Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng thực tiễn ở nước ta

LỜI NÓI ĐẦU Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của riêng Đảng Cộng Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạng của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có đến 40% bài báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan trọng của đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên trong bản di chúc của Hồ Chí Minh cũng như lời cuối cùng trong bản di chúc thì Hồ Chí Minh đều nhắc tới đại đoàn kết. Lời đầu tiên Người nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để lại vài lời dặn dò như sau: Trước hết nói về đoàn kết các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải gìn giữ sự đoàn kết như gìn giữ con ngươi của mắt mình” còn lời cuối cùng của người: “ Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng toàn dân toàn quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh dân chủ độc lập đóng góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”. Trong những cống hiến to lớn của to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng. Chính vì lẽ đó em xin chọn đề tài “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”. Đây là một đề tài hay có nội dung và ý nghĩa to lớn, là bài học quý báu trong quá trình dựng nước và giữ nước cho mỗi thế hệ. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nghiên cứu nhưng chắc chắn bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu so sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13944 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng thực tiễn ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÔI DUNG CƠ BẢN I – Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 1 – Những giá trị truyền thống tạo nên sức mạnh của dân tộc. Những giá trị truyền thống dân tộc bao gồm chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do ; tinh thần nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết, sự tương thân, tương ái, vị tha của dân tộc; tinh thần lạc quan yêu đời, ý thức tự lực tự cường…Những giá trị truyền thống này được hình thành củng cố trong những điều kiện địa – chính trị, môi trường tự nhiên, nền kinh tế, cấu trúc xã hội (gia đình – làng – nước) rất đặc trưng của Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử và đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả dân tộc để chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Những giá trị truyền thống đó đã trở thành tình cảm tự nhiên, một triết lí nhân sinh, một phép ứng xử và tư duy lí luận, tư duy chính trị, chi phối đạo làm người của người Việt Nam, xuyên suốt chiều dài lịch sử như: “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng; một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao; tình làng, nghĩa nước… Những giá trị truyền thống đó còn được các anh hùng dân tộc ở các thời kì lịch sử khác nhau đúc kết nâng lên thành phương pháp đánh giặc giữ nước như: phương pháp thống nhất lợi ích, tư tưởng; phương pháp nuôi dướng sức dân và sử dụng sức quân của Trần Hưng Đạo: “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”; “chiến sĩ một lòng phụ tử”; “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc giữ nước”; phương pháp tập hợp lực lượng và sức mạnh nhân dân của Nguyễn Trãi và hai cụ Phan “dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”… Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc, thấy rõ được sức mạnh dân tộc, những quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của ông cha kết hợp với những giá trị thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân nghĩa của ông cha ta để lại. Những giá trị truyền thống của dân tộc là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 2. Quá trình tổng kết thực tiễn những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào yêu nước Cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới. Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngoài của Hồ Chí Minh. Từ việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: vận mệnh của đất nước đòi hỏi một lực lượng lãnh đạo mới có đủ khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại, có đủ sức quy tụ và tập hợp lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, phong kiến và xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Từ việc tổng kết các phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp là những cuộc cách mạng “chưa đến nơi” vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột và nghèo nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Chỉ có cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để, vì “cách mạng rồi thì quyền trao cho quần chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Và nó đã để lại bài học kinh nghiệm về việc tập hợp quần chúng công nông đông đảo trong việc giành, giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới. Phong trào cách mạng ở các nước phương Đông: Trung Quốc, Ấn Độ…đã đem lại bài học bổ ích về việc tập hợp lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kết luận trên đã giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết cho việc lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình. 3. Một số quân điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin. - Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; - Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; - Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc; - Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng; - Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”…. Đó là những quan điểm lý luận là cơ sở khoa học hết sức cần thiết trong lập trường tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Nhờ những quan điểm trên mà Hồ Chí Minh đã có cơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của các đời trước để lại chuyển hóa chúng thành hệ tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc. Sự thống nhất hài hòa giữa tư tưởng – hành động, đạo đức – nhân cách Hồ Chí Minh đã làm cho đại đoàn kết dân tộc không chỉ là khẩu hiệu, tư tưởng mà còn là động lực, sức mạnh quy tụ toàn dân tộc và quốc tế vào sự nghiệp Cách mạng. II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai đoạn, giải phóng con người. 1 – Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhân thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn kết là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì : đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một mối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô, mức độ của thành công. Chính vì thế, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Ví dụ: Tại sao Pháp – một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng - quyết không làm nô lệ, chỉ có một chí - quyết không chịu mất nước, chỉ có một mục đích - quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” Chiến lược đó được tổng kết thành những luận điểm có tính chân lý như “đoàn kết là sức mạnh của chúng ta; đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”… Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kì phát triển của cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau trong cộng đồng các dân tộc. Có như vậy, chiến lược đại đoàn kết mới phát huy hết vai trò tích cực của mình. 2 – Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng “đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Mục tiêu là : “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”, nhiệm vụ là tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho nhân dân hiểu được và làm được. Ví dụ : “một là đoàn kết; hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội, ba là đấu tranh thống nhất nước nhà ”. Chỉ có như vậy mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng mới trở thành mục tiêu, nhiệm vụ của cả dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mới trở thành đòi hòi khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức và thành sức mạnh. 3 – Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân. Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân. Khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, không phân biệt người già, người trẻ, trai, gái… Điều đó có nghĩa là, đại đoàn kết dân tộc là phải tập hợp mọi người dân vào một khối thống nhất, vì sự nghiệp đấu tranh chung, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân Việt Nam, đang sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc. Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người, xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt “Bất kì ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bay giờ chúng ta vẫn thật thà đoàn kết với họ”. Theo Người “ Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì đoàn kết với họ”. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi mờ che mắt, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đoàn kết toàn dân – là liên minh công, nông và lao động trí óc. 4 – Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, dân tộc hay quần chúng nhân dân khi chưa được tổ chức, giác ngộ về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng thì chỉ là số đông chưa có sức mạnh, nhưng khi được tổ chức, giác ngộ và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn sẽ trở thành sức mạnh vô địch. Tổ chức thể hiện sức mạnh vật chất của khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Đây là một tổ chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân như: Hội phản đế đồng minh (năm 1930), Mặt trận dân chủ (năm 1936), Mặt trận nhân dân phản đế (năm 1939), Mặt trận Việt Minh (năm 1941), Mặt trận Liên Việt (năm 1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (năm 1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (năm 1955 và 1976). Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo những nguyên tắc sau: + Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng. + Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố, không ngừng mở rộng. + Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức cứu nước phù hợp với từng giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo…Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người con đất Việt, kể cả những người định cư ở nước ngoài. Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Muốn lãnh đạo được Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, phải thật sự đoàn kết nhất trí. Đảng cộng sản Việt Nam phải là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Người viết “Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Từ đó, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận ở Việt Nam là : Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt trận nhân dân tiến bộ thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược. III - Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong thực tiễn Cách mạng Việt Nam và hiện nay 1. Thực trạng chung. Thực tiễn Cách mạng Việt Nam hơn 70 năm là những minh chứng hùng hồn cho sức mạnh vĩ đại của sự đoàn kết của dân tộc ta noi theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của đảng, chính sách của nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta. Lòng tin vào đảng, nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống… 2. Nhiệm vụ, yêu cầu. Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do: Đảng ta chưa kịp thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội, trong quá trình Đổi Mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; một số chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất… không thực hiện được vai trò tiên phong gương mẫu. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, nhà nước và nhân dân ta. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. cụ thể: Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ. Bên cạnh đó, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: chỉ khi có công nhân thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng thực tiễn ở nước ta.doc