Quá trình ra đời chữ quốc ngữ và văn hóa – Văn học quốc ngữ

Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài Đầu tiên, lý do quan trọng và trực tiếp khiến tôi chọn “Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học quốc ngữ” làm đề tài đó là, đề tài này sẽ giúp tôi rèn luyện khả năng viết tiểu luận và hoàn thành học phần “Thực tập viết tiểu luận”, mà tôi phải học trong quá trình ngồi trên ghế giảng đường. Thứ đến, tìm hiểu đề tài Quá trình ra đời của chữ Quốc ngữ và Văn hóa – văn học quốc ngữ, giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan và chính xác về giá trị của chữ Quốc ngữ và công lao những con người đã sáng tác ra nó. Nói như vậy, sở dĩ trong lịch sử nước ta, đã có thời lên án gay gắt, loại bỏ, bài bác chữ Quốc ngữ. Cho nó là thứ ngôn ngữ của quân đi xâm lược, của bọn thực dân. Nhìn lại quá khứ, nước Việt Nam chúng ta cũng đã sử dụng chữ Hán – thứ ngôn ngữ của quân đi xâm lược, cũng có thời, chúng ta đã loại bỏ chữ Nôm – ngôn ngữ được người Việt Nam chúng ta Việt hóa. Chữ Nôm bị loại bỏ vì trong hệ tư tưởng Nho giáo, nó là loại ngôn ngữ không chính thống, cùng với chữ Nôm, văn học viết bằng chữ Nôm cũng không được coi trọng. Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ ra đời, bắt đầu cuộc đấu tranh với chữ Hán và chữ Nôm, khẳng định những ưu điểm tối ưu mà chữ Hán, chữ Nôm không có được. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ đã khẳng định dược chỗ đứng, và kể từ đó một nền văn hóa, văn học quốc ngữ thực sự được mở ra tạo nên thời kỳ phát triển mới của văn học Việt Nam. Tóm lại, tìm hiểu về quá trình ra đời chữ quốc ngữ và nền văn hóa văn học quốc ngữ, nó có thể đáp ứng cho tôi yêu cầu hoàn thành học phần Thực tập viết tiểu luận, ngoài ra, việc tìm hiểu đề tài này còn cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích về ngôn ngữ, lịch sử và về văn học – văn hóa. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài, Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học quốc ngữ, là đề tài chứa đựng những tư liệu rộng lớn, những kiến thức của đề tài trên đã được hình thành tồn tại, phát triển qua thời gian dài và còn được phát triển mãi về sau. Vì thế, đối tượng nghiên cứu tìm hiểu của đề tài này là : ngôn ngữ, cụ thể là chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Về phạm vi nghiên cứu, như trên đã nói, đề tài được nghiên cứu bao hàm những vấn đề lớn mà với dung lượng của bài viết này thì không thể đáp ứng được một cách đầy đủ. Do đó, đề tài trên được giới hạn phạm vi nghiên cứu tìm hiểu trong giai đoạn sơ khai của đối tượng nghiên cứu. Tức là, giai đoạn mà những đối tượng nghiên cứu được hình thành và bắt đầu khẳng định được chỗ đứng. III. Ý nghĩa đề tài Tìm hiểu nghiên cứu về sự ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ, cùng với hệ quả của nó là nền văn học – văn hóa quốc ngữ được khai sinh cho chúng ta những ý nghĩa bao quát về mặt lý luận cũng như mặt thực tiễn. Về ý nghĩa lý luận, nghiên cứu đề tài trên cho chúng ta những luận cứ, luận điểm khách quan về chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Những luận điểm luận cứ đó dựa trên những sự thực lịch sử đã được ghi chép của Việt Nam. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu sự ra đời của chữ quốc ngữ và nền văn hóa – văn học quốc ngữ, cung cấp cho chúng ta những kiến thức bổ ích về nguồn gốc ra đời cùng sự phát triển qua các thời kỳ của tiếng Việt. Ngoài ra, nó còn cho chúng ta một cái nhìn khách quan về sự cống hiến vô vị lợi của các nhà truyền giáo khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Qua tìm hiểu đề tài trên, chúng ta còn biết được quá trình đặt nền móng và sự phát triển của nền văn học – văn hóa quốc ngữ. IV. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu nghiên cứu được đề tài này, tôi chủ yếu dựa vào các tác phẩm nghiên cứu về chữ quốc ngữ và nền văn học quốc ngữ. Ngoài những tác phẩm đó, tôi còn dựa vào những tư liệu lịch sử đã được ghi chép trong các sách sử học của Việt Nam. Ngoài ra, những kiến thức cá nhân tôi đã lĩnh hội được trong quá trình ngồi trên ghế nhà trường và cả những tri thức đã đọc được trên các trang báo. Những kiến thức đó, tôi đã tổng hợp, vận dụng để làm bài tiểu luận này. V. Lược sử vấn đề Theo giòng phát triển của tiếng Việt cũng như sự phát triển của văn học Việt Nam, chúng gặp thấy rất nhiều công trình nghiên cứu về chữ Quốc ngữ và văn học quốc ngữ. Cụ thể như : Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, tập 3 Văn học hiện đại 1862-1945). Viện Văn học, Sơ Thảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam 1930-1945, Thế Phong, Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam Trên đây là những công trình nghiên cứu tổng hợp của một số tác giả tiêu biểu. Từ những công trình nghiên cứu này, chúng ta có thể gặp thấy các vấn đề, đối tượng nghiên cứu của tập tiểu luận.

pdf22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8640 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình ra đời chữ quốc ngữ và văn hóa – Văn học quốc ngữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lịch sử, chúng ta thường quy kết công lao to lớn về cho Alexandre de Rhodes còn được gọi với cái tên Đắc Lộ (1591-1660) khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ, nhưng thực ra, chữ quốc ngữ được tạo ra không phải do một cá nhân nào mà là do một nhóm người. Cụ thể, nhóm người này là các nhà truyền giáo chủ yếu là người Bồ Đào Nha và một số người Pháp, các nhà truyền giáo đã tiếp nối nhau để hoàn thành quá trình chế tác ra chữ quốc ngữ, và đến Alexandre de Rhodes người đã đưa chữ quốc ngữ hoàn thiện giống tiếng Việt ngày nay. Ở tập tiểu luận này, tôi tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ chủ yếu dựa vào công trình nghiên cứu của Lm. (linh mục) Đỗ Quang Chính, đó là tác phẩm Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659. Để thực hiện được công trình nghiên cứu của mình, Đỗ Quang Chính đã phải cất công sang Roma – thủ đô của đạo Công giáo, ông đã tìm hiểu kỹ càng về các tài liệu về chữ quốc ngữ đã được lưu trữ trong văn khố của Tòa thánh Vaticano. Đây là một công trình nghiêm chỉnh về Lịch sử chữ quốc ngữ, cho chúng ta cái nhìn khách quan và chân thực về nguồn gốc chữ quốc ngữ. Mở đầu chương hai, khi bàn về nguồn gốc của chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính đã có những nhận xét tổng quát như sau : Chữ Việt ngày nay là một thứ chữ đã được nhiều linh mục dòng Tên ở Việt Nam (với sự cộng tác âm thầm của một số Thầy giảng Việt Nam) vào thế kỷ 17 sáng tạo ra. Nói một cách tổng quát thì họ đã dùng mẫu tự La tinh, rồi dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hy Lạp, để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng . (Đỗ Quang Chính, 1972, tr. 19-76) Dựa vào công trình nghiên cứu của Đỗ Quang Chính, có thể chia quá trình ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ thành các phần như sau. I.1. Giai đoạn sơ khởi (1620 - 1626) Vào giữa thế kỷ XVI, các nhà truyền giáo châu Âu đã đặt chân lên đất Việt chúng ta. Đến đầu thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo dòng Tên gồm một số người Âu châu, Nhật Bản và Trung Quốc chính thức truyền đạo tại Việt Nam. Kể từ thế kỷ XVII trở đi, các nhà truyền giáo đã chính thức thay nhau đến truyền đạo ở nước ta. Công cuộc chế tác chữ quốc ngữ được khởi phát khi các nhà truyền giáo này không thu được kết quả cao trong hoạt động truyền giáo của họ, vì một lý do to lớn và trực tiếp là do không thông thảo tiếng bản địa. Theo suy luận của riêng tôi, đây là lý do trực tiếp khiến chữ quốc ngữ ra đời, vì thế có thể khẳng định, ban đầu mục đích của các nhà truyền giáo khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ là để phục vụ cho công cuộc truyền đạo – mục đích tôn giáo. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 4 - Theo Đỗ Quang Chính, ngày 06/01/1615, ba tu sĩ Dòng Tên là hai Lm. Francesco Buzomi (Ý), Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Dias (Bồ Đào Nha), đáp tầu buôn Bồ Đào Nha từ Áo Môn đi Đàng Trong, và tới Cửa Hàn ngày 18/01/1615. Sau đó mấy tháng các ông đến ở Hội An… Ba nhà truyền giáo mà chúng ta vừa nói, đến Hội An với mục đích đầu tiên là giúp đỡ giáo hữu Nhật về mặt tôn giáo, và nhờ người Nhật làm thông ngôn để tiếp xúc với người Việt Nam. Sau năm 1615, nhiều tu sĩ dòng Tên khác không những đến truyền giáo ở Đàng Trong mà cả Đàng Ngoài nữa, nhưng đa số là người Bồ Đào Nha. Các nhà truyền giáo tới Việt Nam thời ấy đều phải học tiếng Việt mới có thể tiếp xúc với người Việt Nam. Theo chúng tôi biết thì Lm Francisco de Pina là người Âu châu đầu tiên nói thảo tiếng Việt. Pina sinh năm 1585 ở Bồ Đào Nha, ông tới Đàng Trong năm 1617. Lúc đầu sống ở Hội An, sang năm 1618 ông ở tại Nước Mặn với Buzomi và Borri. Hai năm sau, ông trở lại Hội An, rồi năm 1623, Pina đến ở tại Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng nam Dinh. Pina chết đuối ở bờ bể Quảng Nam ngày 15/12/1625. Nhờ biết tiếng Việt, nên ngay từ năm 1620, các tu sĩ dòng Tên tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng “chữ Đàng Trong”, tức là chữ Nôm. Cuốn sách này vì soạn bằng chữ Nôm, nên chắc chắn phải có sự cộng tác của người Việt. Nhưng chúng tôi thiết tưởng cuốn sách này cũng được viết bằng chữ Việt mới nữa (chữ quốc ngữ ngày nay), mà người có công soạn thảo là Lm. Francisco de Pina, ví lúc đó chỉ có ông là người Âu châu thảo tiếng Việt nhất. Theo sự nhận xét của chúng tôi thì vào năm 1620 dù Lm. Pina đã nói được tiếng Việt, nhưng khó lòng mà phân biệt được lối cách ngữ như chúng ta đang dùng ngày nay. Dựa vào những tài liệu viết tay năm 1621-1626, chúng tôi tôi biết được hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó. Chính dựa theo hai đặc điểm này mà chúng tôi cho là giai đoạn sơ khởi chữ quốc ngữ. (Đỗ Quang Chính, 1972, tr. 20-24) Bảy tài liệu viết tay đã được trình bày. Đó là những tài liệu của: Joao Roiz năm 1621, Gaspar Luis năm 1521, Cristoforo Borri năm 1621, Đắc Lộ năm 1625, Gaspar Luis năm 1626, Antonio de Fontes năm 1626 và Francesco Buzomi năm 1626. Trong những tài liệu này, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ: Annam = An Nam Unsai = Ông Sãi Ungue = Ông Nghè Bafu = Bà Phủ doij = đói scin mocaij = xin một cái Sayc Chiu = Sách chữ Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 5 - Ở giai đoạn này, theo nhận xét của Lm. Đỗ Quang Chính, chữ quốc ngữ mang những đặc tính chung là : hầu hết các chữ còn viết liền và chưa thấy đánh dấu vào những chữ đó. I.2. Giai Ðoạn Hai (1631-1648) Sang giai đoạn thứ hai 1631 – 1648, mười một tài liệu viết tay đã được nhắc đến. Hai tài liệu được nhắc đến, nhưng không tìm được tài liệu lưu trữ. Đó là cuốn tự điển Việt - Bồ - La của linh mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita - português - latim) và cuốn tự điển Bồ - Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa. Năm tài liệu của cha Đắc Lộ, viết vào tháng 1/1631, tháng 5/1631, năm 1636, năm 1644 và năm 1647. Hai tài liệu của Gaspar d’Amaral năm 1632 và năm 1637. Hai tài liệu về biên bản hội nghị viết tay năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam : năm 1645 và 1648. Mười một tài liệu này cho thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ nhìn tương tự như chữ quốc ngữ ngày nay, nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác. Thính hoa: Thanh Hóa Oũ bà phủ: Ông bà Phủ Hụyen: huyện Sãy: sãi Chuá thanh đô (Chúa Thanh đô, Thanh đô vương Trịnh Tráng) Chuá cả (Chúa Cả, tước hiệu dành cho Trịnh Tạc) Đức Chuá Blờy sinh ra chín đớng thiên thần la cuôn cuốc Đức Chuá Blờy (Đức Chúa Trời sinh ra chín đấng thiên thần là quân quốc Đức Chúa Trời) Nhiều chữ được viết như chữ quốc ngữ ngày nay. Thí dụ như: Nghệ An Bố Chính Kẻ chợ Đàng ngoài Một nam, một nữ (Đỗ Quang Chính, 1972, tr. 20-76) Ở giai đoạn hai, cũng theo nhận xét của Đỗ Quang Chính, những đặc tính chung của chữ quốc ngữ là chữ quốc ngữ đã được viết khá đúng về hai phương diện ; cách ngữ và dấu. Trên đây là hai giai đoạn cơ bản hình thành nên chữ quốc ngữ trước khi loại chữ này chính thức được khai sinh. Mốc đánh dấu sự ra đời chính thức của chữ quốc ngữ bắt đầu từ khi Alexandre de Rhodes cho xuất bản hai cuốn, tự điển “Việt - Bồ - La” và cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày” . Hai tác phẩm này sẽ được bàn đến ở các mục sau. I.3. Cuốn tự điển Việt - Bồ - La, và cuốn Phép giảng tám ngày Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 6 - I.3.1. Cuốn tự điển Việt - Bồ - La Cuốn tự điển “Việt - Bồ - La”, có tên bằng tiếng Latinh là “Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°” Trong lời mở đầu của cuốn tự điển, Alexandre de Rhodes cho biết ông soạn được cuốn tự điển này vì : thứ nhất ông đã lưu trú mười hai năm cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Thứ hai ông đã học tiếng Việt, nhất là về thanh và âm, với một cậu bé Việt Nam mười ba tuổi. Thứ ba ông cũng đã học tiếng Việt với cha Francois de Pina người Bồ, là người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng Đàng Trong, người thứ nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Thứ bốn ông đã sử dụng tự điển Việt - Bồ của cha Gaspar d’Amaral và tự điển Bồ - Việt của cha Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ. Trong, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Đỗ Quang Chính đã mô tả về cuốn tự điển như sau : Cuốn tự điển được soạn bằng ba thứ chữ Việt-Bồ-La (mà tên sách chỉ đề bằng chữ Latinh, rõ rệt hướng tới độc giả giáo sỹ truyền giáo Âu châu), với hai mục đích đã được tác giả ghi rõ ; thứ nhất, giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt, để có thể truyền giáo; thứ hai, chiều theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã, thêm chữ La tinh vào, để người Việt Nam có thể học thêm La ngữ. Cuốn tự điển gồm ba phần chính: Lingvae Anmiticae seu Tvnchinensis brevis declaratio, ba mươi mốt trang, từ trang 1 đến 31, được sắp lên đầu cuốn tự điển và được đánh số tách biệt với cuốn tự điển. Ðây là cuốn ngữ pháp Việt Nam, nhưng soạn thảo bằng La ngữ, với mục đích cho người Tây phương Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 7 - học. Tuy sách vắn, nhưng tác giả cũng chia ra 8 chương rõ rệt, không kể Lời Nói Ðầu: Chương I: Chữ và vần trong tiếng Việt (De literis et syllabis quibus haec lingua constat). Chương II: Dấu nhấn và các dấu (De Accentibus et aliis signis in vocalibus). Chương III: Danh Từ (De Pronominibus). Chương IV: Ðại danh từ (De Pronominibus). Chương V: Các đại danh từ khác (De aliis Pronominibus). Chương VI: Ðộng từ (De Verbis). Chương VII: Những phần bất biến (De reliquis orationis partibus indecli nabilibus). Chương VIII: Cú pháp (Praecepta quaedam ad syntaxim pertinentia). Dictionarivm Ananmiticvm seu Tunchinense cum Lusitana, et Latina declaratione. Phần này không đánh số trang nhưng ghi theo cột chữ (mỗi trang có hai cột chữ). Từ đầu đến cuối là 900 cột, từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để cách một trang trắng, có khi hai trang trắng. Một điều khác đặc biệt với tự điển Việt Nam ngày này, Ðắc Lộ thêm mẫu tự /b sau mẫu tự b. Thực ra đó là một số chữ thuộc mẫu v bây giờ. Ví dụ : /bá (vá: vá áo), /bã (vã: vã nhau, tát nhau), /bạch (vạch: vạch tai ra mà nghe), /bậy (vậy: ấy vậy), /bán (ván: đỗ, đậu ván), /bỗ (vỗ: vỗ tay), /bỏ (vỏ: vỏ gươm), /bua (vua: vua chúa), /bú (vú). Mẫu tự /b này chiếm 10 cột, tức 5 trang giấy. Index Latini sermonis là phần thứ ba cuốn tự điển. Trong phần này, tác giả liệt kê chữ La tinh có ghi trong phần hai và bên cạnh mỗi chữ có đề số cột, với mục đích để người học tiếng Việt, nếu đã biết La tinh, thì dò theo phần này để tìm chữ Việt ở phần kia. Trong phần này không đánh số trang, cũng không ghi số cột (mỗi trang có hai cột chữ). Chúng tôi đếm được 350 cột tức 175 trang. (Đỗ Quang Chính, 1972, tr. 84-86) I.3.2. Cuốn Phép giảng tám ngày Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 8 - (Hình chụp sách chính bản, lưu trữ tại Thư Viện Á châu, Hội Thừa sai Hải Ngoại Paris) Cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày” có tên bằng tiếng Latinh và tiếng Việt như sau: “ Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°”. Ðây là một cuốn giáo lý mà tác giả muốn viết cho những người dạy giáo lý dùng. Cuốn sách được viết bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh (chữ xiên), bên tay phải là chữ Việt (chữ đứng). Ðể độc giả dễ dàng đối chiếu hai thứ chữ, Ðắc Lộ đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách có 319 trang, không đề Lời tựa. Sau trang bìa và trang ghi ngày được phép in sách, là đến phần chính ngay. Viết sách này, tác giả không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học, có tính cách sư phạm, và như chúng ta đã biết là sách được chia ra Tám ngày. (Đỗ Quang Chính, 1972, tr. 86) Trên đây là tóm tắt quá trình hình thành chữ quốc ngữ, và lược qua những nội dung chính của hai tác phẩm có ý nghĩa đánh dấu sự khai sinh ra chữ quốc ngữ. Tiếp theo, tôi xin trình bày sơ lược cuộc đời của Alexandre de Rhodes, một số ý kiến xoay quanh vai trò của Alexandre de Rhodes về việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Ngoài ra, còn có một số ý kiến cho rằng chữ quốc ngữ có ý nghĩa chính trị, và việc khôi phục lại danh dự cho những con người có công chế tác ra chữ quốc ngữ - đặc biệt là Alexandre de Rhodes. I.4. Cuộc đời của Alexandre de Rhodes Alexandre de Rhodes (A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ) (15 tháng 3, 1591 – 5 tháng 11, 1660) nhưng một số tài liệu khác lại cho rằng ông sinh năm 1593 tại Avignon, Pháp. Gia đình Alexandre de Rhodes thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo Hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo Hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ). Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ. Ông đã gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24 tháng 4 năm 1612, đó là thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển. Ngày 4 tháng 4 năm 1619 Ông lên đường truyền giáo tại Nhật Bản, nhưng sau đó lại được Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 9 - chỉ định đi Trung Hoa. Đầu năm 1625 Ông đặt chân đến Việt Nam. Ở đây Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng mẫu tự La tinh. Trong 20 năm ở Việt Nam Ông bị trục suất đến 6 lần và ngày 5 tháng 11 năm 1660 Ông mất ở Ispahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam. Alexandre de Rhodes là một người cường tráng, vui vẻ và lạc quan, luôn nhìn khía cạnh tích cực của vấn đề. Ông thích nghi nhanh chóng với mọi môi trường sống và cư xử giản dị trong giao tế với người khác. Ông có một kiến thức sâu rộng về thiên văn học và toán học. Trước khi đến Việt Nam truyền đạo, Alexandre de Rhodes đã được Bề trên dòng Tên phái đi truyền giáo ở Nhật Bản, Trung Quốc và đến đầu năm 1625, Alexandre cùng với bốn linh mục dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ông là các linh mục đã đến Việt Nam truyền đạo trước ông và một cậu bé người Việt khoảng mười hai hoặc mười ba tuổi. Ông viết: Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latinh và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thầy giảng giúp việc các cha truyền giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng giềng. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng. Thời gian Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các linh mục thừa sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Alexandre de Rhodes, ông đã truyền đạo từ Nam ra Bắc. Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Khi trở lại châu Âu, Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin Tòa Thánh gửi các giám mục truyền giáo đến Á châu, để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ Điển Việt - Bồ - La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ông mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 ở Ispahan - Ba Tư, mười lăm năm sau lần cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 10 - I.5. Một số ý kiến bàn về vai trò của Alexandre de Rhodes trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ Xoay quanh vấn đề này, tôi chủ yếu bàn về những ý kiến đánh giá, chỉ trích của GS. TS. (giáo sư, tiến sĩ) Vật lý Phạm Văn Hường đối Alexandre de Rhodes về vai trò sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Bài viết của GS. TS Phạm Văn Hường có thể sơ lược qua như sau: xin trích nguyên văn một đoạn của bài viết. “Từ điển Việt – Bồ – La tinh Vậy Alexandro de Rhodes là ai, có phải là Alexandre Rhodes hay không? Tôi có đi Macau, tìm nguồn nhưng vô hiệu. Tôi cũng tìm đến nơi gia đình họ Rhodes ở gần Avignon. Gia đình người Pháp này có gốc Y Pha Nho. Linh mục Công giáo địa phận này cho tôi tài liệu in bức thư của Alexandro Rhodes khi ông này xin giáo hội dòng Jesus cho ông đi truyền đạo ở Đông Nam Á. Cuối bức thư ấy quả thật có tên Alexandro Rhodes. Nhưng khi rời Á Đông trở về Âu châu, ông này đã kèm thêm tên "de" quý phái khi ra quyển từ điển lịch sử ấy! Đó là lừa đảo, hay nói thẳng ra đó là hành vi “đạo” công trình của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, lại tự ý ghép tên mình thêm chữ de kệch cỡm! Hành vi “đạo” công trình rất rõ, vì không am hiểu người Việt nên Alexandre viết sai chữ độc nhất trên bìa: Annam viết là Annnam. Có người nói rằng đó là chữ quốc ngữ độc nhất sáng tạo bởi Alexandro Rhodes cũng không xa sự thật lắm! Nếu rời trang bìa mà nhìn vào trong sách, lại thấy cách tạo chữ Việt chỉ căn cứ trên cách viết Bồ Đào Nha. Ví dụ phụ ngữ nh chỉ Bồ Đào Nha mới có. Tất cả Âu châu không nơi nào có. Ở Anh thì dùng ng, ở Espaía (Tây Ban Nha) thì dùng í, ở Pháp thì dùng gn để viết âm nhơ. Alexandro khó mà tạo ra nh Việt Nam. Vị đạo sĩ “đạo” công trình này còn hoang mang dẫn đến sai sót chết người trong cuốn Phép giảng tám ngày. Thường lệ, lễ đạo theo chu trình 7 ngày hay một tuần lễ. Hai giáo sĩ Bồ Đào Nha không những chỉ sáng tạo ra chữ quốc ngữ mà còn đặt ra nhiều Việt ngữ mới. Trong các nước Âu châu, Anh, Đức, Ý - đất của giáo hội Vatican, Pháp - đất sinh của Rhodes, ngày chủ nhật là ngày cuối tuần. Chỉ có ở Lusitana, tên Bồ Đào Nha xưa, chủ nhật là ngày lễ đầu tuần. Kế tiếp là ngày lễ thứ hai, feria secundo, v.v... Dựa theo truyền thống Bồ Đào Nha, họ đã tạo nên những Việt ngữ: chủ nhật, thứ hai, thứ ba v.v... cho đến thứ bảy. Thứ tự những ngày lễ trong tuần này khác hẳn thông lệ ở Pháp, nơi chôn nhau cắt rốn của Alexandro. Có lẽ trước sự hoang mang, bán tín bán nghi, không biết lễ chủ nhật nằm đầu tuần hay cuối tuần nên Rhodes sinh ý Phép giảng tám ngày. Sự đạo công trình của Alexandro còn tái diễn một lần nữa khi ông ta đứng tên mình in ra quyển Tường trình về Nhật Bản với sự tài trợ của công chúa Đan Mạch, mặc dầu tác giả thực sự của công trình này là một giáo sĩ khác thuộc Dòng Tên. Điều gian dối này buộc giáo đoàn Dòng Tên, công khai tố cáo và cảnh giác. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 11 - Cũng vì thế, sau này khi Alexandro Rhodes xin phép giáo hội để trở lại Đông Nam Á, thì bị khước từ. Tiếp theo đó Alexandro trôi dạt vào Iran cho đến một ngày đầu tháng 11- 1660 thì chết ở Isfahan, thọ 69 tuổi, kết thúc một đời tu hành gian trá. Tuy thế, dù sao đi nữa chúng ta cũng ghi nhận rằng Alexandro de Rhodes đã đưa ra xuất bản những công trình về chữ quốc ngữ sáng tạo bởi hai người Bồ Đào Nha: Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa. Hai vị thầy vĩ đại này xứng đáng gợi chúng ta lập tượng đài tưởng niệm, chứ không phải Alexandro Rhodes!” (Phạm Văn Hường, Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ ) Qua một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu về nguồn gốc chữ quốc ngữ, theo ý tôi là chưa được tường tận và chính xác khách quan cho lắm thì Phạm Văn Hường đã đi đến kết luận một cách nặng nề đối với Alexandre de Rhodes. Theo bài viết, ông đã tìm hiểu và xác nhận cuốn tự điển Việt - Bồ - La không phải là của Alexandre de Rhodes, chữ quốc ngữ không phải do Alexandre de Rhodes khai sinh. Đến đây, chúng ta có thể đặt câu hỏi : Phải chăng, Phạm Văn Hường đã có thành kiến sâu sắc về Alexandre de Rhodes, hay ông ta chưa tìm hiểu cặn kẽ mà đã đưa ra lời kết luận vội vàng ? Nhưng dù sao đi nữa, bài viết này cũng cho chúng ta một cái nhìn mới về một khía cạnh mới về con người của Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ. Ở đây, với tư cách là người viết tiểu luận, tôi xin đưa ra những kiến giải khách quan của riêng tôi để góp phần làm rõ ràng hơn về con người Alexandre de Rhodes, và để bạn đọc tiếp nhận một cách khách quan và chính xác đối với bài viết của GS. TS. Phạm Văn Hường. Rõ ràng, đọc xong bài viết, chúng ta thấy nó lạ và khó chấp nhận. Sở dĩ như vậy, vì đây là bài viết khẳng định ngược với những tư liệu liên quan đến quá trình chế tác ra chữ quốc ngữ, tác giả bài viết đã phủ định hoàn toàn công lao – vai trò của Alexandre de Rhodes trong việc khai sinh ra chữ quốc ngữ. Tác giả bào báo đã đúng khi ông nghiên cứu và thấy rõ, trước cuốn tự điển Việt - Bồ - La (tạm thời cứ đứng tên tác giả là Alexandre de Rhodes ) đã xuất hiện hai cuốn tự điển của hai vị giáo sĩ khác. Hai cuốn đó là : tự điển Việt - Bồ của Gaspar d’Amaral và tự điển Bồ - Việt của Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ. Bám sát vào công trình nghiên cứu Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1651 của Lm. Đỗ quang Chính, thì hai cuốn tự điển trên mới chỉ có hai ngôn ngữ ; đó là tiếng Việt và tiếng Bồ Đào Nha, chúng ta chưa thấy có tiếng Latinh. Như vậy, dựa vào yếu tố này chúng ta có thể đảo ngược lời kết luận vội vàng của Phạm Văn Hường. Ngoài ra, theo các nguồn tài liệu khác nhau tôi được biết, trong lời tựa của cuốn tự điển Việt - Bồ - La, Alexandre de Rhodes có viết : xin trích nguyên văn từ cuốn Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 -1651 ; “Về cuốn từ điển, thì chính cha Đắc Lộ đã nói rõ trong lời tựa nói với độc giả rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn và từ điển Bồ - Việt của Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ..”. Như vậy, để hoàn thành được cuốn từ điển Việt - Bồ - La, rõ ràng Alexandre Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 12 - de Rhodes đã cho biết ông đã kế thừa từ hai cuốn từ điển của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, cùng vốn kiến thức ông đã tiếp thu được các vị truyền giáo ở Việt Nam trước ông và của người bản xứ. Đến đây, chúng ta có thể tạm nhìn nhận rằng ; những kết luận vội vàng và cay nghiệt của Phạm Văn Hường đối với Alexandre de Rhodes là có phần thái quá. Phải chăng tác giả bài báo đi đến kết luận vội vàng như vậy vì ông có thành kiến quá sâu sắc đối với Alexandre de Rhodes, hay là vì ông ta chưa tìm đến đúng nguồn. Nói như vậy, nhưng dù sao đi nữa, đây là công trình mà vị giáo sư- tiến sĩ vật lý đã bỏ công nghiên cứu, với thành ý là tìm ngọn nguồn của chữ quốc ngữ. Có lẽ, đây là dấu “chấm phá” của tác giả bài báo. Trên đây là những kiến giải mặc dù là chưa được đầy đủ dẫn chứng và sắc bén về mặt ngôn từ, lập luận, nhưng nó cũng đã cung cấp cho chúng ta một cách nhìn về con người Alexandre de Rhodes và cách tiếp nhận bài viết trên của Phạm văn Hường. Để những kiến giải trên được thuyết phục hơn, tôi xin được phép trích dẫn một số đoạn trong công trình nghiên cứu về chữ quốc ngữ của Đỗ Quang Chính, cũng như các nguồn tài liệu khác như sau : Alexandre de Rhodes đã học tiếng việt và cho in hai sách trên thế nào ?. Ở một chỗ khác, trong một bài tường thuật ngắn, cha Đắc Lộ đã vắn tắt mô tả những bước đầu truyền giáo của ngài từ năm 1624 tại Việt Nam, việc học tiếng việt và việc xuất bản hai tập sách trên. Ngài nhắc lại việc cần thiết phải chuyên cần học tập tiếng việt nếu muốn truyền giáo hiệu quả, ngài cũng nhắc đến việc ngài học tiếng việt với một cậu bé việt nam và việc in sách tự điển, ngữ pháp và giáo lý. Ngài viết: Vì Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, nên bề trên tin rằng Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng Trong nhận Phúc âm. Thế là năm 1624, bề trên phái cha Mathêu Mattos, trước kia ở Rôma làm quản thủ các tỉnh dòng, đến thăm việc truyền giáo ở Đàng Trong, cùng với năm bạn đồng sự người Âu, trong số đó tôi hân hạnh là người thứ năm và một người Nhật thông thạo chữ Hán. Chúng tôi khởi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và sau mười chín ngày thì tới Đàng Trong, tất cả đều hồ hởi bởi hoạt động tốt. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông tạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu. Tiếng mới này còn thông dụng ở Đàng Ngoài, ở Cao Bằng, ở Đàng Trong và người ta còn nghe và hiểu ở ba xứ lân bang khác. Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được. Hết các tiếng đều độc vận và chỉ phân biệt ý do nhiều giọng nói khác nhau. Một chữ như “đại” chẳng hạn, có tới hai mươi ba nghĩa hoàn toàn khác nhau, do cách đọc khác nhau, vì thế khi nói thì như ca như hát. Tôi đã đề cập tới nhiều hơn trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài. Căn cứ vào đó thì thấy học thứ ngôn ngữ này không phải là dễ. Vì thế mà tôi thấy cha Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng, chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn vì nói rất thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích nhiều hơn bài các vị khác. Điều này khiến tôi tận tuỵ học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc. Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 13 - như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm. Tôi khuyên tất cả các vị nhiệt tâm muốn tới những tỉnh dòng chúng tôi để chinh phục các linh hồn, thì nên chuyên cần ngay từ buổi đầu. Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các mầu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí. Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả mỹ mãn, cậu rất mến thương tôi nên đã muốn lấy tên tôi. Từ ngày tôi trở về Au Châu, tôi đã cho in ở Rôma, nhờ các vị ở bộ Truyền giáo, một tự vị tiếng Đàng Trong, Latinh và tiếng Bồ, một cuốn ngữ pháp và một cuốn giáo lý, trong đó tôi bàn giải về phương pháp chúng tôi dùng để trình bày mầu nhiệm đạo thánh cho lương dân. Việc này sẽ có ích cho những người ao ước tới giúp việc giảng Chúa Kitô bằng ngôn ngữ tới nay chỉ dùng để sùng bái quỷ ma. (ALEXANDRE DE RHODES, HÀNH TRÌNH VÀ TRUYỀN GIÁO, chương 3, do Nguyễn Khắc Xuyên dịch). ( Ai là tác giả của hai tác phẩm này ? Vì tên tác giả đề ngoài sách chỉ có tên cha Đắc Lộ, thông thường chúng ta vẫn hiểu rằng đó là tác phẩm của riêng cha Đắc Lộ. Cách hiểu này không đúng với sự thực. Về cuốn từ điển, thì chính cha Đắc Lộ đã nói rõ trong lời tựa nói với độc giả rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn và từ điển Bồ Việt của Antonio Barbosa, cả hai đều là người Bồ.. Và một cách tổng quát, trong một nghiên cứu mới đây, Lm. Jacques ROLAND đã đưa ra một trả lời thực tế như sau: “Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền Bá Ðức Tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng cho các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Toà Thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là "tác gia" duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điêu này y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc này với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác. Còn cuốn giáo lý, có Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 14 - lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn la tinh được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp này đây là "phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các màu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc". Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công trình tập thể. ( I.6. Có hay không ý nghĩa chính trị của chữ quốc ngữ, và việc vinh danh Alexandre de Rhodes Như ở phần lý do chọn đề tài đã nói, đã có thời chữ quốc ngữ bị nước ta bài bác, những người có công khai sáng (được hiểu theo đúng nghĩa của nó) đã bị nhà cầm quyền và một số giới trí thức chỉ trích, lên án. Người ta còn cho rằng, chữ quốc ngữ ngoài ý nghĩa thực tiễn còn có ý nghĩa chính trị. Vì sao, xuất phát từ đâu mà có những nhận định như vậy ? Như chúng ta đã biết, Alexandre de Rhodes đã viết nhiều tác phẩm có liên quan đến việc truyền giáo ở các nước Đông Nam Á, cụ thể là ở Việt Nam. Một trong những tác phẩm đó có tên là : Divers voyages et missions (Hành trình và truyền giáo) do Cramoisy xuất bản tại Paris năm 1653 ở đoạn cuối chương 19 của phần thứ ba có một câu viết nguyên văn: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”. Dịch ra tiếng Việt là ; “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Ðức Giáo hoàng.” (Người dịch chú thích từ chiến sĩ ở đây: Nói chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xâm lăng – trang 289). (Hồng Nhuệ dịch, Hành trình và truyền giáo 1994, tr. 236) Từ câu nói trong tác phẩm trên, đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên cứu. Có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về câu nói của Alexandre de Rhodes được ghi trong sách Hành trình và truyền giáo, sau những cuộc tranh luận này, một số nhà nghiên cứu cho rằng chữ quốc ngữ có ý nghĩa chính trị. Để làm rõ vấn đề này, xin trích một số ý kiến tranh luận, và một số công trình nghiên cứu của một số học giả trong cũng như ngoài nước xoay quanh câu chữ nói trên của Alexandre de Rhodes. Những ý kiến dưới đây được trích từ Tạp chí Công giáo và Dân tộc. Thế nhưng, cũng chính câu nguyên văn này, tác giả Cao Huy Thuần trong bản Luận án tiến sĩ quốc gia – Khoa học Chính trị, ĐH Paris, tựa đề: Ðạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam 1857-1914, xuất bản tại Paris, năm 1968, lại đã trích không trọn Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 15 - câu và đã dịch ra tiếng Việt (do Hương Quê xuất bản ở Los Angeles – Mỹ, năm 1988) như sau: “Tôi tin rằng: Pháp (ông viết: écrivait il, Cao Huy Thuần thêm hai từ này) là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Ðông, cũng như ở đó, tôi sẽ có cách để có nhiều giám mục vốn là Cha và các Thầy của chúng ta ở trong các nhà thờ. Tôi rời La Mã ngày 11 tháng 9 năm 1652 với ý định đó”. Tác giả trích dẫn và sử dụng câu này như một luận cứ cho Luận án nhằm góp phần: "Trình bày những nguyên nhân và mối liên hệ giữa các nhà truyền giáo và chính quyền Pháp trong việc xâm lăng và đô hộ Việt Nam. Và qua Luận án này, chúng ta sẽ có đủ bằng chứng để thấy những nguyên nhân chính yếu trong việc Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam, từ đó đưa đến những tai họa mà dân tộc ta đã và đang gánh chịu trong suốt mấy thế kỷ nay” (trang 4). Tuy vậy, Cao Huy Thuần cũng đã đi đến một “kết luận” vừa phải: “Tìm cách phục hồi sự thật lịch sử, không hề nhằm kết tội một ai, lại càng không phải là gieo rắc bất hòa giữa người Thiên chúa và phi Thiên chúa. Trái lại, nó giúp hiểu rõ vấn đề để không phạm lại những lỗi lầm cũ. Những lỗi lầm đã gây nên nhiều tranh chấp đẫm máu giữa người Giáo và người Lương trong quá khứ và hiện giờ chúng còn ngăn cản họ cùng nhau sống hòa bình dưới một mái nhà. (Chúng ta không) né tránh vấn đề hay che đậy sự thật như người ta thường làm ở Việt Nam.” Một tác giả khác, người Anh, tên là Helen B. Lamb, trong công trình nghiên cứu, tựa đề Vietnam’s Will to Live, xuất bản năm 1972 cũng đã “dẫn dụng” câu trên của A. de Rhodes, dịch ra tiếng Anh. “I believed that France, as the most pious of all Kingdoms would furnish me with soldiers who would undertake the conquest of the whole Orient, and that I would find the means for obtaining bishops and priests who were French men to man the new churches” (tr. 38, 39). Ở đây, từ soldiers vẫn được hiểu là “nhiều binh lính”, cho nên tác giả đã “bình luận” thêm rằng: “A. de Rhodes ôm mộng nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chiếm Việt Nam làm thuộc địa” (“Alexandre de Rhodes held to his dream that France should play the key role in colonizing Vietnam”, p. 38). Giáo sư Hoàng Tuệ, trong cuộc Hội thảo quốc tế về “Nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam” – nhân 90 năm thành lập Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam – họp tại Hà Nội những ngày 3, 4, 5 tháng 12 năm 1992, có đọc bản tham luận “Về sự sáng chế chữ Quốc ngữ”, trong đó có đề cập đến vai trò của A. de Rhodes và có “dẫn dụng” câu trên của A. de Rhodes (nhưng lại không trích trực tiếp từ tác phẩm Hành trình và truyền giáo, nguyên bản của A. de Rhodes, bản in năm 1653, mà lại trích gián tiếp qua bản của De Francis mới viết năm 1977, và cũng không trích dịch trọn câu đủ ý). Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 16 - Giáo sư Hoàng Tuệ viết: “A. de Rhodes quê ở Avignon, lãnh địa của Giáo hoàng trên đất Pháp. Ông vẫn gắn bó với nước Pháp. Ông viết trong hồi ký: ‘Tôi nghĩ là nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Ðông và đặt nó dưới quyền Jésus Christ’. Ông đã tiến hành một chuyến đi Pháp. Ở đây ý kiến của ông được hoan nghênh. Kết quả là sự thành lập Société des Missions Étrangères de Paris năm 1661, chỉ bao gồm các giáo sĩ Pháp... Từ đó thế lực của Giáo hội Pháp ở Việt Nam mạnh lên. Có thể nghĩ là chữ Quốc ngữ, ngoài ý nghĩa thực tiễn, còn có ý nghĩa chính trị nhất định trong phạm vi các Giáo hội khác ở Việt Nam.” Do có ý kiến tham luận như vậy, nên nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu tại cuộc Hội thảo này đã có ý kiến trao đổi lại với giáo sư Hoàng Tuệ như sau: “Qua đoạn vừa trích trên đây, người đọc có cảm tưởng Giáo sư Tuệ đã ám chỉ A. de Rhodes là thân Pháp, xui Pháp đem binh lính xâm chiếm phương Ðông và chữ Quốc ngữ... còn có ý nghĩa chính trị”. Và đến lượt, ông Nguyễn Ðình Ðầu đã dịch lại câu trên của A. de Rhodes đồng thời chú thích một số từ dùng trong câu của A. de Rhodes, cũng là nhằm đối thoại và biện minh với giới nghiên cứu khoa học xã hội – nhân văn, như sau: “Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Ðông và đặt dưới quyền trị vì của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được Giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các Giáo hội này” (tức là Ðàng Ngoài và Ðàng Trong). Ông Nguyễn Ðình Ðầu biện giải thêm: “Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn “chinh phục toàn phương Ðông” là để cho “nước Cha trị đến”, chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. “Chinh phục” hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị. Vì ngộ nhận trên, người ta mới gán cho chữ Quốc ngữ “còn có ý nghĩa chính trị” vậy! Cũng vào thời gian cuối tháng 3-1993, tại một cuộc Hội thảo “Tưởng niệm A. de Rhodes, nhân 400 năm ngày sinh của ông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức tại Hội trường Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, có nhiều nhà khoa học tham dự, đọc tham luận. Trong đó Giáo sư sử học Ðinh Xuân Lâm, một lần nữa lại đề cập “câu chữ” trên đây của A. de Rhodes và dịch lại (theo đúng văn cảnh, bối cảnh lịch sử thế kỷ 17) cụm từ plusieurs soldats là "chiến sĩ truyền giáo", vào coi như “lần cuối cùng đính chính lại sự lầm lẫn" (dịch soldat là lính chiến, là quân lính đi xâm lược) như trước đây trong một số giáo trình lịch sử Việt Nam đã dẫn dụng. Chính trong cuộc Hội thảo đó của Hội Sử học đã đưa ra nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa v.v...) nhằm khôi phục vị trí xứng đáng Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 17 - cho linh mục A. de Rhodes, người đã góp phần quan trọng trong việc chế tác ra chữ Quốc ngữ cũng như một số hoạt động văn hóa (trứ tác các công trình sử học giá trị). Cũng do vậy mà hiện nay, đã có quyết định khôi phục lại tên đường phố Ðắc Lộ ở TP Hồ Chí Minh, dựng lại bia 1941(1) tại khuôn viên Thư viện Quốc gia ở Hà Nội v.v... Vấn đề đánh giá thỏa đáng công lao của A. de Rhodes đối với nền văn hóa Việt Nam, đến nay, đã có thể về cơ bản đáp ứng đúng đắn được tâm cảm của mọi người. Chúng ta thành kính ghi nhận tầm nhìn sáng suốt của các giới lãnh đạo của Ðảng và của Nhà nước đối với danh nhân văn hóa Alexandre de Rhodes. Các công trình trứ tác có giá trị của A. de Rhodes, như Từ điển Bồ La, Phép giảng tám ngày, Hành trình và truyền giáo, Lịch sử xứ Ðàng Ngoài cũng đã được in ấn, xuất bản lần lượt trong mấy năm qua và được bạn đọc đón nhận một cách trân trọng. Ðiều đó nói lên rằng, nhân dân ta biết rất rõ chân giá trị của A. de Rhodes và cũng đã dành cho ông một vị trí xứng đáng. Trên đây là tóm lược quá trình hình thành chữ quốc ngữ, tóm tắt cuộc đời và công việc truyền giáo của Alexandre de Rhodes tại Việt Nam, điểm qua một số ý kiến bàn luận về vai trò của Alexandre de Rhodes trong việc chế tác ra chữ quốc ngữ. Qua những kiến thức tổng lược đã được trình bày trong phần đầu của nội dung bài tiểu luận, đã phần nào cung cấp cho chúng ta những kiến thức cơ bản về nguồn gốc lịch sử chữ quốc và vai trò của một số người chế tác ra nó. Có thể, chúng ta sẽ có cách nhìn khách quan hơn về chữ quốc ngữ, đặc biệt, nhìn khách quan về công lao của những người chế tác ra nó là rất cần thiết. Tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về nền văn hóa, văn học quốc ngữ trong thời kỳ sơ khai của chúng. II. Nền Văn hóa – Văn học quốc ngữ Chữ quốc ngữ ra đời là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hiện đại hóa nền văn hóa – văn học nước ta. Nói như vậy, sở dĩ chữ quốc ngữ lúc bấy giờ là phương tiện tối ưu để chúng ta tiếp xúc và tiếp nhận một cách thuận lợi các yếu tố văn hóa, văn học tích cực của các nước phương Tây. Sự ra đời chữ quốc ngữ, đã đưa nước ta gia nhập vào khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ Latinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu. Vì thế, đây là một thuận lợi lớn cho Việt Nam chúng ta trong quá trình hội nhập với thế giới. Đặc biệt, từ cuối thế kỷ XVIII trở về sau, nền văn hóa – văn học Việt Nam đã hội nhập và phát triển, có thể sánh vai với các nền văn hóa – văn học của các nước trên thế giới. II.1. Nền Văn hóa quốc ngữ Chữ quốc ngữ ra đời, với những ưu điểm vượt trổi so với chữ Hán và chữ Nôm như ; dễ học dễ đọc, thuận tiện trong việc ghi chép in ấn… là phương tiện đắc lực để truyền bá văn hóa, truyền bá thông tin, góp phần quảng bá và nâng cao nền văn hóa Việt Nam chúng ta. (1) Bia đặt gần đền Bà Kiệu – Hồ Gươm, Hà Nội. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 18 - Từ khi bắt đầu hình thành, được khai sinh và khẳng định được ưu thế, chữ quốc ngữ đã trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm dâu bể. Cuối cùng, bất chấp mọi rào cản, loại chữ viết này đã làm được điều chúng phải làm – chữ quốc ngữ đã được mọi người dân Việt tiếp nhận và sử dụng. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX chữ quốc ngữ đã đánh dấu sự thắng thế trước chữ Hán và chữ Nôm. Cùng với việc khẳng định chỗ đứng, nền học vấn thi cử điều được thực hiện bằng chữ quốc ngữ, các tờ báo được viết bằng chữ quốc ngữ, các xưởng in mọc lên đáp ứng đủ nhu cầu cung cấp thông tin cho quần chúng, các tác phẩm văn chương được viết bằng chữ quốc ngữ với một phong cách và hình thức mới lạ đã phần nào đáp ứng đủ nhu cầu giải trí cho xã hội con người lúc bấy giờ. Đây là những hệ quả thấy được do chữ quốc ngữ mang lại. Mặc dù không hẳn chỉ một mình chữ quốc ngữ, mà còn có sự tác động lớn của chế độ thực dân Pháp lúc bấy giờ khi chúng muốn đồng hóa văn hóa nước ta với nước Pháp. Nhưng vai trò của chữ quốc ngữ là không thể phủ định, bởi giả như nước ta vào thời gian này không dùng chữ quốc ngữ mà vẫn dùng chữ Hán hay chữ Nôm thì có chắc là sẽ có những cái được nêu trên hay không, mà nếu có có đi nữa thì nó có được phát hành rộng rãi, thuận tiện và đáp ứng được các tư tưởng muốn truyền đạt của người viết và nhu cầu người đọc lúc bấy giờ hay không. Vì thế, chúng tôi mạo muội gọi thời kỳ ban đầu khi văn hóa nước ta tiếp xúc với văn hóa phương Tây là văn hóa quốc ngữ là vì vậy. Những đều vừa được nói trên đây, mặc dù còn thiếu sót nhiều và có phần khô cứng nhưng chúng ta không thể phủ nhận những hệ quả tích cực mà chữ quốc ngữ đã mang lại trong buổi đầu tiếp xúc giữa văn hóa nước ta và văn hóa phương Tây. Quá trình này là nền móng để văn hóa nước ta tiếp nhận mà phát triển, phát triển để hội nhập vào nền văn hóa nhân loại. II.2. Nền Văn học quốc ngữ Chữ quốc ngữ ra đời với mục đích là để các nhà truyền giáo dễ dàng truyền bá Phúc Âm vào Việt Nam, và để các tín hữu Việt Nam có thể đọc, viết các sách giáo lý bằng chữ quốc ngữ. Nhưng công dụng của chữ quốc ngữ không dừng lại ở đó, ngoài mục đích tôn giáo, chữ quốc ngữ còn mang lại nhiều hiệu quả mà những người chế tác ra nó không lường trước được. Những người dân Việt Nam gia nhập đạo Công giáo những ngày đầu đó, họ đã biết dùng chữ quốc ngữ một cách thông thảo. Một số người còn viết sách bằng chữ quốc ngữ, các tác phẩm mang tính chất văn học và lịch sử bắt đầu được những người Kitô hữu đầu tiên viết ra. Đây được coi là khởi nguồn cho nền văn học Công giáo ở Việt Nam, các tác phẩm điển hình như : “Lịch sử nước Annam” của thầy giảng Bento Thiện, viết tay năm 1659 ; Trong lãnh vực sách quốc ngữ với những tác phẩm của các Lm. Philipphê Bỉnh, của cố Pierre Cadro Lương, … Khi nói đến những thành tựu rực rỡ của văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ 1930 – 1945 và tiếp tục về sau này của văn học cách mạng, không thể không nói đến một tiền đề hết sức quan trọng, một công cụ cơ bản nhất để tạo nên các tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ, là chữ quốc ngữ. Nhưng chữ quốc ngữ từ lĩnh vực giao tiếp truyền đạo, lĩnh vực hành chính của chính quyền thuộc địa đến tiếng Việt như là ngôn ngữ chính thức của đời sống xã hội, của báo chí truyền thông, của văn học nghệ thuật là cả một thời gian dài Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 19 - để làm quen, rèn giũa, trau chuốt cho đến thuần thục. Thời gian chuẩn bị đó khá dài, khoảng trên ba thế kỷ (từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX), (đặc biệt thời kỳ 30 - 45). Và, những báo chí, tạp chí, những công báo… ở thời kỳ này, dù theo các xu hướng chính trị xã hội khác nhau đều có tác dụng thúc đẩy khách quan sự phát triển hoàn thiện tiếng Việt Latinh hóa, của chữ quốc ngữ. Trong thời kỳ này, nổi nên, chúng ta thấy có hai nhà báo là Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh đi tiên phong khai mở cho một nền báo chí, văn học quốc ngữ. Trong số các báo, tạp chí như Đông Pháp, Trung Bắc tân văn, An Nam tạp chí, Nam Phong tạp chí… thì tạp chí Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ bút (từ 1917 - 1934) có những đóng góp quan trọng cần được nhìn nhận lại. Trong số các cây bút chính của Nam Phong tạp chí như Nguyễn mạnh Bổng, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, hai cha con Nguyễn Bá Học, Nguyễn Bá Trạc, Phạm Duy Tốn… thì cây bút chủ báo Phạm Quỳnh là nổi bật nhất. Trên báo này thấy có xuất hiện nhiều thể loại ; dịch thuật, thông tin, bình luận, khảo cứu… các bút ký có nội dung tả thiên nhiên, phong cảnh, tục lệ, các di sản văn hóa. Các tác phẩm bút ký của Phạm Quỳnh như : “Trẩy hội chùa Hương”, “Mười ngày ở Huế”, “Một tháng ở Nam Kỳ”,… là những tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ với giọng văn khá trôi chảy, trau chuốt. Các tờ báo do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút như Gia Định báo, Đông Dương tạp chí, Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Trung Bắc tân văn… nổi bật các tên tuổi như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh. Những tờ báo, tạp chí này là công cụ đắc lực thúc đẩy quá trình truyền bá, phát triển chữ quốc ngữ vào Việt Nam. Tờ Gia Định báo là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của nước ta, ra đời năm 1865 cách đây vừa tròn 145 năm. Trong giai đoạn này và tiếp theo đó, báo chí trở thành cầu nối trong việc đưa văn học nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là văn học Pháp. Không những thế, báo chí còn là bà đỡ cho các tác phẩm văn học của nước ta trong thời kỳ này, những tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại điều có đăng các tác phẩm của mình trên các báo, cụ thể như các tác gia : Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Huy Cận, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng… Những thành tựu rực rỡ của văn học quốc ngữ thuộc về giai đoạn văn học 1930 – 1945, với những tên tuổi lớn như : Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Hồ Dzéch, Huy Cận, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố… với những tác phẩm có thể sống lâu dài với thời gian, đã làm nên thời đại văn học quốc ngữ phát triển qua các giai đoạn văn học và phát triển mãi tới ngày nay và còn tiếp nữa. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 20 - Kết luận Nguồn gốc quá trình ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, do một tập thể các nhà truyền giáo người phương Tây và được sự cộng tác của một số người Việt Nam chế tác ra, tiếng Việt được chế tác dựa trên các ký tự phiên âm chữ Latinh. Tên tuổi các nhà truyền giáo có công lớn trong việc chễ tác chữ quốc ngữ như : Francesco do Pina (sinh năm 1585 tại Guarda, Bồ Đào Nha, qua đời vì đắm thuyền tại cửa biển Đà Nẵng ngày 15-12-1625). Antonio Barbosa (sinh năm 1594 tại Amifana do Souza nay là Penafiel gần Porto, Bồ Đào Nha). Gaspar do Amaral, và Alexandre de Rhodes là người chính thức khai sinh chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ với những ưu điểm như dễ học, dễ đọc… lại được các nho gia cách mạng trong phong trào duy tân Đông Kinh Nghĩa Thục, như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Phan Chu Trinh,… cổ võ và truyền bá. Chẳng bao lâu sau, chữ quốc ngữ đi vào học trình các trường sư phạm, đại học, thông ngôn. Năm 1907, Đông Cổ Tùng Báo ra đời với chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Nhiều báo khác tiếp theo, như Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Nam Phong tạp chí với Phạm Quỳnh. Các nhà in được thiết lập, hội dịch sách ra đời. Công việc biên khảo và phê bình phát triển. Các ký sự, tiểu thuyết mới xuất hiện,Thơ mới ra đời, Tự Lực Văn Đoàn,…cả một nền văn học mới đã được chữ quốc ngữ mở ra, mang theo một nền văn hóa mới, đặt căn bản trên tự do và trách nhiệm cá nhân, hướng về tương lai, dựa vào khoa học khách quan, xây dựng quốc gia trên nền tảng công ích, lương thiện, sự thật và công bình. Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận - 21 - Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Quang Chính,1972 - Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài gòn, Nxb : Ra khơi 2. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, tập 3: Văn học hiện đại 1862-1945). 3. Viện Văn học, 1964, Sơ Thảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam 1930-1945, Hà Nội, Nxb : Văn học Hà Nội 4. Thế Phong, 1959, Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam, Nxb : Vàng Son Tài liệu tham khảo từ các trang web điện tử 1/ 2/ Quá trình ra đời chữ Quốc ngữ và Văn hóa – Văn học Quốc ngữ Thực Tập Viết Tiểu Luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfQuá trình ra đời chữ quốc ngữ và văn hóa – văn học quốc ngữ.pdf