Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam qua các thời kỳ

Điều 17 Hiến pháp 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước-đều thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của một cộng đồng người. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ. Nhưng xét cả hai phương diện, có thể nói đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả các quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai lâu dài ổn định. Việc tách hết quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai này nếu biết giải quyết sẽ đem lại sức bật cho lực lượng sản xuất phát triển. Văn kiện đại hội III của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất thu được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật, các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất ”. Như vậy, sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để trở thành nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội.

doc29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3117 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam qua các thời kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội nhà tư bản công nghiệp”(3). 2. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện đại: Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, máy móc mới, thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới, năng lượng mới. Khoa học thâm nhập ngày càng sâu sắc vào đời sống xã hội, làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại. Dưới đây là một số hình ảnh của việc áp dụng khoa học-kỹ thuật, máy móc được đưa vào sản xuất: Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở: +) Trình độ tổ chức xã hội. +) Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. +) Trình độ phân công lao động. Trong đó, trình độ phân công lao động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của lực lượng sản xuất. II. Quan hệ sản xuất: Định nghĩa quan hệ sản xuất: Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất trong quan hệ trong sản xuất xã hội- quan hệ của con người với tự nhiên, còn khái niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó- quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất. Hay nói cách khác, đó là tổng hoà các mối quan hệ trong quá trình sản xuất. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra bình thường, chính là vì trong sự sản xuất đó có mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên được thể hiện thành những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Nhưng mối quan hệ đó lại được xây dựng thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người. Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội. Nói rõ hơn về quan hệ sản xuất, C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”(4). 2. Cấu trúc, tính chất và mối quan hệ trong quan hệ sản xuất: Người với người trong tổ chức quản lý Người với người về tư liệu sản xuất Quan hệ sản xuất Người với người trong phân phối sản phẩm Từ sơ đồ, ta thấy: Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trong sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Mỗi mặt có vai trò, vị trí khác nhau nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Trong đó mặt cơ bản là quan hệ sở hữu vì ai nắm tư liệu sản xuất thì người đó chi phối quá trình tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm làm ra. Nhưng tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm luôn có tác động trở lại đối với sở hữu. Do vậy, trong ba mặt của quan hệ sản xuất không nên tuyệt đối hoá mặt nào. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa người với người về tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ sản xuất khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội lại quy định các thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quyết định cách thức mà các tập đoàn tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Suy cho cùng, quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, quan hệ giữa người với người trong tổ chức và quản lý có khả năng quyết định một cách quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất. Việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn lên tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay. Bên cạnh đó, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ trong phân phối sản phẩm là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi cho người lao động. Mặc dù còn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, vào trình độ của tổ chức quản lý, song nó có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên xem nó là “Chất xúc tác” của các quá trình kinh tế-xã hội. Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội: Quan hệ sản xuất là hình thức của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. CHƯƠNG II: QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VỚI SỰ ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU Ở VIỆT NAM I. Phạm trù sở hữu và một số vấn đề liên quan: 1. Sở hữu, quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu: Theo quan điểm Mác: “sở hữu được biểu hiện trong những hình thái của quan hệ sản xuất”. Sở hữu là nội dung bên trong của chính thể mang tính thống nhất. Tính hiện thực của sở hữu chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông qua các quan hệ giữa các thành tố của quan hệ sản xuất chứ không thể nhận thức một cách trực tiếp vì sở hữu là tổng hoà giữa các quan hệ sản xuất. Sở hữu bắt nguồn từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất công đồng, hình thái đầu tiên của quan hệ sản xuất trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến hình thái kinh tế xã hội sơ tính cá nhân đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách biệt về sở hữu. Đó là tiến trình từ sở hữu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ sở hữu cá nhân. Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng để tiến hành sản xuất thoả mãn với nhu cầu của con người. Do đó, sở hữu mang tính tất nhiên, sự chiếm hữu mang lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Sản xuất phát triển thì quan hệ sở hữu ngày càng phát triển. Như vậy, sở hữu là mối quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất cùng với các điều kiện sản xuất. Do đó, sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất. Người ta phân biệt hai loại sở hữu: sở hữu mang tính dân sự và sở hữu tư liệu sản xuất. Theo những phân tích trên, quan hệ sở hữu được thể hiện qua ba mặt, trong đó mặt cơ bản là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là một quan hệ sản xuất, là quan hệ giữa người với người, là một thể thống nhất mang tính lịch sử và tương ứng với một giai đoạn nhất định của lực lượng sản xuất. Con người không thể tự do lựa chọn các quan hệ sở hữu một cách chủ quan duy ý chí. Việc xây dựng các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cần phải tính đến những sự thay đổi về trình độ của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và đến lợi ích của người lao động nhằm tạo ra động lực cho quá trình phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Trước đây, chúng ta có những nhận thức chưa đúng, nổi bật là đã tuyệt đối hoá mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa để xoá bỏ hình thức sở hữu tư nhân và các hình thức khác nhằm xác lập chế độ công hữu dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đối với sở hữu tập thế, mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc, con trâu đến ruộng đất đều bị tập thể hoá. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do ban quản trị điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thế hoá cũng không phải là của xã viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó chẳng của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của hợp tác xã càng lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó, phát sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế ngày càng giảm sút và xã viên không gắn bó cùng hợp tác xã. Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn lương, còn giám đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng lương như người lao động. Đây chính là cơ sở kinh tế xã hội làm phát sinh tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham ô. Thực chất của chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể ở nước ta là như vậy, nhưng chúng ta lại lầm tưởng đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và đã cố gắng bảo vệ nó. Xét về mặt quan hệ sở hữu, nó là nội dung tương đối quan trọng của quan hệ sản xuất. Đó là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu hay nói cách khác đó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Do đó, cũng như quan hệ sản xuất, sự vận động của quan hệ sở hữu về hình thức, mức độ và phạm vi không phải là ý muốn chủ quan của con người mà là khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Chế độ sở hữu: chế độ sở hữu bao gồm 3 nội dung: Thứ nhất, đối tượng của sở hữu là sở hữu tư liệu tiêu dùng, sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu vốn, sở hữu chất xám, sở hữu bản quyền. Thứ hai là nội dung kinh tế của sở hữu Thứ ba là nội dung pháp lý của sở hữu Ba mặt trên của chế độ sở hữu thống nhất với nhau và chỉ có thể đảm bảo tính thống nhất của ba mặt đó thì chế độ sở hữu mới phát huy đựoc hiệu quả và không trở thành hình thức. Trong chế độ sở hữu, cần phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp và trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất là đồng nhất với nhau. Đó là sở hữu của những nông dân và thợ thủ công. Người sở hữu cũng là người sử dụng tư liệu sản xuất đó. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất lại có những diễn biến đa dạng do sự xuất hiện của nhiều loại hình sở hữu, nhiều chủ thể sở hữu và các cấp độ khác nhau. Do đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể thuộc về chủ thể duy nhất, cũng có thể là quyền sở hữu thuộc người này nhưng quyền sử dụng lại thuộc về người khác, tức là có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng trong đó có hai loại hình sở hữu cơ bản, đó là sở hữu công cộng (xã hội) và sở hữu tư nhân. Mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều trình độ và hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. Chế độ công hữu có các trình độ và hình thức biểu hiện như: sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể…Chế độ tư hữu cũng có nhiều trình độ và nhiều hình thức như: sở hữu của nông dân cá thể, sở hữu của người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu của địa chủ, sở hữu của nhà tư bản. Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. trên cơ sở đó, vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản xuất. Mục đích sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo đời sống và vật chất của người lao động được nâng cao. Sở hữu xã hội có hai hình thức cơ bản: sở hữu của thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ. Sở hữu tập thể (hợp tác xã) và sở hữu toàn dân(quốc doanh) trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. 2. Sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên: Đi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong lịch sử, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản, ta thấy tương ứng với lực lượng sản xuất thì cũng có các quan hệ sản xuất khác nhau, từ đó mà cũng tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau. Tức là sự phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên. Như phần trên chúng ta đã làm rõ khái niệm sở hữu, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, là một nội dung chủ yếu trong quan hệ sản xuất xã hội và nền sản xuất xã hội. Hình thức, mức độ, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu khhông phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà nó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Về mặt lý luận, theo Mác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác đã dùng quy luật này để lý giải sự ra đời và phát triển của năm phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản xuất xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản”, Mác đã nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác”(5). Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá trình lịch sử tự nhiên, Ăngghen khuyên rằng: ‘Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” bởi vì sự tồn tại của các hình thức là khách quan, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Về mặt thực tiễn, chế độ sở hữu đã từng tồn tại trong lịch sử tương ứng với các phương thức sản xuất nhất định. Trong phương thức sản xuất Cộng sản nguyên thuỷ, chế độ sở hữu là sở hữu tập thể của các thị tộc và bộ lạc về tư liệu sản xuất cũng như của cải kiếm được. Ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sản xuất chủ yếu là săn bắt, hái lượm, công cụ sản xuất rất thô sơ, chủ yếu là cung tên, rìu đá. Tổ chức xã hội dưới hình thái các thị tộc, bộ lạc. Do đặc điểm tổ chức xã hội và trình độ phát triển của sản xuất rất thấp như vậy nên hình thức sở hữu trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đó là sở hữu tập thể và các tư liệu sản xuất và từ đó cũng sở hữu tập thể về thức ăn, của cải kiếm được. Mọi người trong bộ lạc đều phải đi săn bắt, hái lượm đem về trong các hang đá, và cùng ăn, cùng hưởng. Như vậy, tương ứng với trình độ phát triển rất thấp của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi các công cụ sản xuất dần phát triển, lực lượng sản xuất phát triển thì trong các thị tộc, bộ lạc bắt đầu xuất hiện của cải dư thừa, không tiêu dùng hết. Chúng lại thuộc về các tộc trưởng, từ đó nảy sinh tư hữu. Như vậy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tương ứng với nó là quan hệ sở hữu hay nói rộng hơn là quan hệ sản xuất phù hợp với nó, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất cao hơn đó là phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Trong phưong thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, chế độ sở hữu là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất và cả người nô lệ. Của cải sản xuất ra thuộc toàn bộ về các chủ nô. Ở giai đoạn này, các chủ nô sở hữu các đồn điền, các tư liệu sản xuất khác, mua các nô lệ như các hàng hoá khác và tiến hành tổ chức sản xuất. Hình thức sản xuất chủ yếu không phải là săn bắn, hái lượm nữa mà chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi trong các đồn điền, nông trang. Như vậy, do lực lượng sản xuất phát triển mà đòi hỏi tương ứng với nó phải là hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất và hình thức sản xuất phù hợp. Hình thức sở hữu tập thể của các công xã không còn phù hợp nữa, kìm hãm sản xuất tất yếu đòi hỏi chế độ sở hữu mới đó là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất không chỉ phát triển đến đó mà nó còn tiếp tục phát triển. Khi mà lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ nhất định thì sở hữu của chủ nô về tư liệu sản xuất và người nô lệ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất, người nô lệ không chịu nổi những áp bức bóc lột hà khắc đó nữa, họ đứng lên lật đổ giai cấp chủ nô, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất mới là phương thức sản xuất phong kiến tiến bộ hơn. Trong phương thức sản xuất phong kiến, chế độ sở hữu là sở hữu ruộng đất thuộc về địa chủ. Người nông dân muốn thuê ruộng để sản xuất thì phải nộp địa tô cho địa chủ. Chế độ sở hữu này tiến bộ hơn chế độ sở hữu trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Người nông dân được tự do về thân thể, họ thuê đất để tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi nộp tô cho địa chủ thì phần còn lại họ được hưởng. Tuy nhiên, do năng suất lao động trong thời kỳ này vẫn còn thấp, do kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu nên họ cũng chỉ đủ sống do sưu cao thuế nặng. Khi lực lượng sản xuất phát triển, các kỹ thuật sản xuất mới, hiện đại ra đời, sản xuất không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nữa mà mở sang lĩnh vực công nghiệp. Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp tư sản, giai cấp này ngày càng lớn mạnh. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất lớn tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu mới tiến bộ hơn và phù hợp hơn đó là chế độ tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đưa xã hội lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là phương thức tư bản chủ nghĩa. Trong phương thức tư bản chủ nghĩa, tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà tư bản sở hữu về vốn, tư liệu sản xuất, kỹ thuật đứng ra lập các xí nghiệp tư bản, thuê nhân công và trả lương cho họ, sản phẩm làm ra thuộc về nhà tư bản. Do chế độ tư hữu trong thời kỳ này phù hợp, nó phát huy được tối đa sức sản xuất trong xã hội vì mục tiêu của sản xuất là lợi nhuận. Năng suất lao động dưới chủ nghĩa tư bản cao gấp nhiều lần trong các phương thức sản xuất trước đó, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao tất yếu đòi hỏi quan hệ sở hữu hay quan hệ sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp. Ở thời điểm hiện nay, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại là do những yếu tố tích cực, hợp lý của nó vẫn còn tồn tại. Theo phân tích của Mác, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà ở đó chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Giai đoạn chủ nghĩa xã hội, ở giai đoạn này, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao như chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi quan hệ sở hữu cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Tuy nhiên trước đây, do nhận thức chưa đúng, chúng ta đã thay đổi quan hệ sở hữu bằng cách công hữu hoá một cách vô hạn đó, công hữu hoá càng nhiều, càng nhanh càng tốt mà không xét đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 3. Cơ cấu sở hữu ở Việt Nam trong các thời kỳ trước: a) Giai đoạn 1945-1959: Việt Nam là nước nông nghiệp với tỷ lệ khá lớn dân cư sống nhờ vào ruộng đất nên chế độ sở hữu ruộng đất là vô cùng quan trọng. Dưới chế độ phong kiến thực dân, cuộc sống của người dân là vô cùng khó khăn. Sau khi cách mạng tháng tám thành công, ngày 02/09/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công-nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước Việt Nam đã ban hành hiến pháp 1946 để quy định, bảo hộ các quyền công dân. Hiến pháp này đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù địch, của giai cấp địa chủ phong kiến. Điều 12 Hiến pháp ghi: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm”. Quy định này của Hiến pháp 1946 thật sự dân chủ, nhân quyền, xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng khi đó là: “bảo đảm lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Nói cách khác, pháp luật giai đoạn này đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu nới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó, xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này, ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta coi công hữu là mục tiêu. b) Giai đoạn 1959-1960: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc việt Nam được giải phóng, nhân dân miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh để chi viện sức người, sức của cho đồng bào miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Điều 11 Hiến pháp quy định: “Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc”.Hiến pháp thời kỳ này xác định chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, nguyên tắc quản lý nền kinh tế là chính sách kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhưng phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập cùng với nó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Hiến pháp 1959 thừa nhận sự tồn tại của bốn hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất, sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng, trưng thu khi cần thiết vì lợi ích chung. Trong những năm này, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng được phân phối theo kế hoạch, cho nên các giao lưu dân sự không phát triển, vì vậy cá nhân có quyền sở hữu đối với tư liệu tiêu dùng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt. c) Giai đoạn 1980-1986: Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980, Nhà nước ban hành Hiến pháp mới. Điều 17 Hiến pháp 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước-đều thuộc sở hữu toàn dân”. Tóm lại, trước khi tiến hành đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước quá độ để đi đến sở hữu toàn dân. Về tính khách quan, hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp kinh tế-xã hội… Thực tế, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp… Về tính chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu xã hội chủ nghĩa. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với chủ nghĩa xã hội, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thoả mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trước tình hình: Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại. Từ đây, đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam 1. Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam: 1.1. Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất: Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, dưới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển, ảnh hưởng tới sự phát triển nhiều mặt của nước ta. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều có quy luật vận động và phát triển của nó. Lực lượng sản xuất cũng vậy, biến đổi dần dần về số lượng và biến đổi căn bản từ chất cũ sang chất mới. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là bước nhảy vọt căn bản, tạo nên một chất lượng hoàn toàn mới trong kết cấu, cấu trúc cũng như trong mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Sự phát triển trong lực lượng sản xuất có đặc tính làm thay đổi căn bản những tư liệu lao động, quy trình công nghệ cơ sở khoa học của sản xuất, lực lượng sản xuất. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình trạng đất nước lạc hậu, trình độ còn thấp kém. Trong sản xuất nông nghiệp: đến năm 80, nền nông nghiệp chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của nền sản xuất nhỏ, nó chỉ mới đang ở ngưỡng cửa của sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp nước ta chiếm 70% lực lượng lao động xã hội, sức kéo trâu bò mới chỉ đảm bảo được 47% diện tích canh tác, sức kéo bằng máy đảm bảo 37%, còn lại 16% diện tích chưa có sức kéo phải dùng đến sức người để thay thế. Về trình độ văn hóa và trình độ kỹ thuật của người lao động ở nước ta đang còn thấp, năng lực quản lý còn kém, tỉ lệ cán bộ ở trình độ đại học đạt 3,7%. Trong lực lượng sản xuất, chúng ta chỉ chú ý đến tư liệu sản xuất, thiếu sự cân xứng cần thiết ở yếu tố con người vả về trình độ lẫn thái độ lao động của con người. Bản thân con người là yếu tố chủ thể quan trọng nhất trong sản xuất, song đặt trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên trở nên thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế, mất đi một cách tự nhiên. Chính vì vậy, nó đã kìm hãm tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất. Đi lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi tất yếu phải thực hiện hiện đại hóa lực lượng sản xuất, tạo nên sự phát triển cho lực lượng sản xuất. Con người có thể tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, có thể đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển đó, thông qua những hoạt động phù hợp hay không phù hợp với những quy luật vận động của lực lượng sản xuất với quy luật quan hệ sản xuất. Tóm lại, lực lượng sản xuất là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy, phát triển đất nước. 1.2. Tính tất yếu khách quan của sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay Đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở nước ta là tất yếu khách quan, xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau: Trước hết, từ đặc điểm của thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nền kinh tế chưa thể đơn nhất hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Nhận thức tính khách quan của sự tồn tại các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII chỉ rõ: “…phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, với sự đa dạng về hình thức sở hữu”. Hai là, từ sự phát triển không đều của lực lượng sản xuất giữa các vùng, ngành kinh tế ở nước ta hiện nay.Nền kinh tế ở nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến. Do đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất rất không đều nhau giữa các vùng, ngành kinh tế của đất nước. Chính vì thế, đòi hỏi phải có các hình thức sở hữu tương ứng, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng vùng miền khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là, với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay chưa thể đơn nhất hoá, mà đa dạng hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trở thành tất yếu khách quan. Ba là, thực tiễn nước ta trước đây và hiện nay. Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự vượt trước của quan hệ sản xuất trong khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất chưa cho phép, đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội. Đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội,. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời kỳ mới cho đất nước bằng sự nghiệp đổi mới toàn diện xã hội. Thực hiện nhất quán đường lối đa dạng hoá hình thức sở hữu, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.3. Các hình thức sở hữu ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Chúng ta tiến hành công cuộc đỏi mới, tiến hành hoàn thiên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối ưu các lợi ích: cá nhân, tập thể và nhà nước. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ăngghen cho rằng các hình thức sở hữu được xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Qua nhiều năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tế cho thấy, các hình thức sở hữu ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm các hình thức sở hữu sau: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân, sở hữu tư bản tư nhân. Mỗi hình thức sở hữu nói trên lại có địa vị và vai trò khác nhau, địa vị của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng vận động của các hình thức sở hữu như sau: Sở hữu toàn dân: Điều 17 Hiến pháp 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước-đều thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của một cộng đồng người. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ. Nhưng xét cả hai phương diện, có thể nói đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả các quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai lâu dài ổn định. Việc tách hết quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai này nếu biết giải quyết sẽ đem lại sức bật cho lực lượng sản xuất phát triển. Văn kiện đại hội III của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất thu được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật, các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất…”. Như vậy, sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để trở thành nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội. Sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây, chúng ta đã đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy, có thời gian dài người ta bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hóa nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Trong một xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nước ở nước ta, có lẽ thể hiện chủ yếu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện chủ sở hữu. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân được nhà nước giao vốn, các tư liệu sản xuất, các phương tiện làm việc…để quản lí, sử dụng. Nhà nước không giao cho các cơ quan, nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cá nhân quyền sở hữu mà chỉ giao cho quyền sử dụng. Khi sử dụng không đúng mục đích hoặc trái quy định của pháp luật, nhà nước có thể chuyển giao quyền sử dụng từ cơ quan tổ chức này cho cơ quan, tổ chức khác…Phạm vi quản lí của sở hữu nhà nước rất rộng, trong tất cả các lĩnh vực, nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải… Sở hữu tập thể: Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lí và cùng hưởng lợi. Ở nước ta trước đây, hình thức này chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã, với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu. Những người lao động họ tự nguyện liên hiệp lại, thành lập các loại hình hợp tác xã khác nhau do tập thể xã viên làm chủ. Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra đều thuộc quyền sở hữu công cộng của hợp tác xã. Sản phẩm làm ra được phân phối theo số lượng và chất lượng lao động của xã viên tham gia trong quá trình sản xuất. Nói cách khác, hợp tác xã là nhu cầu cần thiết của kinh tế hộ gia đình. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình tự nhất định nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác phát triển. Nhu cầu về cuộc sống: vốn, vật tư, sản phẩm…đòi hỏi các hộ sản xuất phải phù hợp với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Hình thức sở hữu hợp tác là một hình thức tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được hình thành do: đóng góp tự nguyện của các thành viên trong tổ chức như vốn, trâu, bò, nông cụ, nhà xưởng, máy móc...nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất, tích lũy, mở rộng sản xuất; nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như Lênin nói: “Chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”. Sở hữu cá thể: Ở nước ta, hình thức này tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trước đây, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta có tính chât tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay nó đang được khuyến khích phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi, kinh tế cá thể có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng có quan hệ khăng khít với hình thức sở hữu hợp tác, kinh tế cá thể, tiểu chủ có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm, từng người dân. Kinh tế cá thể, tiểu chủ về thực chất là thành phần kinh tế sản xuất nhỏ. Nó dựa trên sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và về lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động trên những quy luật kinh doanh và luôn bị phân tán. Vì thế cần phải có biện pháp kinh tế để cải biến nó theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân: Sở hữu tư nhân là quyền sở hữu của một người hay một nhóm người được sở hữu tư liệu sản xuất do sức lao động của cá nhân, xí nghiệp…hưởng những thành quả do chính mình làm ra. Ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư bản, hình thức kinh doanh dưới dạng xí nghiệp hay công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư vốn… Hình thức sở hữu tư nhân ra đời mang nhiều ý nghĩa. Nó giúp cho ý thức về sở hữu là vô cùng quan trọng. Việc ý thức được về người chủ, về người sở hữu đã kích thích sự quan tâm thường xuyên của họ tới việc tạo ra của cải vật chất và bảo vệ thành quả lao động. Trong sở hữu tư nhân, nó sẽ là động lực thúc đẩy sự tìm tòi những cái mới đề làm phát triển cuộc sống của chính mình, làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. 2. Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu: Tóm lược sơ đồ chung: Phương thức sản xuất Quan hệ sở hữu Quan hệ sản xuất Các hình thức sở hữu Lực lượng sản xuất 2.1 Sự tác động của lực lượng sản xuất đối với các hình thức sở hữu Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất, con người không ngừng cải tiến và ngày càng hoàn thiện hơn các công cụ sản xuất mới. Công cụ lao động mới sẽ tác động, làm cho tư liệu lao động mới, tư liệu lao động mới thì tư liệu sản xuất mới, từ đó sẽ có lực lượng sản xuất mới. Đồng thời, sự tiến bộ của công cụ tri thức khoa học, trình độ chuyên môn ký thuật và mọi kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển của quan hệ sản xuất, từ đó nó quy định sự phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu, từ đó hình thành nên các hình thức sở hữu tương ứng. Chỉ như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác- sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác-sử dụng và phát triển trong một hình thái sở hữu nhất định. Lực lượng sản xuất phát triển nhanh hay chậm thì cũng được xem xét: quan hệ sản xuất có phù hợp với nó hay không. Chẳng hạn, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến một trình độ cao, nhu cầu xã hội chưa phải là một tất yếu thì việc đa dạng hóa các quan hệ sở hữu thông qua sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, mở ra những khả năng cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Ngược lại, nếu giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có những mâu thuẫn thì không những quan hệ sản xuất lỗi thời mà ngay cả quan hệ sản xuất luôn luôn được đổi mới hoàn thiện cho phù hợp với lực lượng sản xuất thì khi đó, quá trình biến đổi tích lũy về lượng của lực lượng sản xuất sẽ nhanh hơn, mâu thuẫn giữa chúng sẽ được giải quyết kịp thời. Việc hoàn thiện quan hệ sản xuất quyết định những nhịp độ tiến bộ của khoa học-kỹ thuật vào sự tiến bộ của hệ thông lực lượng sản xuất. 2.2 Sự tác động của các hình thức sở hữu đối với sự phát triển lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phát triển của các hình thức sở hữu. Sự đa dạng hóa của các hình thức sở hữu cũng có tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sở hữu phát triển, nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển theo mối quan hệ sở hữu hay hình thức sở hữu đó phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nó còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sở hữu phát triển lạc hậu hơn so với lực lượng sản xuất thì tất yếu quan hệ sở hữu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ chức nào, có lợi cho ai. Như thế, có nghĩa là mọi mặt của quan hệ sở hữu đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực lượng sản xuất trực tiếp. Như vậy, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất nói chung, quan hệ sở hữu nói riêng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Lực lượng sản xuất phát triển nhanh hay chậm thì cũng được xem xét dưới góc độ: Quan hệ sản xuất có phù hợp với nó hay không. Chẳng hạn, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến một trình độ cao, nhu cầu xã hội chưa phải là một tất yếu thì việc đa dạng hóa các quan hệ sở hữu thông qua sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, mở ra những khả năng cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Ngược lại, nếu giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có những mâu thuẫn thì không những quan hệ sản xuất lỗi thời mà ngay cả quan hệ sản xuất luôn luôn được đổi mới hoàn thiện cho phù hợp với lực lượng sản xuất thì khi đó, quá trình biến đổi tích lũy về lượng của lực lượng sản xuất sẽ nhanh hơn, mâu thuẫn giữa chúng sẽ được giải quyết kịp thời. Việc hoàn thiện quan hệ sản xuất quyết định những nhịp độ tiến bộ của khoa học-kỹ thuật vào sự tiến bộ của hệ thống lực lượng sản xuất. CHƯƠNG III: NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Đó là một quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đã đem lại những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển những thành tựu của đổi mới, đề ra quyết sách quan trọng cho những năm sắp tới. Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm xóa đói giảm nghèo: Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn: Việc làm khan hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm nhập ở mọi tầng lớp dân cư. Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết, Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân. Đến năm 2005, chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc gia, tỉ lệ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo tiêu chuẩn quốc tế (1 đô la/ngày/người) thì tỉ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được liên đoàn hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nữa tỉ lệ nghèo vào năm 2015”(6). Khoa học kỹ thuật và tiềm lực khoa học công nghệ cũng có bước phát triển nhất định: Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội rõ rệt, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông…. Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ, hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học-công nghệ đã góp phần cung cấp luận cứ khao học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng các công trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Cơ cấu xã hội có những biến đổi theo hướng tiến bộ: Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp làm việc trong các cơ sở sản xuất-kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39 triệu người, chiếm 17,4% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kĩ năng nghề nghiệp, nhìn chung đã được nâng lên. Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể, những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ-hợp tác xã, hộ-doanh nghiệp tư nhân, hộ-doanh nghiệp nhà nước, hộ-trang trại. Đội ngũ tri thức nước ta hiện nay có khoảng 1,8 triệu người với trình độ từ Cao đẳng, Đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, tiếp tục ổn định và phát triển nhờ vào sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đời sống tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Chúng ta đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hoàn thành xuất sắc vượt nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm, trong 5 năm từ 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 8,2% (vượt kế hoạch là 5,5-6% và hơn hẳn kế hoạch 5 năm 1986-1990 là 3,94%); Cơ cấu kinh tế chuyển đổi thu được những tiến bộ, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% lên 41,9%....Bắt đầu có tích lũy nội bộ nền kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được tiếp tục xây dựng. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với lực lượng sản xuất. KẾT LUẬN Vấn đề sở hữu là khách quan, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Nó gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi cần phải thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển còn thấp kém phát triển thì tất yếu phải thừa nhận các hình thức sở hữu đa dạng tồn tại đan xen, hòa quyện với nhau, bổ sung và cùng phát triển. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng đa dạng các loại hình sở hữu,phát triển lực lượng sản xuất thì luôn đi kèm với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.Chính điều này đã xúc tác cho sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Có thể nói,đây là thành quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.Tư duy lý luận và nhận thức về kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài,thường xuyên và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Qua đây,nó đã đưa đến cho ta cái nhìn tổng quan về tình hình lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của nước ta trước thời kỳ đổi mới cũng như đi sâu phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin về quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Từ đó tìm hiểu chủ trương đa dạng hóa các loại hình sở hữu của Đảng Cộng sản Việt Nam (nền tảng cơ bản quyết định sự phát triển nền kinh tế nước nhà). Như vậy, nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì, qua nghiên cứu đề tài này, chúng ta thấy được: Sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa có rất nhiều tác dụng mạnh mẽ, tích cực đến sự phát triển của nước nhà, đặc biệt là nền kinh tế. Nó đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tiên lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, biết nắm vững, vận dụng quy luật quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là chìa khóa của mọi sự phát triển. Đây là đề tài mang một ý nghĩa sâu sắc. Qua nghiên cứu đề tài này giúp em có thêm nhận thức, hiểu biết một cách toàn diện hơn về các vấn đề phát triển lực lượng sản xuất hiện nay của đất nước, giúp em có hành trang vững vàng khi bước vào đời. CHÚ THÍCH Lược khảo tư tưởng xã hội trước Mác. Học thuyết kinh tế của W.Petty. Trích trong tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”. Trích trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản”. Trích trong “Tuyên ngôn cộng sản Đảng” Số liệu năm 2006, tham khảo từ trang: TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-lênin-NXB Chính trị quốc gia (năm 2010) Văn kiện đại hội Đảng VI, VII và VIII Tạp chí KHPL số 1/2003 (TS. Ngô Đạt, Giảng viên khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH luật TP.HCM) PGS.TS Nguyễn Minh Đoan, Chế độ sở hữu ở Việt Nam, ĐH luật Hà Nội Website Đảng cộng sản Việt Nam Website thông tin pháp luật dân sự (TS. Hoàng Minh Thao- Học viện Chính trị quân sự) 7. Bộ luật dân sự 2005

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam qua các thời kỳ.doc
Luận văn liên quan