Đảng ta đã khẳng định: cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, nền tảng tư tưởng của
sự nghiệp đổi mới, là ý thức hệ chủ đạo của đời sống tinh thần xã hội.
Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và nguyên lý m ối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH
trở thành yêu cầu bức xúc, có tính thời sự hiện nay. Đó còn là yêu cầu lâu dài có tính
chiến lược đối với phát triển xã hội và xây dựng Đảng.
Sự nghiệp đổi mới để phát triển xã hội và phát triển dân tộc, chấn hưng kinh
tế và văn hoá đã đặt ra những nhiệm vụ to lớn đối với công tác tư tưởng, nghiên cứu
lý luận. Ngược lại chỉ có tăng cường công tác tư tưởng, nghiên cứu phát triển lý
luận mới có thể đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4027 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội qua một số tác phẩm kinh điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện tượng một bộ
phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là một hiện tượng chung
cho tất cả các thế kỷ trước kia. Vậy không có gì đáng lấy làm lạ, khi thấy rằng ý
thức xã hội của mọi thế kỷ, mặc dầu có muôn màu muôn vẻ và hết sức khác nhau,
vẫn vận động trong một số hình thức chung nào đó, trong những hình thức ý thức
chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối kháng giữa các giai cấp nữa"
(567).
- Từ những quan điểm như trên Mác và ăngghen đã khẳng định lập trường
của giai cấp vô sản: "cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất
với chế độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến
trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ
truyền" (567). ở đây cần hiểu chế độ sở hữu cổ truyền là sở hữu tư nhân về TLSX,
tư tưởng cổ truyền là những tư tưởng nảy sinh từ chế độ sở hữu ấy.
3. Quan niệm về quan hệ biện chứng giữa trật tự xã hội và ý thức xã hội
trong tác phẩm: Chống Đuy-rinh mà tác phẩm: chủ nghĩa xã hội phát triển từ
không tưởng đến khoa học
Đây là hai tác phẩm có sự tương ứng về một số chương và nội dung. Các tác
phẩm này được viết trong thời kỳ 1876. 1877, 1878.
* Trong tác phẩm chống Đuy-rinh có một số quan điểm nổi bật như sau
- ăngghen đề cập về sự kế thừa của học thuyết CNXH: "Nhưng theo hình
thức lý luận của nó, thì CNXH hiện đại lúc đầu xuất hiện như một sự phát triển hơn
nữa và dường như triệt để hơn những nguyên lý mà các nhà triết học khai sáng vĩ
đại Pháp hồi thế kỷ XVIII đã nêu lên. Cũng như bất cứ học thuyết mới nào, CNXH
trước hết phải xuất phát từ tài liệu tư tưởng đã được tích luỹ từ trước mặc dù gốc dễ
của nó nằm sâu ở những sự kiện kinh tế (Vật chất"" (125). (P.ăngghen: Chống Đuy-
rinh, Nxb STHN, 1984, tr. 25).
- Bằng sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì "chủ nghĩa duy tâm đã tự
tống ra khỏi cái hầm trú ẩn cuối cùng của nó là quan niệm về lịch sử; một quan
niệm duy vật lịch sử đã ra đời, và người ta đã tìm thấy được phương pháp lấy sự tồn
tại của con người để giải thích ý thức của con người, chứ không lấy ý thức của con
người để giải thích sự tồn tại của con người như từ xưa đến nay người ta vẫn làm
(42).
- "Như vậy là, phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những sự
biến đổi xã hội và của tất cả những cuộc biến cách chính trị ở trong những sự thay
đổi về phương thức sản xuất và phương thức trao đổi, chứ không phải ở trong đầu
óc người ta, không phải ở trong sự hiểu biết ngày càng tăng thêm của người ta về
chân lý vĩnh cửu và công lý vĩnh cửu; phải tìm những nguyên nhân đó không phải
là ở trong triết học, mà ở trong kinh tế của thời đại mình nghiên cứu? (446). Do đó,
những thủ đoạn để gạt bỏ những tai hoạ "phải dùng đầu óc của mình để phát hiện ra
những thủ đoạn ấy từ những sự kiện vật chất về sản xuất đã có sẵn, chứ không phải
là sáng chế ra trong đầu óc của mình, những thủ đoạn ấy" (447) - Đó là nguyên tắc
của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Trong tác phẩm chủ nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng đến khoa
học
- ăngghen phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng châu Âu từ cuối thế kỷ
XVI đến đầu thế kỷ XIX, những hình thức tư tưởng của những nhà không tưởng
trong thời kỳ đó là do ảnh hưởng của triết học duy vật siêu hình, triết học biện
chứng duy tâm, trào lưu tư tưởng nhân đạo trong phong trào văn hoá phục hưng.
Mặt khác nó còn phản ánh tính chất hạn chế của chế độ TBCN ngay khi nó ra đời,
do nó phản ánh thời đại mà nó ra đời đó là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và
thời kỳ ra đời của chế độ TBCN.
- Phê phán quan điểm của CNXH không tưởng, ăngghen còn chỉ ra rằng nếu
chỉ coi CNXH là biểu hiện của chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối thì cái có
thể rút ra được chỉ là một loại đặc biệt của CNXH trung dung, chiết trung. Do vậy
muốn làm cho CNXH thành một khoa học thì trước hết phải đặt CNXH trên cơ sở
hiện thực.
- ăngghen dự báo về nội dung này trong CNCS. "Tồn tại xã hội của người ta
từ trước đến nay vẫn đối lập với người ta như những cái do tự nhiên và lịch sử gán
ghép cho người ta thì hiện nay đã biến thành hành động tự do của chính người ta.
Những lực lượng khách quan bên ngoài, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì
hiện nay sẽ do chính người ta kiểm soát. Chỉ từ lúc đó người ta mới bắt đầu tự sáng
tạo ra lịch sử của chính mình một cách hoàn toàn tự giác, chỉ lúc đó những nguyên
nhân xã hội mà họ thúc đẩy mới đưa lại những kết quả mà họ mong muốn, với một
mức độ rất lớn và luôn luôn tăng lên mãi. Loài người thoát khỏi thời đại của định
mệnh để bước vào thời đại của tự do" (111). "Cuối cùng người ta làm chủ lấy tồn tại
xã hội của chính mình và do đó làm chủ được tự nhiên, làm chủ cả chính mình -
thành người tự do" (114). ăngghen phát triển từ không tưởng đến khoa học, Nxb
STHS, 1958.
Tóm lại: Qua một số tác phẩm cơ bản trên, Mác và ăngghen đã cơ bản giải
quyết triệt để vấn đề cơ bản của trật tự về xã hội, đó là quan hệ và giữa TTXH và
YTXH. Những quan điểm đó là thế giới quan về phương pháp luận quan trọng để
xem xét toàn diện sự phát triển của xã hội, đặc biệt là nhận thức cũ tác động đến các
quy luật phát triển của ý thức qua các thời đại. Cho đến ngày nay, những quan điểm
đó vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và đồng thời là cơ sở lý luận cho đường lối đổi
mới của Đảng ta. Đặc biệt là đường lối về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
về văn hoá và giáo dục.
II. lênin bảo vệ và phát triển quan điểm về quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội của mác và ăngghen
Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội được Lênin
quan tâm và đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tiếp thu tư tưởng của Mác và
ăngghen, Lênin đã phát triển triệt để hơn nữa vấn đề này, đồng thời trên cơ sở thực
tiễn của thời đại Lênin và thực tế ở Nga, để khái quát thêm nhiều nội dung mới và
cụ thể hơn.
1. Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Trong tác phẩm "Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ xã hội ra sao". Lênin đề cập tương đối toàn diện các nguyên
lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó vấn đề quan hệ biện chứng TTXH và
YTXH được đề cập trên cơ sở trích lại quan điểm của Mác và ăngghen. Qua đó
dùng để chống lại quan điểm của "những người dân tuý" đồng thời khẳng định tính
khoa học trong học thuyết của Mác và ăngghen. Lênin khẳng định chính Mác đã mô
tả quá trình lập luận về vấn đề đó như sau: (Lênin trích dẫn lời tựa cuốn "Góp phần
phê phán chính trị kinh tế học". "Công việc đầu tiên mà tôi tiến hành để giải quyết
những mối nghi ngờ đã ám ảnh tôi là phân tích một cách có phê phán: triết học pháp
quyền của Hê-ghen. Công việc đó dẫn tôi đến kết luận là: chỉ xuất phát từ những
căn cứ pháp lý và chính trị thì không thể nào rút ra và giải thích được những quan
hệ pháp lý, cũng như những hình thức chính trị; xuất phất từ cái gọi là sự phát triển
chung của tinh thần con người thì lại càng ít có thể rút ra và giải thích được những
quan hệ và hình thức đó. Căn nguyên của những quan hệ pháp lý và những hình
thức chính trị là ở những quan hệ sinh hoạt vật chất" (tập 1, tr. 160).
- "Trong sản xuất vật chất, con người ở trong những mối quan hệ nhất định
với nhau, những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này bao giờ cũng phù hợp với
trình độ phát triển của năng suất mà những lực lượng kinh tế của các quan hệ ấy có
được trong thời kỳ đó. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy có được trong thời kỳ
đó. Toàn bộ những quan hệ sản xuất đó tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là
cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến thức thượng tầng chính trị và
pháp lý và phù hợp với cơ sở đó là những hình thức ý thức xã hội nhất định.
- "Như vậy PTSX quyết định các quá trình của đời sống xã hội, chính trị và
tinh thần. Sự tồn tại của các quá trình ấy không những không phụ thuộc vào ý thức
của con người, mà trái lại chính bản thân ý thức của con người lại phụ thuộc vào
những quá trình ấy" (160).
- "Cơ sở kinh tế biến đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ xây dựng
trên đó cũng thay đổi một cách ít nhiều chậm chạp hay nhanh chóng. Khi nghiên
cứu những sự biến đổi đó, cần phân biệt một cách chặt chẽ sự biến đổi vật chất của
các điều kiện sản xuất (xác nhận như khoa học tự nhiên) với sự biến đổi của những
hình thức pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật và triết học, tóm lại là của những
hình thức tư tưởng mà thông qua đó tư tưởng về sự xung đột thâm nhập vào ý thức
của con người và trong đó diễn ra cuộc đấu tranh ngấm ngầm để giải quyết sự xung
đột đó".
- "Chúng ta không thể nhận xét một cá nhân căn cứ theo ý kiến của người đó
về bản thân; chúng ta cũng không thể xét một thời đại cách mạng căn cứ theo ý thức
của chính bản thân thời đại cách mạng căn cứ theo ý thức của chính bản thân thời
đại đó được. Trái lại phải giải thích ý thức đó bằng những mâu thuẫn của đời sống
vật chất, bằng sự xung đột giữa những điều kiện sản xuất và những điều kiện của
năng suất..." (161).
- Cho đến lúc này, vì không biết hạ mình xuống để hiểu được những quan hệ
hết sức giản đơn và ban đầu như những quan hệ sản xuất, nên các nhà xã hội học đã
bắt tay thẳng vào việc phân tích và nghiên cứu những hình thức chính trị và pháp lý,
đã đụng đầu phải cái sự thật là những hình thức đó nảy sinh ra từ những tư tưởng
này hay những tư tưởng khác của nhân loại, trong một thời kỳ nhất định, và họ đã
không tiến xa hơn nữa; thành ra tựa hồ như những quan hệ xã hội là do con người
tạo ra một cách có ý thức. Những kết luận đó... hoàn toàn mâu thuẫn với tất cả mọi
sự quan sát lịch sử"(102).
"Chủ nghĩa duy vật đã thủ tiêu mâu thuẫn đó bằng cách tiếp tục phân tích sâu
hơn nữa, cho đến tận nguồn gốc của chính ngay những tư tưởng xã hội đó của con
người chỉ có kết luận của chủ nghĩa duy vật cho rằng tiến trình của những tư tưởng
là phụ thuộc vào tiến trình của sự vật, là kết luận duy nhất có thể tương đương được
với tâm lý học khoa học" (162).
"Chừng nào mà họ vẫn chỉ dừng lại ở những quan hệ xã hội tư tưởng (nghĩa
là những quan hệ mà trước khi hình thành phải thông qua ý thức con người) thì họ
không thể nhận thấy được, tính lặp lại và tính hợp quy luật trong những hiện tượng
xã hội ở các nước khác nhau... việc phân tích những quan hệ xã hội vật chất khiến
chúng ta có thể nhận thấy ngay được tính lặp lại và tính hợp quy luật, và có thể đem
những chế độ của các nước khác nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy
nhất là: hình thức xã hội" (163).
Sau đoạn trích dẫn với những nội dung cơ bản trên, Lênin đã phê phán
"người dân tuý" đồng thời khẳng định quan điểm của mình:
- "Ông (Mikhailốpski) ta đã đọc "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" mà không
thấy rằng trong đó, những chế độ hiện tại chế độ pháp lý, chính trị, gia đình, tôn
giáo, triết học đều được giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa, rằng trong đó
ngay cả việc phê phán những lý luận XHCN và CSCN cũng tìm ra và đã tìm ra rằng
những gốc rễ của những lý luận đó là ở trong quan hệ sản xuất nào đó (1/167).
"Muốn "làm sáng tỏ" lịch sử thì phải thấy rằngnhwngx quan hệ vật chất của
xã hội, chứ khong phải những quan hệ tư tưởng của xã hội, là cơ sở của lịch sử"
(177).
Lênin diễn đạt lại tư tưởng của Mác và ăngghen: "những quan hệ xã hội phân
ra thành những quan hệ vật chất và những quan hệ tư tưởng. Những quan hệ tư
tưởng chỉ là một kiến thức thượng tầng xây dựng trên những quan hệ vật chất là
những quan hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức con người, như một (kết quả) hình
thức của sự hoạt động của con người để duy trì sự sinh tồn của mình" (178).
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
(Tập 18) Lênin cũng đề cập về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Lênin phê phán sự dung hoà giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác và
ăngghen với chủ nghĩa Makhơ, về thực chất là thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ
nghĩa duy tâm. Bôgđnốp đã xuyên tạc chủ nghĩa duy vật lịch sử: "Trong cuộc đấu
tranh để sống còn, con người chỉ nhờ vào ý thức mới có thể liên hợp lại với nhau
được, không có ý thức thì không có đời sống xã hội. Bởi vậy, cho nên đời sống xã
hội, trên tất cả biểu hiện của nó, chỉ là đời sống của tâm lý có ý thức... Tính xã hội
không thể tách rời tính ý thức. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, căn cứ theo nghĩa
chính xác của các từ ngữ ấy, là đồng nhất, Lênin vạch rõ quan điểm ấy cũng giống
quan điểm của Makhơ: "mối liên hệ giữa yếu tố vật lý và yếu tố tâm lý không thể
tồn tại tách rời nhau; chúng chỉ tồn tại cùng nhau".
- Phê phán các quan điểm trên Lênin viết: "Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
không phải là đồng nhất, cũng như nói chung, tồn tại và ý thức không phải là đồng
nhất" (400) quan hệ con người là có ý thức song không thể kết luận ý thức xã hội là
đồng nhất tồn tại xã hội.
"Con người khi liên hệ với nhau, đều xử sự với tư cách là những sinh vật có
ý thức, nhưng hoàn toàn không thể do đó mà kết luận rằng ý thức xã hội là đồng
nhất với tồn tại xã hội". Theo Lênin, trong tất cả những hình thái xã hội tư bản, con
người, khi liên hệ với nhau, đều không có ý thức về những mối quan hệ xã hội giữa
họ với nhau, họăc về những quy luật chi phối sự phát triển của những mối quan hệ
ấy v.v.. Thí dụ: người nông dân bán lúa mì có "quan hệ" với những người sản xuất
lúa mì trên thị trường thế giới, nhưng người ấy không hiểu điều đó, người ấy lại
cũng không hiểu rõ những mối quan hệ xã hội nào hình thành từ những sự trao đổi
ấy.
- "ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác - hình ảnh
có thể phản ánh vật thể một cách gần đúng, nhưng ở đây mà nói về sự đồng nhất thì
vô lý. Nói chung ý thức phản ánh tồn tại, đó là một nguyên lý chung của toàn bộ
chủ nghĩa duy vật, và không thể không nhìn thấy mối liên hệ trực tiếp và mật thiết
giữa nguyên lý ấy với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã
hội phản ánh tồn tại xã hội" (400).
- "Mỗi người sản xuất riêng biệt trong nền kinh tế thế giới đều biết rằng mình
đưa ra một sự thay đổi vào đó trong kỹ thuật sản xuất, mỗi người sở hữu đều biết
rằng mình trao đổi sản phẩm nào đó lấy sản phẩm khác, nhưng những người sản
xuất và những người sở hữu đó đều không biết rằng do đó họ làm thay đổi tồn tại xã
hội. Ngay đến 70 ông Mác cũng không thể bao quát được tổng số những sự thay đổi
thuộc loại đó trong tất cả các ngành của nền kinh tế tư bản thế giới. Nhiều lắm là
phát hiện ra được những quy luật của sự thay đổi đó, vạch ra được những nét chủ
yếu và cơ bản của của cái logic khách quan của những sự thay đổi ấy và của sự phát
triển lịch sử của chúng" (402-403) "khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không
phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người. Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế,
anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm làm nảy
sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan, gồm những biến cố, những sự phát triển,
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh và ý thức này không bao giờ được toàn
vẹn cái chuỗi đó" (403).
"Nhiệm vụ cao quý nhất của loài người là bao quát được cái lôgic khách
quan ấy của cuộc tiến hoá kinh tế (cuộc tiến hoá của tồn tại xã hội) trong những nét
chung và cơ bản, để làm cho ý thức xã hội của loài người mà ý thức của những giai
cấp tiên tiến của tất cả những nước tư bản thích ứng với logic đó một cách hết sức
rõ ràng và sáng sủa, với tinh thần phê phán" (403).
- "Chủ nghĩa duy vật nói chung thừa nhận rằng tồn tại, thực tại khách quan
(VC) là không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác, kinh nghiệm v.v.. của loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức
xã hội của loài người. Trong hai trường hợp đó, ý thức chỉ là phản ánh của tồn tại,
nhiều lắm thì cũng chỉ là một phản ánh gần đúng (ăn khớp, chính xác một cách lý
tưởng).
Như vậy toàn bộ những tư tưởng trên đây đã đề cập cơ bản những nguyên lý
về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Theo Lênin: "Trong cái
triết học ấy của chủ nghĩa Mác, đúc bằng một khối lượng thép duy nhất, người ta
không thể vứt bỏ một tiền đề cơ bản nào, một phần chủ yếu nào mà không xa rời
chân lý khách quan, không rơi vào sự dối trá của giai cấp tư bản phản động" (Tập
11, tr. 404).
2. Về kết cấu của ý thức xã hội
Tiếp thu các tư tưởng của Mác và ăngghen về cấu trúc và trình độ của ý thức
xã hội trong các tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", lời tựa cuốn "Chiến tranh nông dân ở
Đức". "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" "góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị... Lênin đã đề cập một số quan điểm cơ bản sau:
- Trong tác phẩm: "Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
tập 18, trang 159 Lênin viết: "... mọi hệ tư tưởng đều là có điều kiện về mặt lịch sử,
nhưng việc mọi hệ tư tưởng khoa học (khác với trường hợp của hệ tư tưởng tôn
giáo, chẳng hạn) đều có một chân lý khách quan, một tự nhiên tuyệt đối phù hợp với
nó, lại là vô điều kiện".
- Trong thế giới "Hội liên hiệp miền Bắc của Đảng công nhân dân chủ - xã
hội Nga" người chỉ rõ: "Những chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản, cho nên nó phụ thuộc vào những điều kiện chung của
sự phát sinh, phát triển và củng cố của hệ tư tưởng, nghĩa là chủ nghĩa xã hội dựa
trên cơ sở toàn bộ tài liệu của tri thức con người, lấy sự phát triển cao của khoa học
làm tiền đề, đòi hỏi phải làm công tác khoa học v.v.. và v.v..".
- Trong tác phẩm "Làm gì?" Lênin viết "Đã không có hệ tư tưởng độc lập, do
chính ngay quần chúng nhân dân xây dựng trong quá trình phong trào của họ, thì
vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng XHCN. Không
có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một hệ tư tưởng "thứ ba" cả, vả
chăng trong một xã hội bị những sự đối kháng giai cấp chia rẽ thì không bao giờ có
hệ tư tưởng nào hoặc đứng trên các giai cấp). Vì vậy mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng đó đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng
tư sản".
- Về tâm lý xã hội, Lênin đã đề cập rất nhiều vấn đề, có thể thấy một số quan
điểm cơ bản sau:
Trong tác phẩm: "Bàn về quyền tự trị dân tộc" tập 2 Lênin viết: "Người công
nhân thành thị biết rất rõ hơn ai hết chủ nghĩa tư bản phát triển và do toàn bộ cuộc
sống của họ, họ đã hấp thụ được sâu sắc hơn ai hết tâm lý đấu tranh giai cấp, và có
thể là thậm chí là đã hấp thụ tâm lý đó từ lúc còn bú sữa mẹ, - người công nhân đó
sẽ không thể không nghĩ rằng việc phân chia các trường học theo từng dân tộc
không những là một mưu đồ có hại, mà còn dứt khoát là một sự lừa dối bịp bợm của
bọn tư sản" (222).
- "Hãy lấy tâm lý một đại biểu bình thường, trung bình của quần chúng lao
động bị bóc lột, *** chiều tâm lý ấy với những điều kiện vật chất, khách quan của
đời sống xã hội của anh ta. Trước cách mạng tháng Mười, anh ta thực tế chưa từng
thấy những giai cấp hữu sản, bóc lột, lại thực sự hy sinh, nhượng bộ anh ta một cái
gì đáng kể cả. Anh ta chưa hề thấy những giai cấp mang lại cho anh ta ruộng đất và
tự do, cái mà chúng đã bao lần hứa hẹn - hay mang lại cho anh ta hoà bình, chưa hề
thấy chúng lại sinh cho anh ta mảy may lợi ích "cường quốc" của chúng hay lợi ích
của những hiệp ước là một cường quốc chủ nghĩa của chúng, hy sinh tư bản hay lợi
nhuận của chúng. Anh ta chỉ thấy được những cái đó sau ngày 25 tháng 10 năm
1917, khi bản thân anh ta đã dùng vũ lực giành lấy tất cả những cái đó, và rồi anh ta
cũng phải dùng vũ lực để bảo vệ những cái đó chống lại bọn Kêrenski, Gôtxơ,
Gkêghêtscori, Putôp, Coocnilôp" (Lênin: "Những nhiệm vụ trước mắt của chính
quyền xô viết", toàn tập, tập 36, trang 246).
- "Chủ nghĩa tư bản để lại cho chúng ta - đặc biệt ở một nước lạc hậu - vô số
những thói quen đã làm cho người ta xem tất cả những cái gì thuộc về nhà nước,
thuộc về của công, như là những vật liệu để người ta phá hỏng đi một cách ác ý.
Tâm lý ấy của quần chúng tiểu tư sản lộ ra ở khắp mọi nơi và mọi lúc. Trong lĩnh
vực này đấu tranh rất khó. Chỉ có giai cấp vô sản có tổ chức mới có thể chịu đựng
được tất cả", tập 36, tr. 324.
- Trong tác phẩm "Giai cấp công nhân và chủ nghĩa Mantuýt mới", Lênin
viết:
"... Đẻ con ra là để cho chúng bị hành hạ..." chỉ là để như thế thôi ư? Tại sao
lại không phải là để coh chúng đấu tranh tốt hơn, đoàn kết hơn, có ý thức hơn, kiên
quyết hơn chúng ta, nhằm chống lại những điều kiện sinh sống hiện nay đang làm
tàn phế và huỷ hoại thế hệ chúng ta".
"Chính đó là chỗ khác nhau căn bản giữa các tâm lý của người nông dân, thợ
thủ công, trí thức, nói chung là của người tiểu tư sản, với tâm lý của giai cấp vô
sản... Người tiểu tư sản nhìn thấy và cảm thấy rằng anh ta đang đi đến diệt vọng,
rằng đời sống ngày ngày càng trở nên khó khăn hơn, tình cảnh của anh ta và của
gia đình anh ta ngày càng bế tắc. Đó là một sự thật không thể chối cãi được và
người tiểu tư sản chống lại sự thật đó, tập 23.
- "Nhưng khi một đảng chân chính dần dần được hình thành, thì người công
nhân giác ngộ cần phải học cách phân biệt giữa tâm lý của người chiến sĩ trong đội
quân vô sản và tâm lý của phần tử tri thức tư sản thích nói những lời rỗng tuếch vô
chính phủ chủ nghĩa, người công nhân giác ngộ cần phải học cách đòi hỏi không
những các đảng viên thường, mà cả "những nhân vật cấp trên" nữa, đều phải làm
tròn những trách nhiệm của người đảng viên; người công nhân giác ngộ cần phải
khinh bỉnh bỉ chủ nghĩa theo đuôi trong các vấn đề tổ chức, cũng như trước kia họ
đã khinh bỉ nó trong các vấn đề sách lược (Lênin: "Một bước tiến hai bước lùi",
toàn tập, tập 8, tr. 464).
Như vậy, Lênin đã tiếp thu chủ nghĩa Mác, thông qua hoạt động chính trị,
truyền bá chủ nghĩa Mấc vào nước Nga những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, vạch ra con đường phát triển của cách mạng Nga theo đường lối cách mạng vô
sản, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Từ đặc điểm mới của thời đại và
thực tiễn nước Nga, Lênin đã bảo vệ và phát triển những luận điểm của Mác và
ăngghen. Đồng thời bằng thế giới quan, phương pháp luận mácxít, Lênin đã phân
tích cụ thể điều kiện kinh tế - xã hội Nga, từ đó khẳng định và chỉ ra những vấn đề
cụ thể trong học thuyết của Mác.
Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã được
Lênin bảo vệ và bổ sung nhiều khía cạnh khác nhau. Đặc biệt trong cấu trúc của ý
thức xã hội, Lênin đã khẳng định vai trò của lý luận, của tâm lý xã hội, chỉ ra những
ưu điểm và hạn chế cũng như những xu hướng lệch lạc của chúng trong xã hội Nga
khi bước vào xây dựng xã hội mới.
III. tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận với tư cách là trình độ
cao của ý thức xã hội
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chính vì Người đã tìm thấy ở Lênin, ở chủ nghĩa Mác - Lênin câu trả lời bức thiết
nhất cho cả dân tộc Việt Nam là làm thế nào có thể giành được độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi con người? Hồ Chí Minh là một trong số
những nhà cách mạng kiệt xuất ở thế kỷ XX đã vận dụng thành công chủ nghĩa Mác
- Lênin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình, đưa cách mạng Việt Nam đến
những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại rất to lớn. Đó là thắng lợi
hoàn toàn và triệt để của cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc và
bước đầu khai phá con đường đưa một nước nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đi
lên CNXH - một chế độ xã hội được tổ chức sao cho "đời sống sản xuất vật chấta
ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh tiến
bộ".
Thông qua toàn bộ những hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng trong
suốt cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thầm nhuần, vận dụng sáng tạo và góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. ở đây chỉ xin đề cập đến một số tư tưởng của Hồ
Chí Minh liên quan đến nội dung quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội của triết học Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình bằng cả văn hoá phương Đông và
phương Tây, bằng những giá trị văn hoá - tinh thần của dân tộc và nhân loại, bằng
kinh nghiệm cách mạng các nước. Nhờ vậy Hồ Chí Minh đã hiểu đầy đủ và sâu
sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thấy rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa của các động lực tinh
thần trong xã hội. Điều đó thể hiện rõ nét trong tư tưởng của Người về lòng yêu
nước, hệ tư tưởng cách mạng, đạo đức, văn hoá... Điều đó còn thể hiện ở sự đấu
tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, tâm lý lỗi thời, lạc hậu, với đạo đức
cũ và những giá trị phản văn hoá.
Tiểu luận chỉ đề cập khía cạnh tư tưởng của Người về lý luận cách mạng, bộ
phận ở trình độ cao của ý thức xã hội.
Một số nội dung cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng và
giáo dục lý luận của Đảng qua các tác phẩm đã học
- Năm 1920, Nguyễn ái Quốc lần đầu tiên được tiếp cận với "Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy
trong đó "cái cần thiếu cho những chúng ta, con đường giải phóng chúng ta".
Sự kiện ấy làm cho khát vọng giải phóng để phát triển dân tộc có được lời
giải đáp khoa học, đồng thời đó cũng là bước ngoặt để Nguyễn ái Quốc từ người
yêu nước trở thành người cộng sản. Tuy nhiên con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản là thế nào, vào thời điểm đó, Nguyễn ái Quốc
chưa thể hình dung ngay được. Điều đó chỉ được giải đáp trong quá trình hoạt động
thực tiễn và lý luận rất phong phú sau này của Bác.
- Trong "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ", Bác đã rút ra một số luận
điểm liên quan đến việc phát triển lý luận cách mạng như: cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây; chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước; và do đó, "sự cần thiết phải bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác,
bằng cấch đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được".
Như vậy Bác đã đề cập đến luận điểm về sự cần thiết phải biết vận dụng một cách
sáng tạo lý luận Mác vào thực tiễn của mỗi nước, từ đó mà bổ sung, phát triển chủ
nghĩa Mác.
- Sau khi về Quảng Châu 11/1924. Người đã bắt tay mở các lớp huấn luyện
chính trị, các bài giảng được tập hợp thành cuốn "Đường cách mệnh", ngay dưới tên
sách có trích lời của Lênin: "Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh
vận động... Chỉ có theo lý luận kách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm kách mệnh tiên phng". Trong nội dung của tác phẩm, Người đã xác
định tầm quan trọng của lý luận đối với cách mạng Việt Nam: cách mạng giải
phóng dân tộc của Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng của Nga, tức là phải
đặt nó trong quỹ đạo của cách mạng vô sản; cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn là dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh, hai giai đoạn này có quan hệ
mật thiết với nhau. Về phương pháp cách mạng Người cho rằng làm cách mạng
trước hết phải biết tuyên truyền, giảng giải lý luận và chủ yếu cho dân giác ngộ... có
làm được như vậy đích mới đồng, chí mới đồng, tâm mới đồng, công việc mới
thành công. Điều tiên quyết là phải có Đảng cách mệnh, đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy,
"Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam. Bây giờ học thuyết, nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin". Qua đó ta thấy đảng kiểu
mới là đảng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc " (10/1947) được viết vào giai đoạn kháng
chiến chống thực dân Pháp rất gay go, quyết liệt; đồng thời công tác xây dựng Đảng
đã qua một thời gian dài, nhất là những năm sau cách mạng Tháng Tám. Để giúp
thêm cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng về các mặt tư tưởng, đạo
đức cách mạng và phương pháp làm việc, Bác đã viết tác phẩm này. Nội dung của
tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề lý luận cách mạng, đặc biệt vấn đề Đảng phái kết
hợp lý luận với thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Nói về khuyết
điểm trong đảng, Bác chia làm ba hạng, trong đó hạng đầu là khuyết điểm về tư
tưởng, tức là bệnh chủ quan. Bác chỉ rõ "Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: kém lý
luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông". Do vậy Bác đã chỉ rõ:
"Trước hết, ta phải hiểu lý luận là gì?
Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh
đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó
chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính.
Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi.
Hiện nay, phong trào cách mạng rất cao, nhưng thử hỏi cán bộ và đảng viên
ta đã mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào chính trị, quân sự, kinh tế và văn
hoá? Đã mấy người hiểu "biện chứng" là cái gì?
Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc
cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy, kết quả thường thất bại.
Đó là chứng kém lý luận trong bệnh chủ quan.
- Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố
nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh lý
luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận. Họ quên
rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều.
Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận
mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi.
Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng một mắt mờ.
Những anh em đó, cần phải nghiên cứu thêm lý luận, mới thành người cán
bộ hoàn toàn.
Có những người xem được sách, xem nhiều sách. Siêng xem sách và xem
nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã là biết lý luận.
Lý luận cốt là để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng
vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách.
Xem nhiều sách để mà loà, để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận.
Những anh em đó cần phải ra sức thực hành mới thành người biết lý luận.
Nói tóm lại, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp
dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận
suông".
Bác còn viết tiếp: "lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo
lý luận.
Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để
bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên.
Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ
thì lý luận ấy cũng vô ích.
Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành".
Về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, Bác nêu 12 điều, thì điều thứ
hai là: "Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực
hành phải luôn luôn đi đôi với nhau".
Về huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng, Bác vạch rõ khuyết điểm
"còn dạy chính trị thì mênh mông mà không thiết thực, học rồi không dùng được".
Do vậy "những cán bộ cao cấp và trung cấp mà có sức nghiên cứu lý luận (trình độ
văn hoá khá, ham nghiên cứu), thì ngoài việc học tập chính trị và nghề nghiệp đều
cần học thêm lý luận.
Huấn luyệnlý luận có hai cách:
Một cách là chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ.
Rồi bày cho viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối
với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà
thôi. Thế là lý luận suông, vô ích. Một cách là trong lúc học lý luận, phải nghiên
cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra
phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ
chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích".
"Lý luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh
nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh
nghiệm đó thành ra lý luận. Nhưng phải biết khéo léo lợi dụng kinh nghiệm".
- Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" tập hợp 50 bài báo từ 1953 đến
1954, Hồ Chí Minh muốn tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân
lòng quyết tâm và tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới. Nội
dung của tác phẩm đề cập rất nhiều vấn đề của cách mạng, trong đó vấn đề lý luận
cách mạng cũng được đề cập. Bác khẳng định giai cấp công nhân lãnh đạo được
cách mạng là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai
cấp. "Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây
dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là Đảng Lao động Việt Nam". Nói về
Đảng lao động Việt Nam, Bác khẳng định:"Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác-
Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu. Mỗi đảng viên phải thật thà tự phê bình
và phê bình để tiến bộ mãi". "Tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công
nhân, nó đấu tranh cho lợi ích của toàn dân. Vì vậy, trong Đảng không thể có những
tư tưởng, lập trường và tác phong trái với tư tưởng, lập trường và tác phong của giai
cấp công nhân". Đảng dùng cách gì và làm thế nào để lãnh đạo, Bác viết: "Đảng đã
truyền bá lý luận Mác-Lênin vào trong nhân dân ta. Đối với công việc kháng chiến
và kiến quốc, lý luận là rất quan trọng. Không hiểu lý luận thì như người mà đi
đêm.
Lý luận làm cho quần chúng giác ngộ, bày cho quần chúng tổ chức, động
viên quần chúng để đấu tranh cho đúng. Nhờ lý luận mà quần chúng hiểu rõ nguyên
nhân vì sao mà cực khổ, thấy rõđường lối đấu tranh để giải phóng mình, hiểu rõ
phương pháp đấu tranh với địch.
Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển
được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình.
Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách mạng Việt
Nam. Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác-Lênin mà giải
quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam.
Không phải chỉ học thuộclòng vài bộ sách của Mác-Lênin mà làm được như
vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rấtcao, phải hiểu rõ
lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào
lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng
kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong
quần chúng.
Đảng phân tích rõ tình hình trong nước và trên thế giới, rồi áp dụng lý luận
vào các chính sách: chính sách ruộng đất, chính sách Mặt trận dân tộc, chính sách
kháng chiến kiến quốc, chính sách xây dựng Đảng...".
Sau đó Bác lại nhắc lại: "Đảng đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải: học hiểu lý
luận, chính sách, tình hình trong nước và trên thế giới để giáo dục cho quần chúng".
"Xây dựng Đảng có ba mặt; tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Về tư tưởng, nhất định phải học tập lý luận Mác-Lênin.
Đồng chí Lênin nói: "Chỉ có lý luận tiên tiến, Đảng mới có thể thực hiện vai
trò chiến sĩ tiên tiến".
Đồng chí Xtalin nói: "Chỉ co thông suốt lý luận Mác-Lênin, Đảng mới chắc
tiến lên, mới lãnh đạo được giai cấp công nhân tiến lên".
Vì vậy, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của
Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng.
Đảng phải tăng cường tư tưởng giai cấp công nhân và rửa gột những tư
tưởng trái với nó. Nước ta đã lên ở dưới chế độ thực dân và phong kiến, cho nên
những tư tưởng bất chính có thể ảnh hưởng vào trong Đảng. Số đông đảng viên là
nông dân và tiểu tư sản trí thức (điều đó tuy là tốt và hợp lý), cho nên cũng mang
vào Đảng những tư tưởng "phi vô sản". Vì vậy Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu
đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với
những tư tưởng "phi vô sản".
Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì
chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng.
Về đường lối chính trị, Đảng chống khuynh hướng "tả" và khuynh hướng
"hữu""
"Để nâng cao trình độ lý luận và chính trị thì mỗi đảng viên cần phải luôn
thực hành, thật thà tự phê bình và phê bình. Đảng thì dùng cách chỉnh Đảng, chỉnh
huấn để giáo dục đảng viên.
Nâng cao trình độ lý luận và chính trị, cải tạo mình là một việc trường kỳ và
gian khổ. Nhưng đó là một công tác chủ chốt trong việc xây dựng Đảng mà mỗi
đảng viên phải cố gắng.
Từ đó Bác nêu nghĩa vụ số một của đảng viên trong tiêu chuẩn là: "cố gắng
học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao trình độ giác ngộ.
Vì nếu không hiểu chủ nghĩa, trình độ giác ngộ thấp, thì nhất định không thể
hăng hái đấu tranh cho nhân dân, cho cách mạng".
- Trong bài "Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn ái
Quốc", một lần nữa Bác đề cập đến lý luận. Đây là lúc Đảng ta đang trong quá trình
nghiên cứu xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Bác nêu mấy ý kiến về học tập lý luận như sau:
Vì sao phải học lý luận? Bác nêu mấy lý do:
"Trước hết, Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao
trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và
tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình,
hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình".
"Vì Đảng ta có nhiều ưu điểm, cho nên đã lãnh đạo cách mạng thu được
những thắng lơi to lớn và căn bản. Nhưng mặt khác, vì trình độ lý luận thấp kém
cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc
lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm...".
Lý do nữa là nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Đối với cả nước thì ta chưa
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Miền Bắc bước vào thời
kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ đó có nhiều mặt khó
khăn và phức tạp, 'điều đó đòi hỏi Đảng ta phải tự nâng cao mình lên nữa, mà muốn
tự nâng cao mình thì phải tổ chức học tập lý luận trong toàn Đảng, trước hết là trong
cán bộ cốt cán của Đảng". "Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò
mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh
em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự
tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ
nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách
đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần
hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường
lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình
nước ta. Như thế là phải học tapạ lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của
Đảng, trước hết là của cán bộ cốt cán của Đảng".
Mặt khác, trong thời kỳ cách mạng XHCN, Đảng cần phải mạnh hơn bao giờ
hết. Đảng viên cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ ề
chủ nghĩa xã hội cao, rửa sạch ảnh hưởng của những tư tưởng của giai cấp bóc lột,
khắc phục các bệnh quan liêu... Muốn thế phải nâng cao trình độ lý luận chung của
Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt
cán của Đảng. "Xem thế, chúng ta thấy học tập lý luận là một sự bức thiết đối với
Đảng ta như thế nào".
Về vai trò quan trọng của lý luận đối với Đảng ta như thế nào, Bác đã trích
dẫn Lênin, dẫn chứng Đảng Cộng sản Liên Xô luôn luôn chú trọng đến lý luận và
viết: "vì Đảng nhận rằng lý luận vạch cho Đảng con đường đúng đắn tiến lên chủ
nghĩa cộng sản".
Về tinh thần học tập lý luận trong cán bộ chúng ta như thế nào? Bác chỉ rõ
rằng nói chung cán bộ ta đều cảm thấy nhược điểm của mình là thiếu lý luận, còn có
nhiều người không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, thiếu tin tưởng đối với sự
cần thiết phải học lý luận, học kinh nghiệm của các nước anh em.
Về vấn đề lý luận liên hệ với thực tế bác viết: "Lý luận rất cần thiết, nhưng
nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý
luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế".
"Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vìvậy cho nên
trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi
nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng; và lý luận không phải là môt cái gì cứng nhắc, nó đầy tính
chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ
nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi".
"Việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí
thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng
chí tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin,
học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp
dụng lập trường, quand diểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn
đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học tập lý luận
là cốt để áp dụng vào thực tế". "Khi vận dụng thì bổ sung làm phong phú thêm lý
luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta".
Vậy thế nào là lý luận liên hệ với thực tế? Bác chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội
tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết
kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước".
"Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật". Chỉ ra
thực tế của người cán bộ cách mạng, Bác cho rằng nó rất rộng, giải quyết cácvấn đề
thực tế ấy là cả một quá trình lâu dài của toàn Đảng, tránh sự lệch lạc đòi hỏi trong
lúc học tập phải giải quyết tất cả mọi vấn đề thực tế.
"Song song với việc nhấn mạnh sự quan trọng của học tập lý luận, chúng ta
phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế". Phải khắc phục
bệnh giáo điều đồng thời phải đề phòng chủ nghĩa xét lại.
Cuối bài diễn văn Bác chỉ rõ: "Muốn thực hiện nguyên tắc lý luận liên hệ
thực tế, muốn cho việc học tập đạt được mục đích đề cao lý luận, cải tạo tư tưởng,
tăng cường đảng tính, thì cần phải có thái độ học tập cho đúng". Như phải khiêm
tốn, thật thà, phải tự nguyện, tự giác, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự
do tư tưởng, phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau học tập...
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là hệ thống quan điểm lý luận, hệ
thống các luận điểm khoa học và cách mạng, mà còn là hệ thống phương pháp,
phương pháp cách mạng, phương pháp tư duy, ứng xử, giao tiếp, đối thoại. Tư
tưởng và phương pháp ấy gắn chặt vào nhau thể hiện thành phong cách của người.
Mỗi luận điểm, mỗi nguyên lý tư tưởng nói chung và nói riêng là quan điểm
về lý luận cách mạng không chỉ có giá trị và ý nghĩa nhanạ thức mà còn là những
chỉ dẫn về phương pháp hành động. Đó vừa là thế giới quan vừa là nhân sinh quan
nhà phương pháp luận đồng thời là ý thức hệ.
ở Hồ Chí Minh, thực tiễn hoá lý luận gắn liền với lý luận hoá thực tiễn một
cách nhuần nhuyễn, tự nhiên, không chút nào gò ép. Người hiểu lý luận một cách
thấu đáo nêu làm chủ được lý luận. Người nắm bắt chính xác bản chất của thực tiễn,
xu hướng vận động của nó. Đồng thời người xa lạ với giáo điều, chủ quan và tư
biện, nhờ đó mà phân tích khoa học về thực tiễn. Nhờ đó thực tiễn được khoa học
hoá, được lý luận soi sáng dẫn dắt, nó xa lạ với lý luận suông, thực tiễn mù quáng.
Hồ Chí Minh nhìn thấy giá trị bản chất ấy trong sự thống nhất lý luận và thực tiễn.
Bởi vậy, Người căn dặn những người cách mạng học chủ nghĩa Mác-Lênin không
phải là thuộc lòng câu chữ mà điều cốt yếu là nắm lấy tinh thần và phương pháp của
nó, để ứng xử với công việc và con người. Người tóm tắt lý thuyết và phương pháp
ấy chỉ trong mấy mệnh đề ngắn gọn: "Thực hành sinh ra hiểu biết. Hiểu biết tiến lên
lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành". Đó là tư tưởng mà cũng đồng thời là chỉ dẫn
phương pháp. Đó là phương pháp mà đồng thời cũng là phong cách Hồ Chí Minh.
Tư tưởng, phương pháp và phong cách của Người còn thể hiện ở sự đánh giá
vai trò của lý luận trong đời sống xã hội, trong Đảng ta; thể hiện ở yêu cầu cần thiết
và phương pháp học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Như vậy, Hồ
Chí Minh đã đề cập cặn kẽ, cụ thể mọi góc cạnh của đời sống lý luận trong xã hội.
Và cũng chính tư tưởng lý luận của người đã bao quát toàn bộ các giá trị ấy.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác về
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây dựng hệ thống chính trị
và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền văn hoá Việt
Nam. Văn hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng CNXH, đồng thời là động lực, nền tảng
vững chắc của cách mạng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định một trong những nội
dung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: "Tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân" [VKĐH IX]. Đường lối đó
thể hiện sự vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào điều kiện lịch sử mới hiện nay.
Trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng
đường lối phát triển văn hoá, ngoài những nội dung trong các văn kiện Đại hội
Đảng, còn có các văn kiện khác như: Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1973; Hội
nghị văn hoá toàn quốc lần thứ 2 (tháng 7/1948; Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị
ngày 28/11/1987 về "Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học,
nghệthuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật phát
triển lên một bước mới"; Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII); Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá VIII); Nghị quyết Trung ương 10 (khoá IX) Nghị quyết Trung ương
12 (khoá IX). Trong các văn kiện trên, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) thể
hiện đầy đủ nhất về đường lối phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới. Những tư
tưởng trong Nghị quyết đó được coi là những tư tưởng chỉ đạo mang tính chiến lược
của Đảng về phát triển văn hoá.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực then chốt của văn hoá là lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức và lối sống. Đảng ta xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm, song thiếu nền tảng tinh thần lành
và mạnh và tiến bộ thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng
và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh,
con người phát triển toàn diện.
Đường lối của Đảng nêu trên thể hiện sự quán triệt, vận dụng sáng tạo quan
điểm của các nhà kinh điển, đặc biệt là lĩnh vực thenchốt mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đề cập rất nhiều, đó là tư tưởng, đạo đức và lối sống.
Thực tế đời sống xã hội hiện nay, trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống
mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang
quyết định chiều hướng phát triển của đất nước, là nhân tố quan trọng tạo nên thắng
lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất
nghiêm trọng thực sự là nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến sự mất còn của Đảng, của
chế độ. Do vậy vấn đề học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vấn đề rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng không những là cần
thiết, thường xuyên mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay.
Kết luận
Đảng ta đã khẳng định: cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, nền tảng tư tưởng của
sự nghiệp đổi mới, là ý thức hệ chủ đạo của đời sống tinh thần xã hội.
Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và nguyên lý mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH
trở thành yêu cầu bức xúc, có tính thời sự hiện nay. Đó còn là yêu cầu lâu dài có tính
chiến lược đối với phát triển xã hội và xây dựng Đảng.
Sự nghiệp đổi mới để phát triển xã hội và phát triển dân tộc, chấn hưng kinh
tế và văn hoá đã đặt ra những nhiệm vụ to lớn đối với công tác tư tưởng, nghiên cứu
lý luận. Ngược lại chỉ có tăng cường công tác tư tưởng, nghiên cứu phát triển lý
luận mới có thể đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới.
Tìm hiểu, vận dụng sáng tạo và phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phục vụ cho sự nghiepẹ đổi mới tuy đã ngày
càng sáng tỏ hơn song cũng còn không ít những hạn chế cả về công tác nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục và cả trên đời sống thực tế của xã hội vận động theo cơ chế
thị trường.
Dân tộc ta đã có Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc,
Đảng ta có đủ năng lực cách mạng do vậy chắc chắn mục tiêu của cách mạng sẽ đạt
được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33_912.pdf