Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất và lần thứ hai. Hai cuộc các mạng khoa học kỹ thuật đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chinh trị và xã hội như công nghệ thông tin , công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới .Mà tất cả các quốc gia có thu và vận dụng nó vào đất nước mình đua đất nước minh trở thành một cường quốc trong khu vực và trên thế giới. Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ,nền kinh tế vẫn còn ở trong trình độ thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn chủ yếu là trông lúa. Nền công nghiệp chua có đong góp nhiều cho nền kinh tế .Do đó muốn đưa nước ta trở thành một cương quốc kinh tế sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới thì quá trình công nghiệp hoá lá một tất yếu khách quan.
Chính tầm quan trọng củaCNH-HĐH to lớn như vậy là lý do mà .
Mục lục
A-ĐẶT VẤN ĐỀ
B-NỘI DUNG
I.Cơ sở của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2.Cơ sở thực tiễn của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
II. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
1.Khái niệm
2.Tính tất yếu khách quan
III. Nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam .
1. Những nội dung cơ bản của CNH-HDH trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam.
2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt
IV. Những tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện hoá
1.Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả .
2. Đào tạo nguồn nhân lực
3. Phát triển khoa học và công nghệ
4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
5.Tăng cường sự lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13887 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A-ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất và lần thứ hai. Hai cuộc các mạng khoa học kỹ thuật đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chinh trị và xã hội như công nghệ thông tin , công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới ...Mà tất cả các quốc gia có thu và vận dụng nó vào đất nước mình đua đất nước minh trở thành một cường quốc trong khu vực và trên thế giới. Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ,nền kinh tế vẫn còn ở trong trình độ thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn chủ yếu là trông lúa. Nền công nghiệp chua có đong góp nhiều cho nền kinh tế .Do đó muốn đưa nước ta trở thành một cương quốc kinh tế sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới thì quá trình công nghiệp hoá lá một tất yếu khách quan.
Chính tầm quan trọng củaCNH-HĐH to lớn như vậy là lý do mà em lựa chọn “Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá”
B-NỘI DUNG
I.Cơ sở của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
a.Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất .Trong quá trình sản xuất con người kết hợp sưc lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động với tư liệu lao động và tư liệu sản xuất, trong đó lưc lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là giai cấp công nhân là người lao động. Nguời lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ thuật của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động tao ra của cai vật chất .
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế khoa học kỹ thuật, công cụ lao không ngừng được cải tiến và hoàn thiện đã làm cho tư liệu sản xuất biến đổi .
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với xản xuất là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sức lao động không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học .
Từ trên cho ta thấy muốn phát triển kinh tế phải tiến phải tiến hành xây dưng lực lượng sản xuất phảt triển do đó phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
b.Vai trò của lực lượng sản xuất .
Lực lượng sản xuất trởe thành lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển .
Xã hội loài người luôn luôn vận động và phát triển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác mà nguyên nhân sâu xa của sự biến đổi này là do sự biến đổi và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất .Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định ,khi đó quan hệ sản xuất buộc phải thay đổi theo cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Chính sự thông nhất biện chứng này giũa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dân tới hình thành phương thức sản xuất mới, tức là một chế độ xã hội mới được hình thành .
Như vậy lực lượng sản xuất xã hội chính là nguyên nhân của sự phát triển ngày càng cao của các hình thái kinh tế xã hội.
2.Cơ sở thực tiễn của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Nhận thấy được vai trò của khoa hoc công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước ngay từ đại hội VI và đậi hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã xác định con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Quan niêm của đảng về CNH-HDH:
Một là: công nghiệp hoá hiện đại hoá phải được tiến hành song song và đồng thời với hiện đại hoá đất nước. Phải tranh thủ các thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ hiện đại nhằm chuyển nền kinh tế thủ công lạc hậu sang nền kinh tế cơ khi hoá.
Hai là : công nghiệp hoá hiện đại hoá phải được tiến hành trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của nhà nước .
Ba là : công nghiệp hoá hiện đại hoá là công cuộc , là nhiệm vụ của toàn dân , toàn xã hội , cảu tất cả cá nhành ... Chứ khong phải riêng ai, của riêng ngành nào . Cần phải coi trọng vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước .Muốn công nghiệp hoá hiện đại hoá đi nhanh theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải nâng cao vai trò chủ đạo của và sức mạnh kinh tế nhà nước , phải giáo dục khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế hưởng ứng tham gia.
Bốn là: công nghiệp hóa hiện đại hoá phải lấy việc phát triển nguồn lực con người là chính , phải quan tâm đào tạo , giáo dục để nâng cao phẩm chất và năng lực của tất cả các cán bộ trên tất các lĩnh vực nhằm khai thác tối đa tiềm lực con người .
Năm là : công nghiệp hoá hiện đại hoá phải xây dựng đựoc một nền kinh tế mở , tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại , tăng cường hội nhập quốc tế để tiếp thu kinh nghiệm , trình độ quản lý trình độ ứng dụng khoa học công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới .
Sáu là : lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn để xác định phương án. Đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả để khai thác tối đa năng lực sản xuất. Lựa chọn dự án đầu tư thíc hợp đối với từng ngành , tưng địa phương.
II. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
1.Khái niệm:
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ nhằm tạo ra năng xuất lao động cao .
Đặc điểm của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá :
Thứ nhất: công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, phải chuyển lao động thủ công sang sứ dụng lao động cơ khí, tranh thủ áp dụng các thành tựu khoa hoc kỹ thuật tiến bộ của thế giới tao ra các bước nhảy vọt về kinh tế .
Thứ hai: công nghiệp hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nước đang phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau . Ở nước ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc .
Thứ ba : công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong cơ chế này nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhưng công nghiệp hoá hiện đại hoá không xuất phát từ chủ quan của nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết đó là các quy luật của kinh tế thị trường.
Thứ tư: công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, vì thế mở của nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu đối với đất nước ta. Công nghiệp hoá trong điều kiện chiến lược kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chung ta biết tận dụng, tranh thủ được những thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế để phát triển nhanh nền kinh tế.
2.Tính tất yếu khách quan:
Lô dích và lịch sửđã chứng minh quá trình cải tạo xã hội nhanh nhất, đó là CNH. Trên thế giới CNH đã biến đổi nhiều nước từ xã hội lạc hậu trở thành nước văn minh hiện đại, đứng vị trí hàng đầu thế giới. Trong xu hướng phát triển như vũ bão hiện nay của thế giới CNH ngày càng khẳng định vai trò quan trọng tất yếu của nó, đặc biệt làđối với các nước hiện nay đang trong tình trạng kém phát triển thì con đường cải tạo xã hội thông qua CNH là con đường quy nhất mang tính tất yếu khách quan đ tựđưa mình tự vượt qua danh giới nghèo đói, tránh tụt hậu khá xa so với các nước phát triển.
Thông qua CNH các nước sẽ trang bịđược cho mình có sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất mới hiện nay – trong đó cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất mới hiện đại có thể khái quát là nền đại công nghiệp cơ khí hoá và hiện đại dựa trên trình độ khoa học, công nghệngày càng phát triển cao- cơ sở vật chất đó phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hoá và lao động cao. Cóđược cái “ Cốt vật chất” như vậy các nứơc mới cóđủ khả năng sản xuất ra của cải vật chất rồi rào đáp ứng cho tieu dùng hiện đại mà còn có khả năng tích luỹ lớn và chỉ có khi đó con người mới cóđiều kiện để quan tâm đến các điều kiện khác thoả mãn nhu cầu toàn diện của mình.
Ở nước ta hiện nay quá trình xây dựng XHCN là quá trình cải tạo xã hội đưa đất nước từ xã hội lạc hậu lên một xã hộ mới tốt đẹp hơn, chúng ta tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy rất cần nền tảng đại công nghiệp cơ khí. Trên phương tiẹn xem xét đó, nền kinh tế sản xuất của nước ta là một nền sản xuất nhỏ kém phát triển muốn xây dựng một xã hội mới toàn diện về nhiều mặt: Xây dựng chếđộ làm chủ tập thể, xây dựng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới XHCN trước tiên ta phải cóđược cái cốt vật chất cho xã hội mới- đó là cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền sản xuất mới hiện đại. Để làm được điều này con đường tất yếu khách quan nhưđã khẳng định, đó là tiến hành CNH- HĐH đất nước bởi vì việc thực hiện hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá cóý nghĩa và tác dụng to lớn về nhiều mặt:
CNH là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản khoa học sản xuất tăng năng xuất lao động. CNH chính là thực hiện xã hội về mặt kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Trên cơ sở thực hiện đầy đủ vàđúng đắn quá trình CNH sẽ giải quyết tốt các nhiệm vụđặt ra của sự phát triển Kinh tếđó là nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, phát triển nhiều ngành mới, đáp ứng các nhu cầu việc làm của người lao động và các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành các vùng trong nước và giữa các nước đặt ra.
Hơn nữa, nhân tố con người với tư cách là chủ thể của nền sản xuất xã hội đang trở thành trung tâm của nền kinh tế. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, con người tất yếu phải là con người hiện đại, có trình độ khoa học kỹ thuật cao, trên cơ sở thực hiện công nghiệp của liên hợp quốc (UNICO) đãđưa ra định nghĩa “công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế: trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng của nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế và có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội”.
Cũng theo hướng đó, các tác giả cuốn “Công nghiệp hoá và hiện đại hoáở Việt nam và các nước trong khu vực” đãđưa ra định nghĩa “công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong cả nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại”.
Qua xem xét một vài định nghĩa đưa ra có thể thấy tuỳđiều kiện cụ thể mà góp quy môđánh giá khác nhau. Mỗi nơi, mỗi quốc gia cóđịnh nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Tuy vậy, định nghĩa công nghiệp hoá cũng phải chỉ ra được cái cốt lõi của quá trình này “Sựđổi mới, chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến có năng suất và hiệu quả kinh tế cao”.
Trước đây, khi vận dụng một cách máy móc mô hình kinh tế của Liên Xô (cũ) nên trong quá trình công nghiệp hoá chúng ta cũng xác định nội dung của công nghiệp hoá là phát triển đại công nghiệp trước hết là công nghiệp nặng. Chẳng hạn như một sốđịnh nghĩa về công nghiệp hoá là: “Quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân vàđặc biệt là công nghiệp nặng, dẫn tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động” hoặc như “Kinh tế chính trị” cũ của trường Đại học Kinh tế quốc dân các tác giảđãđịnh nghĩa: ”Công nghiệp hoá XHCN là quá trình xây dựng cơ sở vật chất với kỹ thuật của CNXH: Xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí hoá cỏ khả năng cải tạo cả nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm biến nước ta từ một nước kinh tế chậm phát triển thành một nước XHCN có cơ cấu công nông hiẹn đại”.
Định nghĩa như thế về công nghiệp hoáđã phản ánh được cái cốt lõi của quá trình này, tuy thế việc nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nặng là không phù hợp với điều kiện của nước ta, thiếu sự phân tích khoa học. Chính tư tưởng chỉđạo này đã dẫn đến những hậu quả màđặc biệt là thất bại trong sự nghiệp công nghiệp hoáở nước ta từ năm 1960 (từĐại hội Đảng lần thứ III).
Sau khi có sự biến động mạnh mẽ trong khối XHCN. Đó là sự xụp đổ về mô hình kinh tế của một loạt các nước trong khối XHCN, đặc biệt là sự tan rã của liên bang cộng hoà Xô Viết (1990). Đảng và nhà nước ta nhận ra những sai lầm trong việc chỉđạo định hướng xây dựng nền kinh tế vàđã tiến hành công cuộc đổi mới thu được nhiều thành tựu to lớn như chúng ta đã biết. Theo đãđổi mới tư duy kinh tếđó, sự nghiệp công nghiệp hoáở nước ta cũng được hiểu theo một cách khác trên nền tảng phân tích khoa học điều kiện cụ thể của dất nước và tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực. Định nghĩa mứi về công nghiệp hoáở nước ta được đưa ra trong nghị quyết Đại hội Đảng 7 khoá VII với nội dung như sau: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội tự sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gẵn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chếđộ mới.
Chúng ta xác định rằng định nghĩa này không phải là một định nghĩa hoàn hảo, song nóđã chỉ ra được cái cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Xác định được vai trò của công nghiệp hoá và khoa học công nghệ trong quá trình này.
Khi xét đến định nghĩa công nghiệp hoáở nước ta thìđồng thời cũng thấy được con đường công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là con đường màĐảng ta đã chọn làm định hướng thực hiện cho sự nghiệp công nghiệp hoáđất nước. Từ sự phân tích dưới đây ta sẽ thấy được sự lựa chọn trên là hoàn toàn phù hợp với quy luật, với điều kiện hiện nay của đất nước ta.
Theo định nghĩa trên, từ “hiện đại hoá” là làm cho một cái gìđó mang tính chất của thời đại ngày nay. Vậy hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất đạt được trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
Trong lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới có nhiều con đường công nghiệp hoá nhưng thể hiện ở 2 con đường chính đó là công nghiệp hoá cổđiển và công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá. Con đường công nghiệp hoá cổđiển là quá trình công nghiệp hoá mà nhièu nước trước đây đã trải qua như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Đức, Liên Xô(cũ),... thường đó là những nước đã có nền khoa học công nghệ tiên tiến đương thời. Do đó, những bước tiến của công nghiệp hoá thường gắn với những sáng chế phát minh của chính nước đó hay thời đại đó. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá thường kéo dài hàng 100 năm theo đã phát triển của khoa học kỹ thuật, ở thời kỳ phôi thai chưa thành một cuộc cách mạng vũ bão như ngày nay.
Ngày nay, đối với các nước đi sau tình hình đang đổi khác, để giải quyết một vấn đề trong công nghiệp hoá có rất nhiều giải pháp hay công nghệđể săn sàng đem ra sử dụng. Tiến hành công nghiệp hoá theo hướng trận dụng lợi thế nhưđã nói của các nước công nghiệp phát triển muộn chính là công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Theo con đường công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá thì thời gian ngắn hơn rất nhiều so với con đường công nghiệp hoá cổđiển. có thểđơn cử ra đây vài con số làm dẫn chứng. Quá trình công nghiệp hoáở Anh được coi là bắt đầu từ năm 1780 và phải tới 58 năm sau đó thì thu nhập bình quân đầu người mới tăng lên gấp đôi. ở Mỹ công nghiệp hoá bắt đầu từ năm 1839 vàđểđạt được mức tăng thu nhập gấp đôi đã cần tời 47 năm. Nước Nhật bắt đầu công nghiệp hoá vào năm 1880 vàđã rút ngắn được thời gian tăng gấp đôi thu nhập xuống mức 34 năm. Các nước đi sau điển hình cho con đường công nghiệp hoá găn với hiện đại hoá thì Nam Triều Tiên đạt kết quả trên trong vòng 11 năm (1966-1977). Mới đây Trung Quốc đã rút ngắn thời gian đó xuống còn 10 năm (1977-1987).
Kinh nghiệm thế giới là bài học thực tiễn cho Việt nam học tập. Nhưng điều chủ yếu việc tiến hành công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoáở nước ta là phù hợp với những yêu cầu đang dặt ra cho quá trình này như: Triệt để khai thác lợi thế của các nước phát triển muộn về công nghiệp. Xu thế Quốc tế hoá sản xuất vàđời sống nhanh chóng vượt qua được nghèo, rút ngắn khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước công nghiệp phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Con đường đã chọn mở hướng đi cho chúng ta tiến tới một cái đích cao hơn. Chúng ta tin tưởng rằng với bước đi vững chắc đúng đắn đất nước ta sẽ tiến tới được cái đích đó. Nhưng để cóđược bước đi như vậy mỗi chúng ta phải hiểu sâu hơn, cụ thể hơn con đường chúng ta sẽđi, tức là phải nắm được thực chất của vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hoá là gì?
II. NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM .
1. Những nội dung cơ bản của CNH-HDH trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam.
a. Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Quá trình CNH-HDH trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa và tự động hóa sản xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Sự nghiệp CNH-HDH đòi hỏi phải xây dựng mạnh mẽ công nghiệp,trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất. Sở dĩ như vậy là vì, theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin, tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất tư liệu xã hội, đặc biệt là của ngành sản xuất tư liệu sản xuất đẻ sản xuất tư liệu sản xuất, quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng (hay tốc độ tăng trưởng)của toàn bộ nền kinh tế. Sự phát triển của các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở, là “đòn xeo”để cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực nông-lâm-ngư - nghiệp. Sự phân tích trên cho ta thấy đối tượng CNH-HDH là tất cả cá ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất.
Đồng thời, mục tiêu của CNH-HDH còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tất cả những điều đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học –công nghệ phát triển đén một trình độ nhất định.
Khi mà nền khao học của thế giới đang phát triển như vũ bão,khao học đang trở thành lực kượng sản xuất trực tiếp;khi mà công nghệ đang trở thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất ...tức là nói đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh thì khoa học công nghệ phải là động lực của CNH-HDH. Bởi vậy, phát triển khao học công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH-HDH.
Phát triển khao học công nghệ trong điều kiện của Việt Nam hiện nay cần phải chú ý đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khao hoc công nghệ.Sở dĩ như vậy là vì, KHCN là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi đó đội ngũ cán bộ KHCN nước ta còn rất nhỏ bé, chất lượng thấp, khả năng về vốn và phương tiện nghiên cứu ...còn rất hạn chế. Do đó cùng một lúc chúng ta không thể phát triển hết tất cả các lĩnh vực KHCN mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho KHCN phát triển và ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh hưởng xấu đên sự phát triển của KHCN mà còn ảnh hưởng không tốt đến CNH-HDH. Phương hướng chung cho sự phát triển KHCH ở nước ta hiện nay là: phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về KHCN, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển KHCN. Việc xác định những phương hướng đúng cho sự phát triển KHCN là cần thiết nhưng chưa đủ, mà KHCN chỉ phát triển khi đảm bảo được những điều kiện kinh tế-xã hội nhất định.Nhũng diều kiện đó là:đọi ngũ cán bộ KHCN với số lượng đủ lớn, chất lượng cao, đầu tư ở mức cần thiết, các chính sách kinh tế xã hội phù hợp...
Trong quá trình CNH-HDH, người lao động lực lượng xã hội hàng đầu –không những phải được nâng cao trinh đọ văn hóa và KHCN mà còn phải được trang bị cả cơ sở vạt chất kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuát, vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
b. Xây dựng cơ sở kinh tế hiện đại và hợp lý.
Quá trình CNH-HDH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu của nèn kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế ...và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế,cơ cấu các ngành kinh tê là quan trọng nhất ,quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy,CNH-HDH đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý.
Cơ cấu kinh tê không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến đổi cấu lực lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất. Xu hướng chuyển dich cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nông-lâm-ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những ngành có hàm lượng khao học cao, sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên canh tập trung...không chỉ là biểu hiện cảu sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất –kỹ thuât trong tiến trình CNH-HDH mà còn làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi tiến bộ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi công – nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ. Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan của một nước trong thời kì công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Ở nước ta, một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây :
Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng đàn về tỷ trọng .
Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đát nước, của các ngành của các địa phương, các thành phần kinh tế .
Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở “
Ở nước ta , kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng .
Thông qua cách mạng khoa học và công nghệ và phân công lại lao động với những quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương”của nó là cơ
cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ gần với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng .
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ nên CNXH được thực hiện theo phương châm : kết hợp công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn – tiên tiến vừa tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn trong nước, lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện ; giữ tốc độ tăng trưởng hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành , các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế … chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm trước mắt cần thực hiện theo những đinh hướng chung sau đây : chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dụa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và cá lợi thế so sánh của đất nước , tăng sức cạnh tranh , gắn vói nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước , nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng , an ninh . Tao thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước , đẩy mạnh xuất khẩu .
2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt .
a. Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn .
phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp gần với công nghiệp chế biến nông lâm thuy sản nhầm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng củ nông lâm ngư nghiệp đảm bảo vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội tao nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn chất lượng cao giá thành hạ đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng giá trị và khối lưọng hàng xuất khảu tăng thêm việc làm và thu nhập cho ngưòi lao động phân công lai lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hoá tại chỗ, mở mang thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đai hoá nông nghiệp và nông thôn phải chú trọng đén các vấn đề công nghiệp chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá , thuỷ lợi hoá đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuất và công nghệ sinh học vào sản xuất, thực hiện phát triển đồng bộ có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt gắn với công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản và thuỷ hải sản…
b. Phát triển công nghiệp xây dựng.
Hướng ưu tiên phát triển công nghiệp ở nước ta là : khuyến khích phat triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác công nghệ phần mền và công nghệ bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tao nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiêu lao động phát triển một sổ khu kinh tế mở và đăc khu kinh tế khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hầng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hường hiện đại .
Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để thực hiện một số dự án quan trong về khai thác dầu khí lọc dầu hoá dầu luyện kim co ký chế tạo.
c. Cải tạo, mở rộng nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế.
Trong cơ chế thị trường kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân cư. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đi lên CNXH , kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta hết sức thấp kém , không đáp ứng đựơc yêu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư.
Do vậy trong những năm trước mắt ,việc xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế được coi là một nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá .
Do khả năng tài chính có hạn , trong những năm trước mắt , cần huy động nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hoàn chỉnh một bước mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước … Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính viễn thông. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải tập chung vào những khâu quan trọng, có ý nghĩa đối với nền kinh tế hoặc vùng kinh tế . Có như vậy ,mới tạo điều kiện cho mở rộng đầu tư phát triển, nhất là việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài .
d. Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ
Trong những năm trước mắt,cần tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ , nhất là các ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như hàng không, hàng hải, bưu chính-viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, kế toán,bảo hiểm… Đưa tốc độ tăng trưởng cuả các ngành dịch vụ cao hơn tấc độ tăng của GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng một số ngành : Vận tải thương mại dịch vụ …
Sự phát triển của ngành du lịch, một mặt cho phép khai thác các tiềm năng du lịch, tăng thu nhập tạo việc làm cho dân cư …Mặt khác, sự phát triển của ngành du lịch còn góp phần mở rộng giao lưu, phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa nền kinh tế. Bởi vậy phát triển nhanh ngành du lịch, dịch vụ được coi là một nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt.
e. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, mở cửa nề kinh tế là cần thiết với tất cả các nước. Do đó công nghiệp hốa hiện đại hoá không thể thành công nếu không mở cửa nền kinh tế. Sau thời kỳ khá dài đóng cửa, hiện nay, mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta, là một dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt . Tuy nhiên mở cửa hội nhập như thế nào cũng cần được cân nhắc kỹ càng nhằm tranh thủ những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình này với tăng trưởng, phát triển của nề kinh tế.
Trong việc mở cửa, hội nhập, phảỉ đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm.
Chuyển hưóng chiến lược , xây dựng nền kinh tế mở đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu.
IV. Những tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện hoá
Công nghiệp hoá hiẹn đại hoá là một cuộc cải tiến cách mạng từ xã hội nông nghiệp chở thành xã hội công nghiệp.
Đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đòi sống xã hội .Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết.
Xuất phát từ thực trạng kinh tế , văn hoá xã hội của nước ta ,để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải không ngừng tạo dựng những tiền đề sau:
1.Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả .
Công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn . do đó , mở rộng quy mô huy động vốn và sử dụng có hiệu quả vốn đó là một điều kiện , tiền đề quan trọng để công nhiệp hoá hiện đại hoá thành công.
Vốn để công nghiệp hoá hiện đại hoá có hai nguồn : trong nước và ngoài nước .
Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở sản xuất hiệu quả, là lao động thặng dư của người lao đọng thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng xuất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ , hợp lý hoá sản xuất.
Ở nước ta hiện nay, để tăng năng xuất lao động xã hội tạo nên nguồn vốn cho tích luỹ, trức hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụngj tốt quỹ lao đọng tập chung sức phát triển nông nghiệp công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu …Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỉ lệ tiết kiệm với một khối lượng của cải nhất định, tỉ lệ tiết kiệm càng cao , nguồn vốn càng lớn . Do đó để công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công ta phải triệt để tiết kiệm, coi tiết kiệm là quốc sách, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng , lãng phí … Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào các chính sách kinh tế như: cính sách cơ cấu các thành phần kinh tế , chính sách thuế, chính sách lãi xuất … Do đó , xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển là yêu cầu khách quan. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập , tự chủ là tiền đề huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài … Do đó về việc đề cao nội lực là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Tiến lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu làm cho việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế hết sức kho khăn, đăc biệt trong thời kỳ đầu . để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn : vì nghèo lên tích luỹ thấp, tích luỹ thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó khăn, cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút cá nguồn vố từ bên ngoài đây là nguồn vốn có vai trò rất qun trọng, khong những giúp các nước nghèo khắ phục một phần khó khăn về vốn trong thời kỳ đầu mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tao việc làm cho người lao động… Vì vậy tranh thủ nguồn vố bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
Để huy động và sủ dụng có hiệu quả nguồn vốn, xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có thị trường vốn, người sử dụng vốn sẽ nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác sẽ có thu nhập. Đồng thời, khi có thị trường vốn, đồng vốn sẽ dễ dàng chuyển dịch từ nơi có hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao. Do đó, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển thị trường vốn ở trong nước ta là rất cần thiết .
Quy mô huy động và hiệu quả sử dụng vốn còn tuỳ thuộc vào môi trường vĩ mô. Môi trương vĩ mô cang thuận lợi thì quy mô huy động và hiệu quả sự dụng vốn cang cao . Do đó , tạo môi trương vĩ mô thuận lợi cho các hoạt động đầu tư cũng là giải páhp kinh tế quan trọng .
Xây dựng môi trường vĩ mô thuận lợi tức là giữ ổn đinh về chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam; xây dưng cơ sở hạ tâng cho nền kinh tế , xây dưng chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phat triển của nền kinh tế , xây dưng môi trường pháp lý thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế .
2. Đào tạo nguồn nhân lực
Công nghiệp hoá , hiện đại hoá không chỉ đòi hỏi phải có vốn kỹ thuật , tài nguên .. mà còn một cách tương xứng năng lực của con ngưòi sử dụng những phương tiện đó . nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá bao gồm những người có khả năng quên mình về nền độc lập vì sự phồn inh của tổ quốc , đuợc chuẩn bị tốt về kién thức văn hoá , đươc đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp , về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh té và toàn xã hội , có rình độ khoa học kỹ thuất vươn lên ngang tầm thế giới . Trong đó lấy xây dưng giai cấp công nhân là trong tâm.
Để có nguuồn nhân lực phù hợp với nhu cầu công nghiệp hoá , hiện đai hoá , phải coi việc đầu tư cho giáo dục đào toạ là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo phải chở thành quốc sách hàng đầu. Phải tạo ra được cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa hoc xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế … viẹc xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiịep hoá hiịen đại hoấ phải tiíen hành với tốc độ và quy mô thích hợp đáp ưng yêu cầu trong công nghiệp hoá hiện đại hoá . Đi đôi với nó là sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo , phát huy đầy đủ khả nằng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
3. Phát triển khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung, công nghiệp hoá hoá hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia .
Là một nước quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực khoa hoc và công nghệ của nước ta còn yếu .Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải xây dựng phải một tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đỏi hỏi của sự nhgiệp công nghiệp hoá. phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa học công mghệ của nước ta đạt trình độ của cá nước tiến tiến tomg khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng .Muón vậy , trong giai đoạn trước mqắt , việc phát triển khoa học công nghệ nước ta phải tập trung vào các hướng sau :
Phát triển khoa hc và cộng nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa hoc công nghệ và kinh tế tri thức trên thế giới. Cố gắng đi ngay vào cồn nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vưc then chốt và tường bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế.Chú trọng đúng mức việc phát triển khoa học công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm .
Phát triển khoa học xã hội hướng vao việc tiếp tục ghóp phần làm sáng tỏ những nhận thức về CNXH ở nước ta, giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng XHCN, con đương, bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những nguyên tắc, nội dung cơ bản của phát huy dân chủ XHCN .
Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghien cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt những lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh .
Phát triển công nghệ , kết hợp đẩy mạnh có chon lọc việc nhập khẩu công nghệ đẻ kết hợp công nghệ nội sinh nhanh trong nâng cai công nghệ của cá ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp bổ trợ và tạo việc làm cho xã hội , phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới .
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt cộng nghệ cao cung với những thành tựu mới của khoa học công nghệ… để từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho việc ứng dụng vào các ngành kinh tế xã hội một cách nhanh chóng và khai thác, sử dụng hợp lý, bảo vệ tốt nguồn tài nguyên quốc gia.
Mở rộng hợp tác khoa học cộng nghệ với các nước và các tổ chúc kinh tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựukhoa học cộng nghệ của thế giới ; tranh thủ sự ủng hộ vá giúp đỡ quốc tế.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm đẩy mạnh các hinh thức đáo tạo và sử dụng cán bộ khoa học , chú trọng đào tạo lớp chuyên gia đầu đàn , tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành khoa học công nghệ.
4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển mở rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước càng dược tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rông quan hệ kinh tée đối ngoại là việc thu hút nhiều vốn đầu tư bên ngoài , là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại , là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá được thuận lợi.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đã và đang là mối liên hệ và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia .Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng về điêu kiện để các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý… để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
5.Tăng cường sự lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước
Đây là tiền đề quan trong quyết định thăéng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta .Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá là sự nghiệp mang tính tự giác, sự nghiệp đó phải do một đảng công sản tiên phong dày dặn kinh nghiêm chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lành mạnh và có hiệu lực quản lý công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH mới có thể hình thành .
Tăng cưòng sự lãnh đạo của đảng công sản Việt nam đối với công nghiệp hoá , hiện đại trước hết là phải tiếp tục giũ vững ổn định chính trị , Đảng cộng sản phải là người lãnh đạo duy nhất , trục tiếp toàn diện mọi hoạt động củ xã hội việt nam .
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải thực hiện trên đường lối , quan điểm của đảng cộng sản việt nam . Đây là nhân tố trực tiếp đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiẹn dại hoá ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.doc