Trong quá trình nhận thức, yêu cầu tính khách quan trong xem xét đòi hỏi phải nắm sự vật như một hiện thực tồn tại độc lập ở bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể, như một sự vật tự nó, trong những điều kiện tồn tại tất yếu của nó. Nhưng những điều kiện tất yếu để sự vật tồn tại hiện thực là những mối liên hệ đa dạng của nó với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định các mối quan hệ của nó với các sự vật khác. Qua đó, rõ ràng, sự vật ở dạng tự nó cần được xem xét không phải tách rời các điều kiện tồn tại tất yếu của nó, mà trong những mối liên hệ và quan hệ của nó.
Liên hệ trước đó là quan hệ giữa các sự vật và các hiện tượng của hiện thực. Nhưng không phải quan hệ nào cũng là liên hệ. Liên hệ là quan hệ giữa hai hiện tượng khi sự thay đổi hiện tượng này tất yếu phải có sự thay đổi nhất định của hiện tượng kia. Ngược lại, sự tách biệt (riêng rẽ) là mối quan hệ giữa các hiện tượng của hiện thực khi sự thay đổi của một hiện tượng không động chạm gì đến các hiện tượng khác, không kèm theo những thay đổi nhất định của các hiện tượng kia. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có mối quan hệ qua lại có cả quan hệ tách biệt, cũng như trong trường hợp tách biệt có cả mối quan hệ qua lại. Như vậy, liên hệ và tách biệt (riêng rẽ) bao giờ cũng tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của bất kỳ quan hệ cụ thể nào giữa các hiện tượng của hiện thực.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng các hiện tượng được quan sát trong thế giới, với toàn bộ tính biệt lập về chất, tính riêng rẽ, tách biệt của chúng, chúng vẫn nằm trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, bởi lẽ tất cả các hiện tượng đó đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc, cơ sở ban đầu như nhau.
A-ri-xtốt xem mối liên hệ và riêng rẽ (tách biệt) là thuộc tính của tồn tại, mối liên hệ giữa các vật thể khác nhau không chỉ như sự thống nhất được quy định bởi nguồn gốc chung từ một cơ sở thống nhất, cơ sở đầu tiên (vật chất đầu tiên) mà còn như sự phụ thuộc, quy định qua lại của các vật thể.
Theo Căn-tơ quan hệ tất yếu bao gồm cả liên hệ, cả riêng rẽ (tách biệt), các khái niệm cũng đồng thời vừa liên hệ với nhau, vừa riêng rẽ, chúng ghi nhận cả sự hiện diện, cả sự vắng mặt của liên hệ. Nhưng ông lại phủ nhận sự có mặt của mối liên hệ qua lại mang tính quy luật phổ biến trong thực tại khách quan, mối liên hệ qua lại đó được đưa vào thế giới hiện thực nhờ ý thức.
Còn Hê-ghen cho rằng sự liên hệ qua lại, sự thống nhất về bản chất về cơ bản là đặc trưng cho thế giới hiện tượng, rằng chúng tồn tại một cách khách quan, bên ngoài nhận thức con người, và là những hình thái tồn tại phổ biến của sự vật.
Ph.Bê-cơn cho rằng một khi đã phân chia sự vật thành những yếu tố riêng biệt hình thành nên nó thì chúng ta không tránh khỏi sẽ thủ tiêu nó với tư cách là một tạo thể xác định vật chất, và như vậy thì chỉ có thể nhận thức được các yếu tố đó tạo nên khi nghiên cứu một cách toàn diện mối liên hệ và phụ thuộc qua lại giữa các yếu tố đó.
Khác với các nhà siêu hình phủ nhận mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng trong hiện thực, khác với những người theo chủ nghĩa duy tâm quy kết hoặc rút ra mối liên hệ đó từ ý thức, từ tinh thần, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại của mối liên hệ toàn diện giữa các hiện tượng và sự vật trong thế giới vật chất, xuất phát từ chỗ cho rằng tất cả những gì tồn tại trong thế giới đều là những khâu của một thực thể vật chất thống nhất, đều là những trạng thái và hình thức tồn tại khác nhau của thực thể đó. V.I.Lê-nin nhấn mạnh “ Những quan hệ của mỗi sự vật, hiện tượng không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều liên hệ với mỗi sự vật khác”.
Ngày nay, cách hiểu như vậy về tính phổ biến của liên hệ không những được các nhà triết học tán thành và tuân thủ như một nguyên tắc xuất phát trong việc vạch ra lý luận của phép biện chứng dựa vào sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại mà cả những đại biểu của các khoa học cụ thể cũng tính đến quan điểm này khi xây dựng các lý luận của mình.
Nhưng nếu một sự vật nằm trong mối liên hệ qua lại hữu cơ với các sự vật khác và mối liên hệ qua lại đó là điều kiện tất yếu và là hình thái tồn tại của nó, nếu sự vật quy định sự bộc lộ các thuộc tính tương ứng của nó thì để nhận thức được sự vật, để phát hiện được những thuộc tính đặc trưng, để xem xét nó một cách tất thì phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các vật đó, tính đến toàn bộ tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những vật khác. V.I.Lê-nin đã nhận xét: “Muốn thực hiện sự hiểu biết sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, chúng ta phải nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để có thể xây dựng quan điểm toàn diện nhằm đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9861 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN:
1. Lịch sử của quan điểm toàn diện:
Trong quá trình nhận thức, yêu cầu tính khách quan trong xem xét đòi hỏi phải nắm sự vật như một hiện thực tồn tại độc lập ở bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể, như một sự vật tự nó, trong những điều kiện tồn tại tất yếu của nó. Nhưng những điều kiện tất yếu để sự vật tồn tại hiện thực là những mối liên hệ đa dạng của nó với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định các mối quan hệ của nó với các sự vật khác. Qua đó, rõ ràng, sự vật ở dạng tự nó cần được xem xét không phải tách rời các điều kiện tồn tại tất yếu của nó, mà trong những mối liên hệ và quan hệ của nó.
Liên hệ trước đó là quan hệ giữa các sự vật và các hiện tượng của hiện thực. Nhưng không phải quan hệ nào cũng là liên hệ. Liên hệ là quan hệ giữa hai hiện tượng khi sự thay đổi hiện tượng này tất yếu phải có sự thay đổi nhất định của hiện tượng kia. Ngược lại, sự tách biệt (riêng rẽ) là mối quan hệ giữa các hiện tượng của hiện thực khi sự thay đổi của một hiện tượng không động chạm gì đến các hiện tượng khác, không kèm theo những thay đổi nhất định của các hiện tượng kia. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có mối quan hệ qua lại có cả quan hệ tách biệt, cũng như trong trường hợp tách biệt có cả mối quan hệ qua lại. Như vậy, liên hệ và tách biệt (riêng rẽ) bao giờ cũng tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của bất kỳ quan hệ cụ thể nào giữa các hiện tượng của hiện thực.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng các hiện tượng được quan sát trong thế giới, với toàn bộ tính biệt lập về chất, tính riêng rẽ, tách biệt của chúng, chúng vẫn nằm trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, bởi lẽ tất cả các hiện tượng đó đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc, cơ sở ban đầu như nhau.
A-ri-xtốt xem mối liên hệ và riêng rẽ (tách biệt) là thuộc tính của tồn tại, mối liên hệ giữa các vật thể khác nhau không chỉ như sự thống nhất được quy định bởi nguồn gốc chung từ một cơ sở thống nhất, cơ sở đầu tiên (vật chất đầu tiên) mà còn như sự phụ thuộc, quy định qua lại của các vật thể.
Theo Căn-tơ quan hệ tất yếu bao gồm cả liên hệ, cả riêng rẽ (tách biệt), các khái niệm cũng đồng thời vừa liên hệ với nhau, vừa riêng rẽ, chúng ghi nhận cả sự hiện diện, cả sự vắng mặt của liên hệ. Nhưng ông lại phủ nhận sự có mặt của mối liên hệ qua lại mang tính quy luật phổ biến trong thực tại khách quan, mối liên hệ qua lại đó được đưa vào thế giới hiện thực nhờ ý thức.
Còn Hê-ghen cho rằng sự liên hệ qua lại, sự thống nhất về bản chất về cơ bản là đặc trưng cho thế giới hiện tượng, rằng chúng tồn tại một cách khách quan, bên ngoài nhận thức con người, và là những hình thái tồn tại phổ biến của sự vật.
Ph.Bê-cơn cho rằng một khi đã phân chia sự vật thành những yếu tố riêng biệt hình thành nên nó thì chúng ta không tránh khỏi sẽ thủ tiêu nó với tư cách là một tạo thể xác định vật chất, và như vậy thì chỉ có thể nhận thức được các yếu tố đó tạo nên khi nghiên cứu một cách toàn diện mối liên hệ và phụ thuộc qua lại giữa các yếu tố đó.
Khác với các nhà siêu hình phủ nhận mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng trong hiện thực, khác với những người theo chủ nghĩa duy tâm quy kết hoặc rút ra mối liên hệ đó từ ý thức, từ tinh thần, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tồn tại của mối liên hệ toàn diện giữa các hiện tượng và sự vật trong thế giới vật chất, xuất phát từ chỗ cho rằng tất cả những gì tồn tại trong thế giới đều là những khâu của một thực thể vật chất thống nhất, đều là những trạng thái và hình thức tồn tại khác nhau của thực thể đó. V.I.Lê-nin nhấn mạnh “…Những quan hệ của mỗi sự vật, hiện tượng không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều liên hệ với mỗi sự vật khác”.
Ngày nay, cách hiểu như vậy về tính phổ biến của liên hệ không những được các nhà triết học tán thành và tuân thủ như một nguyên tắc xuất phát trong việc vạch ra lý luận của phép biện chứng dựa vào sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại mà cả những đại biểu của các khoa học cụ thể cũng tính đến quan điểm này khi xây dựng các lý luận của mình.
Nhưng nếu một sự vật nằm trong mối liên hệ qua lại hữu cơ với các sự vật khác và mối liên hệ qua lại đó là điều kiện tất yếu và là hình thái tồn tại của nó, nếu sự vật quy định sự bộc lộ các thuộc tính tương ứng của nó thì để nhận thức được sự vật, để phát hiện được những thuộc tính đặc trưng, để xem xét nó một cách tất thì phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các vật đó, tính đến toàn bộ tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những vật khác. V.I.Lê-nin đã nhận xét: “Muốn thực hiện sự hiểu biết sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
2. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, chúng ta phải nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để có thể xây dựng quan điểm toàn diện nhằm đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn hiệu quả.
2.1. Nội dung nguyên lý:
2.1.1. Định nghĩa về mối quan hệ:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau, cái này nằm cạnh cái kia, không có sự liên hệ lẫn nhau; còn nếu có sự liên hệ thì đó là sự liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt, bề ngoài; và nếu có nhiều mối liên hệ thì bản thân từng mối liên hệ lại cô lập lẫn nhau.
+ Quan điểm biện chứng cho rằng mối liên hệ là sự tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau mà sự thay đổi cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia. Đối lập với sự liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại nhưng sự thay đổi cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay đổi các kia. Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới vừa tách biệt nhau vừa liên hệ ràng buộc, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau; thế giới là một hệ thống chỉnh thể thống nhất mà mọi yếu tố, bộ phận của nó luôn tác động qua lại chuyễn hóa lẫn nhau. Tuy nhiên, có hai loại quan điểm biện chứng.
- Quan điểm biện chứng duy tâm cố tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó ở trong các lực lượng siêu tư nhiên hay cảm giác, ý thức con người.
- Quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng cơ sở của sự liện hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó ở trong vật chất và mối liên hệ mang tính khách quan - tức tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và nhận thức của con người, và mang tính phổ biến - tức là tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện tượng.
2.1.2. Phân loại mối liên hệ:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới rất đa dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất quy định tính đa dạng của mối liên hệ; và các hình thức, kiểu liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tùy theo cơ sở phân chia mà mối liên hệ được chia thành:
+ Liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp.
+ Liên hệ bản chất và liên hệ không bản chất.
+ Liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên.
+ Liên hệ đồng đại (không gian) và liên hệ lịch đại (thời gian), ...
Dù mọi cách phân chia đều tương đối nhưng phép biện chứng duy vật rất quan tâm đến việc chia mối quan hệ dựa trên vai trò và phạm vi tác động của bản thân chúng.
+ Nếu dựa trên vai trò tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật thì liên hệ được chia thành mối liên hệ bên trong và mối liện hệ bên ngoài.
+ Nếu dựa trên phạm vi tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật thì mối liên hệ được chia thành mối liên hệ chung, mối liên hệ riêng, mối liên hệ phổ biến.
2.1.3. Tóm tắt nội dung nguyên lý:
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của mối liên hệ xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được phát biểu như sau:
Một là, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc qua lại lẫn nhau.
Hai là, trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan - phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự vận động và phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng quá trình trong thế giới.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận - Quan điểm toàn diện:
Nếu nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể xây dựng quan điểm toàn diện để đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn hiệu quả.
Quan điểm toàn diện là cách đánh giá sự vật hiện tượng (tự nhiên, xã hội, con người...) một cách bao quát nhiều mặt, nhiều khía cạnh... để dẫn đến quyết định đúng.
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
3. Những yêu cầu cơ bản của quan điểm toàn diện:
Trong nhận thức và hành động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện trong việc xem xét giải quyết một vấn đề trong thực tiễn.
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải tìm hiểu để phát hiện ra càng nhiều càng tốt những mối liên hệ chi phối đối tượng nhận thức. Sau đó, phân loại để xác định trong các mối liên hệ đã được phát hiện ra thì mối liên hệ nào là liên hệ bên trong, liên hệ cơ bản, liên hệ tất nhiên, liên hệ ổn định… Và dựa vào các mối liên hệ đó để lý giải được những mối liên hệ còn lại. Cuối cùng là nhìn thấy sự vật như là một chỉnh thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong bản thân sự vật, hiện tượng và giữa sự vật hiện tượng đó với những sự vật hiện tượng khác, với môi trường xung quanh… Thực chất của quan điểm toàn diện là trong khi chú ý xem xét tất cả các mặt của sự vật, tư duy phải phát hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất của sự vật một cách giãn bình quân, không biết đâu là bản chất của sự vật. Từ việc nắm được bản chất của sự vật, chúng ta cũng nhìn thấy các mặt khác của sự vật một cách sâu sắc trong chỉnh thể của tất cả các mặt.
Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong hoạt động thực tiễn: chú trọng đến mối liên hệ và đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Sau đó, thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để biến đổi những mối liên hệ đó, đặc biệt là những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…Cuối cùng, nắm vững sự chuyển hóa của các mối liên hệ để kịp thời đưa ra các biện pháp bổ sung nhằm phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, và lèo lái sự vận động, phát triển của đối tượng đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Như vậy, để cải tạo một sự vật chúng ta phải áp dụng đồng bộ một hệ thống những biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên, đồng bộ không có nghĩa là dàn đều, bình quân mà trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt.
4. Nếu không tuân thủ những đòi hỏi của quan điểm toàn diện thì chúng ta sẽ mắc phải các sai lầm sau:
Thực hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ nhìn thấy một mặt, một khía cạnh, mà không thấy đầy đủ các mặt, các khía cạnh khác của vấn đề hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết Trung (hệ thống quan điểm máy móc pha trộn những yếu tố thuộc những quan điểm triết học, lí luận chính trị khác nhau, đối lập nhau) mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất là không thể kết hợp với nhau được.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:
1. Thực trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng.
Chiếm tới 60-70% tài sản có của các ngân hàng thương mại là phần tài sản sinh lời từ hoạt động cho vay, có nơi tỷ lệ này còn lên tới gần 90%. Tình trạng độc canh tín dụng là vấn đề sống còn trong quản trị rủi ro của giới kinh doanh ngân hàng. Số liệu này được công bố tại Hội thảo Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra tại Hà Nội. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức cao hơn so với nhiều ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cung cấp, khai thác và sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều Ngân hàng thương mại vẫn còn yếu, nên một khách hàng vay vốn tại nhiều Ngân hàng thương mại nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ rủi ro.
"Lịch sử hoạt động ngành ngân hàng từng chứng kiến trong những năm 1990, đã có không ít ngân hàng thương mại cổ phần bị rút giấy phép hoạt động hoặc phải sáp nhập với đơn vị khác vì không chịu nổi tổn thất từ những rủi ro trong hoạt động tín dụng".
2. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào việc quản lý rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
2.1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan:
2.1.1. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:
a. Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp nhiều khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua. Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
b. Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
c. Sự tấn công của hàng nhập lậu:
Cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
d. Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành:
Nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
2.1.2. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
a. Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
b. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng nhà nước:
Hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các Ngân hàng thương mại không được thanh tra Ngân hàng nhà nước cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.
c. Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web CIC còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
2.2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan:
2.2.1. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
a. Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
b. Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
c. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
2.2.2. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay:
a. Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu xát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức.
b. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ Ngân hàng thương mại đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng.
c. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng thương mại chưa thực hiện tốt công tác này do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, và hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà Ngân hàng thương mại yêu cầu.
2.2.3. Sự hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong tình hình cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Tuy nhiên hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, đánh giá một cách toàn diện rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các Ngân hàng thương mại nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm và tưởng chừng có lúc không thể trụ vững được vào những năm 96-97, khi mà hàng loạt các vụ án kinh tế có liên quan đến ngành ngân hàng, gây tổn thất nghiêm trọng về tài sản hàng ngàn tỷ đồng, con người và đặc biệt là uy tín của ngành ngân hàng trong nền kinh tế.
Qua việc phân tích những nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại bằng việc vận dụng “Quan điểm toàn diện” phần nào cũng cho ta thấy được bản chất của vấn đề mặc dù phân tích ở trên chỉ mang tính khái quát. Những rủi ro tín dụng xảy ra trong giai đoạn này cho dù có xuất phát từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đều phản ánh rõ nét những yếu kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại. Những biện pháp nhằm ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được các ngân hàng đưa ra và thực hiện một cách đầy đủ, triệt để, toàn diện và đặc biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con người.
Trước những sự việc đáng tiếc đã xảy ra liên quan đến các ngân hàng thương mại, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và ngay bản thân các Ngân hàng thương mại nên nỗ lực đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả, đồng thời định hướng phát triển cho ngành ngân hàng trong thời gian tới trên tinh thần: tăng trưởng tín dụng với chất lượng cao và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội của cả nước. Cụ thể, hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện từ cơ chế, chính sách, các văn bản pháp quy đã được ban hành như “Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng”; văn bản của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp bằng quyền sử dụng đất; Thông tư về hướng dẫn thực hiện một số quy định về đảm bảo tiền vay của các Tổ chức tín dụng; Thông tư liên tịch hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng... Điều đó đã nói lên quyết tâm của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, các cơ quan có liên quan trong việc khắc phục hậu quả và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngành ngân hàng phát triển theo hướng: giao quyền chủ động kinh doanh cho các Ngân hàng thương mại và các Ngân hàng thương mại hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những hoạt động kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra và báo cáo giám sát từ xa của Ngân hàng nhà nước phải ngày càng được chú trọng và nâng cao về mặt chất lượng, góp phần đưa hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại dần đi vào ổn định, tổng dư nợ tăng trưởng khá và tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần.
Về bản thân các Ngân hàng thương mại, sau những sự việc đáng tiếc xảy ra, các Ngân hàng thương mại phải cố gắng khắc phục hậu quả, và đồng thời công tác phòng chống, quản lý rủi ro tín dụng cũng phải được chú trọng hơn. Các ngân hàng cần tập trung đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới quy trình và bộ máy cho vay sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đảm bảo an toàn khi cho vay.
Ngoài ra, công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tư cách, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng phải được các ngân hàng đặc biệt quan tâm và mang tính thường xuyên hơn. Các hoạt động khác như công tác kiểm soát nội bộ cũng phải ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro cũng như các sai xót trong quá trình cho vay để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh việc gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thành lập phòng xử lý rủi ro tín dụng hoặc các công ty khai thác tài sản... cũng góp phần đưa hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại phát triển ổn định, chất lượng tín dụng cũng dần được nâng cao, đảm bảo tín dụng tăng trưởng bền vững.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ hiện nay tại các Ngân hàng thương mại trên địa bàn vẫn còn cao hơn mức quy định (5%). Nợ quá hạn còn cao chủ yếu là do hậu quả của các năm trước để lại, chưa giải quyết dứt điểm, song tại một số ngân hàng vẫn có tình trạng phát sinh mới về nợ quá hạn, cho thấy rủi ro tín dụng luôn tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi các ngân hàng phải chú trọng hơn nữa đến công tác phòng chống, quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại xảy ra.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu vốn của các cá nhân và doanh nghiệp ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng thương mại phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung. Tuy nhiên, sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng.
Vì vậy, các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan điểm toàn diện và việc vận dụng nó vào quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại việt nam.doc