp sinh viên có lượng tri thức khoa học phục vụ cho giảng dạy đạt hiệu quả.
Đổi mới công tác tổ chức, điều hành quản lý hệ thống các trường đại học
Trước lúc đi xa, tháng 5 năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức chăm lo sự nghiệp giáo dục, có chương trình, kế hoạch chu đáo trong việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Cùng với việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh thì phải “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động”.
Vận dụng phương pháp giáo dục của Người, cần hết sức chú trọng công tác quản lý, điều hành hoạt động trường đại học, cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế tổ chức, điều hành quản lý hệ thống các trường đại học theo hướng giáo dục gắn liền với yêu cầu xã hội đặt ra
Về cơ chế tổ chức: Các cấp lãnh đạo ngành giáo dục nên rà soát lại các nhóm trường, cụm trường đại học có cùng chuyên ngành đào tạo giống nhau để phân bổ, đầu tư quy hoạch theo hướng đào tạo tập trung, chuyên sâu, không dàn trải. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc lại câu nói của người xưa: “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Mỗi trường đại học cần tập trung vào một số ngành nghề có thế mạnh, tránh dàn trải, nhưng phải tuyệt đối thực hiện giảng dạy đầy đủ và hiệu quả các môn lý luận chính trị.
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường cần rà soát, sớm công bố tiêu chuẩn thành lập trường đại học, trong đó phải có các chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo (những kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi cần đạt được của sinh viên). Phấn đấu đến tháng 12/2008, tất cả các trường đại học phải công bố chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo, nếu không công bố thì phải có chế tài về tuyển sinh.
Hình thành cơ chế rà soát và giúp các trường nâng chuẩn đào tạo. Vụ Đại học và Sau Đại học, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục sớm xây dựng tài liệu và tập huấn cho tất cả các trường về việc xây dựng chuẩn và công bố chuẩn đào tạo. Các trường chủ động phối hợp với nhau, có thể hình thành các Hội đồng trưởng khoa, Hội đồng các hiệu trưởng của từng ngành để rà soát các chuẩn đào tạo, sau đó thống nhất và cho công bố. Những ngành nào đã có chương trình khung thì rà soát và công bố lại; những ngành nào chưa có thì công bố chương trình khung mới. Công việc này cần tiến hành một cách chắc chắn, có lộ trình sao cho chậm nhất đến hết năm 2009, tất cả các trường đều phải có chương trình khung. Sau này, tùy từng trường, sẽ có 2 loại chương trình: chương trình ứng dụng và chương trình nghiên cứu, với mức độ đảm bảo về kinh phí và học phí khác nhau. Qua đây, có sự phối hợp để xây dựng chương trình chuẩn các môn khoa học Mác - Lênin cho phù hợp.
Đối với giảng viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang tiếp tục ban hành quy chế giảng viên và chuẩn giảng viên cho từng vị trí công tác. Tất cả giảng viên đại học đều phải có năng lực giảng dạy, nghiên cứu và phải được đánh giá qua sinh viên và đồng nghiệp về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, năng lực quản lý giáo dục… Tiến tới, tăng quyền tự chủ cho Hiệu trưởng; Hiệu trưởng có quyền quyết định trả lương cho giảng viên, để có thể giữ được cán bộ và thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy.
Đối với công tác tuyển sinh, ngoài việc phải tính đến mối liên quan giữa chất lượng đầu vào và tỷ lệ giảng viên thì việc giao chỉ tiêu tuyển sinh phải gắn liền với chất lượng đào tạo và công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Nếu trong số các trường có cùng điều kiện về cơ sở vật chất, giảng viên như nhau thì trường nào đã được kiểm định chất lượng sẽ được tăng chỉ tiêu tuyển sinh.
Về mặt điều hành quản lý: các trường cần quản lý chặt chẽ, cẩn thận, kỹ lưỡng, công bằng ngay từ khâu tuyển chọn để có được nguồn đào tạo chất lượng, nhất là sinh viên chuyên ngành lý luận chính trị, tránh tình trạng chạy theo thành tích, chạy sô theo số lượng, kết quả ắt là tạo ra sản phẩm chất lượng kém.
Về trang thiết bị cho các trường, phải có lộ trình từng bước để áp dụng rộng rãi internet và hình thành hệ thống thư viện điện tử. Trong giáo dục và đào tạo nói chung và nhất là đào tạo đại học hiện nay, không thể để tình trạng thiếu thông tin.
Vận dụng phương pháp thi đua, khen thưởng trong dạy và học mà Hồ Chí Minh đã nói, để khuyến khích sinh viên chăm chỉ học tập, nghiên cứu lý luận, không lười biếng, động viên thầy cô phấn khởi, tự giác nâng cao trình độ chuyên môn.
Có chế độ điều tra, thống kê chính xác tình hình đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ở các trường đại học để có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục tiến tới kiểm định chất lượng giáo dục theo quy trình đã công bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo, gắn với quá trình hội nhập; phải tham khảo kinh nghiệm và hội nhập với các nước ASEAN và trên thế giới. Việc hội nhập sẽ tạo áp lực buộc ta phải đẩy nhanh hơn tiến trình đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.
Với mục tiêu giáo dục đào tạo sinh viên toàn diện, các lượng tham gia giáo dục trong nhà trường phải luôn quán triệt tinh thần: Giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, giáo dục lý tưởng cộng sản và phẩm chất nghề nghiệp của người sinh viên là nhiệm vụ chung. Bên cạnh việc thực hiện các giờ dạy các môn lý luận chính trị trên lớp, nhà trường cần tăng cường hơn nữa sự kết hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, phòng ban chức năng trong các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học tập của bộ môn, như thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua của sinh viên, tổ chức các câu lạc bộ và các cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin, các cuộc thi tìm hiểu, tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước…góp phần nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng cho sinh viên, làm tiền đề học tốt các bộ môn lý luận chính trị.
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra đánh giá giảng viên
Cần thay đổi tư duy về quản lý, không hành chính hoá, máy móc trong quản lý giảng viên và hoạt động giảng dạy của giảng viên, coi trong sáng tạo, đổi mới phương pháp quản lý theo mục tiêu đầu ra. Đồng thời tăng cường các chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ giảng viên thay đổi phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá sinh viên. Tăng cường việc giám sát từ phía cán bộ quản lý nhà trường đối với giảng viên.
Trong nhà trường đại học, để xây dựng kết quả mong đợi từ các loại hình công việc thuộc chức trách của một giảng viên, cần làm rõ mục tiêu mà giảng viên và nhà trường cần phải đạt tới. Mọi hoạt động của giảng viên đều hướng tới mục tiêu kép: cho bản thân và cho nhà trường. Đối với bản thân, người giảng viên bao giờ cũng đặt mục tiêu hàng đầu là sự phát triển nghề nghiệp, tích luỹ kinh nghiệm và tự thể hiện mình. Khía cạnh thứ hai của mục tiêu kép này là sẽ được xem xét không phải theo cách thức biệt lập, riêng lẻ của từng giảng viên mà trên cơ sở thực hiện các mục tiêu chung của toàn trường. Sứ mạng của một trường đại học một khi được xác định và quán triệt tới từng cán bộ công chức, sinh viên của trường sẽ là một động lực để các giảng viên đầu tư thời gian, công sức của họ vào các hoạt đông chung. Mong muốn của từng giảng viên cũng như của toàn trường là nâng cao chất lượng công việc và vai trò của giảng viên hướng tới sự phát triển của trường đại học cũng như sự thăng tiến của từng giảng viên. Chất lượng hay sự xuất sắc là một phạm trù phức hợp nhiều chiều, được xem xét trong một bối cảnh nhất định, trong mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên.
Vận dụng tư tưởng giáo dục của Người vào việc đánh giá giảng viên, chúng ta cần xây dựng thành các tiêu chí và được cụ thể hoá bằng các chỉ số. Nói về cách kiểm tra, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Kiểm tra phải có hệ thống nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy” [11,tr.520-521]. Để xây dựng được tiêu chí đánh giá cần phải dựa trên nhiệm vụ của người giảng viên, mà nhiệm vụ của giảng viên dựa trên cơ sở sứ mạng của nhà trường.
Như vậy, tiêu chí để đánh giá giảng viên được cụ thể hoá từ 4 yếu tố chính sau: Giảng dạy; Nghiên cứu; Dịch vụ chuyên môn phục vụ cộng đồng; Bổn phận công dân với tư cách là nhà giáo, nhà khoa học. Hiện nay, hầu hết các quốc gia, sự đánh giá giáo dục đại học được coi trọng, do đó việc đầu tư nhân lực và vật lực cho giáo dục đại học được quan tâm thường xuyên. Mối quan tâm đến chất lượng là kết quả trực tiếp của sự gia tăng mối quan tâm được các chính phủ biểu lộ với tính cạnh tranh quốc tế trong các nền kinh tế dựa trên sức mạnh của các lĩnh vực hoa học và công nghệ. Do đó, với quan điểm luôn luôn thích ứng trong đào tạo và nghiên cứu, các trường đại học thấy được sự cần thiết hình thành các phương pháp có hệ thống và phản hồi thường xuyên về hiệu suất của giảng viên đại học.
Các trường đại học trên thế giới, đặc biệt là những trường theo hệ thống tự chủ, có một truyền thống lâu năm và thực hành đánh giá giảng viên thông qua cả cơ chế chính thức và không chính thức. Trước kia sự phát triển nghề nghiệp của giảng viên được xem là trách nhiệm cá nhân, thì hiện nay phát triển nghề nghiệp đang trở thành trách nhiệm có tính kế hoạch của trường đại học.
Trong giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng, hoạt động của giảng viên trong nhà trường cũng thường được đánh giá thể hiện qua các đợt sơ kết học kỳ, tổng kết năm học và để đánh dấu những mốc đó các nhà quản lý dùng các danh hiệu như: Chiến sĩ thi đua các cấp, Giảng viên giỏi…với các tiêu chí định tính hoặc định lượng tuỳ theo mỗi giai đoạn. Tuy nhiên các kiểu đánh giá này cũng chỉ mang tính “tổng kết” và đôi khi cũng để lại những dấu ấn tiêu cực như sự không hài lòng về tính khách quan của sự đánh giá, sự thờ ơ với các danh hiệu thi đua khen thưởng v.v..
Hiện nay, trong đánh giá giảng viên ở các trường đại học chưa xây dựng được bộ tiêu chí và quy trình đánh giá một cách khoa học, nên việc đánh giá chưa bao hàm được đầy đủ các nhiệm vụ trên, nhưng không đầy đủ và mang tính khoa học. Ví dụ có những trường khi đánh giá phân loại bình xét thi đua đã dựa vào các yếu tố: giảng dạy, có nghiên cứu khoa học, có tham gia các hoạt động đoàn thể…và có ý kiến nhất trí của tập thể là có thể được công nhận là “Chiến sĩ thi đua” hay “Giáo viên giỏi”. Còn yếu tố nội dung, kỹ năng giảng dạy, khả năng cập nhật kiến thức như thế nào và chất lượng nghiên cứu khoa học đến đâu thì còn chưa được định lượng và đánh giá một cách đầy đủ, khoa học đối với từng loại giảng viên. Đặc biệt là chưa thu thập và xử lý thông tin về người giảng viên thông qua sinh viên một cách chính thống, vì không ai có thể chứng kiến toàn bộ quá trình giảng dạy của người thầy đầy đủ như sinh viên. Kết quả là việc đánh giá chỉ mang tính hình thức, chưa thuyết phục và chưa động viên được các nhân tố tích cực đóng góp xây dựng nhà trường.
Việc đánh giá giảng viên có chung lịch sử với nền giáo dục nước nhà, và do vậy trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị bậc đại học hiện nay nó vẫn là vấn đề cần được đổi mới để có thể góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Do vậy, việc đánh giá giảng viên hiện nay cần phải tuân thủ một nguyên tắc là: góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ, là định hướng và làm động lực cho đội ngũ giảng viên tự giác hoàn thiện mình theo chuẩn; phát huy vai trò chủ động, tích cực của giảng viên để họ tự giác tham gia vào quy trình đánh giá và tự đánh giá, đồng thời việc đánh giá phải thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế, các yếu tố văn hoá xã hội của trường đại học ở Hà Nội và từng bước tiếp cận với trình độ quốc tế.
Về cách kiểm tra, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở “kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi”. Vì vậy, việc đánh giá giảng viên cần phải có phương pháp khoa học và phù hợp với đặc điểm tâm lý và văn hoá của đội ngũ nhà giáo. Trên quan điểm xem đánh giá là “ngồi bên nhau” hoặc “phản hồi 3600”, là hoạt động mang tính xã hội và nhân văn, được tiến hành trong suốt cuộc đời của người giảng viên, nên việc tìm các nguồn cung cấp bằng chứng về hiệu quả công việc của người giảng viên, hay nói cách khác, những đối tượng tham gia đánh giá giảng viên là rất quan trọng. Những đối tượng ấy có thể là: Bản thân giảng viên; các đồng nghiệp trong và ngoài cơ quan; các nhà quản lý các cấp; sinh viên (đang học, hoặc đã tốt nghiệp); các tổ chức xã hội mà giảng viên tham gia. Bằng chứng thu thập được từ các đối tượng này thông qua hình thức đa dạng như sau: bảng hỏi, phỏng vấn, quan sát, đánh giá bằng bài viết. Đối với mỗi loại hình công việc của giảng viên có thể có những nguồn và phương pháp đánh giá khác nhau. Có thể phân loại bằng chứng theo 4 loại hình công việc chính thuộc chức trách của giảng viên là giảng dạy, nghiên cứu khoa học, dịch vụ chuyên môn và nghĩa vụ công dân.
Khi đã có cách đánh giá, thì việc tiến hành kiểm tra phải tuân theo một quy trình khoa học. Người lãnh đạo nhà trường, cũng như người quản lý của từng đơn vị phải chú trọng đến công tác kiểm tra, đánh giá đồng thời cần phải xây dựng được đội ngũ chuyên gia trong kiểm tra đánh giá có năng lực và giàu kinh nghiệm.
Như vậy là phải xây dựng quy trình phương pháp thể để đánh giá kiểm tra giảng viên. Nếu làm tốt được điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên có năng lực cao, kỹ năng giảng dạy hiệu quả và hiện đại.
Ngoài những giải pháp vận dụng trên, cần tăng cường đầu tư, tạo điều kiện cơ sở vật chất (phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện,.v.v..), điều kiện làm việc của giảng viên và tăng cường các phương tiện dạy học phục vụ cho đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình dạy học; tăng cường phối hợp hoạt động giảng dạy các môn lý luận chính trị với tất cả các lực lượng tham gia giáo dục trong nhà trường như: Đảng ủy, Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Phòng Công tác chính trị,…
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành quả của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Trong những năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng mác xít ở nước ta phụ thuộc một phần quan trọng vào việc đổi mới nội dụng, phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị trong các trường đại học ở Hà Nội và giáo dục đại học Việt Nam, nhằm xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta. Do đó phải quán triệt và vận dụng sáng tạo phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Để kết luận cho khoá luận này, xin trích đoạn của Người trong bài nói chuyện tại Lớp học chính trị của giáo viên: “Cán bộ và giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải mình trước. Cho nên phải cố học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào cải tạo xã hội” [15,tr.489].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Các văn bản pháp luật hiện hành về giáo dục – đào tạo, tập 1, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2001.
Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng, Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Đặng Quốc Bảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người khai sáng cho tư duy và chiến lược hành động xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam, Tạp chí Giáo dục, 2005.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
Phạm Văn Đồng, Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.
Nguyễn Lân, Hồ Chí Minh - Nhà giáo dục vĩ đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1972.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Hồ Chí Minh: Nhật ký trong tù. Nxb. Đồng Nai, 1996.
Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.
Vac Lav Dvohak: Vai trò của giáo dục và khoa học trong quá trình toàn cầu hoá thế giới, Tạp chí thông tin khoa học xã hội, số 8, 2002.
Bùi Thị Ngọc Lan: Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Edgar Morin (chủ biên), Thách đố của thế kỷ XXI – Liên kết tri thức, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005.
Thành Duy, Bản sắc dân tộc và hiện đại hoá văn hoá Việt Nam - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
Hồ Chí Minh: Phát huy tinh thần cầu học cầu tiến bộ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960.
Mác – Ăngghen - Lênin: Về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976.
Phan Ngọc Liên: Giáo dục và thi cử Việt Nam (Trước cách mạng tháng 8 năm 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ; QĐ số 776/ĐT ngày 11/8/2006 của Giám đốc ĐHQGHN.
TS. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên): Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bố cục của đề tài
NỘI DUNG
Chương I: Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay
Một số khái niệm cơ bản
1.2. Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục
1.2.2. Phương châm giáo dục của Hồ Chí Minh
1.2.2.1. Giáo dục toàn diện
1.2.2.2. Lý luận gắn liền với thực tiễn; học đi đôi với hành
1.2.3. Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
1.2.3.1. Phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm đối tượng, gắn giáo dục vào ứng dụng nghiên cứu khoa học và sản xuất
1.2.3.2. Phương pháp giáo dục phải thiết thực cơ bản, gợi trí thông minh và tính sáng tạo của người học
1.2.3.3. Phương pháp đối thoại làm căn bản và lấy tự học làm gốc
1.2.3.4. Phương pháp cảm hóa thông qua tình cảm; thực hiện phê bình và tự phê bình
1.2.3.5. Phương pháp nêu gương; gắn giáo dục với thi đua
1.3.Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học
1.3.1. Yêu cầu khách quan
1.3.2. Yêu cầu chủ quan
Chương II: Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học hiện nay
2.1. Thực trạng chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học
2.1.1. Vài nét về tình hình giáo dục đại học của Việt Nam
2.1.2. Thực trạng về chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội
2.1. 2.1. Thành tựu
2.1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.2. Những giải pháp vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị ở các trường đại học hiện nay
Nâng cao chất lượng nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
Nâng cao chất lượng nội dung chương trình
Cải tiến phương pháp giảng dạy
Nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ sư phạm của đội ngũ giảng viên
Đổi mới công tác tổ chức, điều hành quản lý hệ thống các trường đại học
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 76389575-Khoa-Luan-Tot-Nghiep-Dai-Hoc-Kien-Qua-Chuan-can-in-Ngay.doc