Nicholas Lardy, một chuyên gia nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Viện
kinh tế quốc tế tại Washington cũng cho rằng: “Để phù hợp với WTO, Trung Quốc sẽ
phải để cho các công ty nước ngoài tại các nước ASEAN xuất khẩu sang nước mình.
Một khi FTA này ra đời, tất cả các nhà sản xuất sẽ được tiếp cận như nhau” [34]. Như
vậy, quá trình hội nhập hoàn chỉnh FTA của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn
2010-2020 sẽ thu hút thêm nhiều công ty đa quốc gia, điều mà một nền kinh tế riêng
lẻ không thể làm được. Hơn nữa, với dung lượng thị trường lớn với tính cạnh tranh
cao hơn, đầu tư nhiều hơn và hiệu quả kinh tế quy mô lớn hơn, các doanh nghiệp sẽ
đầu tư vào nghiên cứu và do đó sẽ thúc đẩy sáng kiến công nghệ.
Thứ ba, một thị trường rộng lớn hơn và một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ hơn
có thể sẽ là chất xúc tác đầu tư đối với ACFTA. Do giữa các quốc gia thành viên
ASEAN cũng phải cạnh tranh về đầu tư, nên các quốc gia này phải tự phát triển tới
tiêu chuẩn cao hơn về mở cửa, trình độ lao động, sản xuất, kỹ năng quản lý, tổ chức,
pháp luật, công lý, chất lượng cơ sở hạ tầng. Trong môi trường kinh tế tự do, những
quốc gia nào không đáp ứng được các điều kể trên sẽ tụt hậu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 166 trang
166 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 888 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ thương mại Asean - Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4 đã tăng gấp 1,8 lần. 
 Về đầu tư, tỷ trọng vốn đầu tư từ các nước ASEAN trong tổng số vốn đầu tư 
nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt mức khá, trung bình 18,5% giai đoạn 1995-
2003. Mặc dù trải qua giai đoạn khủng hoảng, tỷ trọng vốn này đã có lúc giảm 
xuống 15,8% vào năm 2000 nhưng những năm gần đây vốn đầu tư từ ASEAN đã 
dần được phục hồi với tỷ trọng 19,7% năm 2003. 
 Trong việc tham gia Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (CEPT/AFTA), 
chúng ta đã thực hiện nghiêm túc các cam kết của mình. Cho đến nay, các nước 
ASEAN-6 đã cơ bản hoàn thành việc giảm thuế xuống mức 0-5%. Các nước thành 
viên mới đang bước vào giai đoạn cuối cùng thực hiện cam kết của mình. Ngoài 
Cămpuchia thực hiện cắt giảm sau, các nước Việt Nam, Lào và Mianma đều đã thực 
hiện giảm thuế từ 62% đến 84% số dòng thuế. 
 Với Việt Nam, việc chuyển các sản phẩm thuộc danh mục loại trừ tạm thời 
(TEL) sang danh mục cắt giảm thuế (IL) đã hoàn thành từ năm 2003, ngoại trừ 14 
dòng thuế linh kiện ô tô, xe máy tạm hoãn thực hiện cắt giảm thuế. Năm 2005 này 
cũng là năm cuối cùng Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế các sản phẩm thuộc danh 
mục IL để thực hiện mục tiêu về cơ bản áp dụng thuế suất 0-5% đối với hàng hoá 
nhập khẩu từ các nước ASEAN. Cho đến tháng 3/2005, Danh mục cắt giảm thuế 
(IL) của Việt Nam đạt 10.277 dòng thuế, tương đương với 96,15% tổng số dòng 
thuế trong khuôn khổ CEPT/AFTA. 
 Song song với chương trình cắt giảm thuế quan, Việt Nam còn phối hợp với 
các nước ASEAN triển khai chương trình công tác nhằm xác định, phân loại và tiến 
tới dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan. 
 Bên cạnh các lợi ích kinh tế cụ thể nêu trên, việc tham gia tích cực vào các 
hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc còn góp phần ổn định môi trường 
thương mại trong nước, tránh các biến động lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân 
thương mại quốc gia, góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh trong nước, 
 138 
gây sức ép buộc các doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần 
củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động thương mại, cải tiến quy trình, thủ tục kinh 
doanh theo hướng đơn giản và thuận tiện hơn. 
 Trong vài năm gần đây, xu thế mở rộng hợp tác toàn diện với các đối tác 
thương mại lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, cũng mở ra những cơ hội to 
lớn cho Việt Nam trong phát triển thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, 
phát triển kinh tế toàn diện, vững chắc. 
 - Ngoài ra ta cũng có điều kiện xây dựng và phát triển mối quan hệ láng 
giềng tốt đẹp với các nước trong khu vực, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn 
định, hợp tác và phát triển ở châu Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công 
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 
4.2.3. Một số giải pháp giúp Việt Nam phát triển từ mối quan hệ thương mại 
ASEAN - Trung Quốc 
4.2.3.1. Việt Nam trong mối quan hệ thương mại với ASEAN 
 Thứ nhất, Việt Nam nâng cao cấp độ liên kết kinh tế với các nước ASEAN 
 Nhiều người đặt ra câu hỏi là tại sao Việt Nam lại cần có Cộng đồng ASEAN 
(ASEAN Community - AC) trong khi đã có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), 
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương 
trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) và Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI). Liệu 
có phải những chương trình về hợp nhất kinh tế vốn có chưa đủ để có thể đạt được mục 
tiêu đề ra của tầm nhìn ASEAN 2020? Câu trả lời thực ra rất đơn giản và rõ ràng, đó là 
những chương trình hiện có không đủ hiệu quả để có thể đưa Việt Nam đạt được mục 
tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh, đặc biệt 
trong bối cảnh một Khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với người láng giềng Trung 
Quốc vừa được thiết lập. Nếu Việt Nam không hội nhập một cách sâu rộng hơn, mỗi 
nước thành viên trong khối sẽ có nguy cơ bị gạt ra bên lề. Với dân số khoảng trên 550 
triệu và tổng GDP vào khoảng 2000 tỷ USD năm 2013[97], thị trường ASEAN có quy 
mô chỉ bằng một nửa thị trường Trung Quốc. Chỉ có một con đường là các nước thành 
viên phải đoàn kết hơn nữa trong ASEAN thì mới có thể cạnh tranh được với thị 
trường hùng hậu này và Cộng đồng ASEAN chính là một cách để Việt Nam có thể có 
vị trí quan trọng như một trung tâm của Đông Á. 
 Cộng đồng ASEAN bao gồm 3 trụ cột chính là hợp tác an ninh chính trị 
(hình thành Cộng đồng an ninh ASEAN - ASEAN Security Community - ASC), 
hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN - ASEAN Economic Community - 
 139 
AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng đồng văn hoá xã hội ASEAN - ASEAN 
Socio-Cultural Community - ASCC), trong đó Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là 
mục tiêu cuối cùng trong hội nhập kinh tế nhằm hình thành một khu vực kinh tế 
ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch 
vụ, đầu tư được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và 
chênh lệch kinh tế xã hội được giảm thiểu. Cộng đồng sẽ thực hiện Chương trình 
hành động kinh tế Bali, giải quyết vấn đề khoảng cách phát triển của Việt Nam, 
Lào, Campuchia và Mianmar sao cho những lợi ích của quá trình hội nhập được 
chia sẻ và tạo điều kiện cho tất cả các quốc gia thành viên phát triển theo phương 
thức thống nhất. Bên cạnh đó, sự hội nhập sâu hơn giữa Việt nam và các nền kinh tế 
Đông Nam Á sẽ củng cố sức mạnh của toàn bộ khu vực nói chung và Việt Nam nói 
riêng và tạo ra khả năng chống chọi tốt hơn đối với các rủi ro và bất trắc nảy sinh từ 
sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Chính vì vậy, Việt 
Nam phải tích cực hợp tác với các nước ASEAN nhằm đẩy nhanh tiến trình hình 
thành Cộng đồng kinh tế ASEAN nói riêng và Cộng đồng ASEAN nói chung, góp 
phần hình thành nên một ASEAN hoà bình, ổn định, và thịnh vượng để cân bằng 
sức mạnh kinh tế với Trung Quốc. 
 Một, để nâng cao khả năng liên kết kinh tế với các nước ASEAN Việt Nam 
phải tiến hành đồng bộ các biện pháp hợp tác nền tảng không hạn chế như: 
 - Đẩy mạnh xúc tiến và tạo thuận lợi thương mại hàng hoá, dịch vụ, và đầu 
tư với các nước ASEAN. 
 - Tích cực tăng cường hợp tác xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực kỹ 
thuật và hài hoà tiêu chuẩn đánh giá hàng hóa trong khối. 
 - Hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa, thuận tiện thông thương hàng hóa 
bằng các rào cản kỹ thuật mềm đối với thương mại trên biện pháp phi thuế quan. 
 - Tích cực hơn nữa trong hợp tác Hải quan nội khối đặc biệt là công nghệ 
thông tin trong lĩnh vực Hải quan. 
 - Hợp tác trong việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
 - Tiếp tục thúc đẩy phát triển thương mại điện tử trong khu vực chú trọng các 
hoạt động xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ thương mại. 
 Thứ hai, Việt Nam tích cực hợp tác nội khối để đi đến nhất thể hoá thị 
trường khu vực ASEAN: Các nước ASEAN trong đó có Việt Nam đều có lợi ích 
chung từ việc thành lập ACFTA. Hợp tác với Trung Quốc, một nền kinh tế lớn 
mạnh và có quy mô lớn hơn cả 10 nước ASEAN gộp lại, sẽ đem lại nhiều cơ hội 
 140 
cho ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng nhưng cũng có không ít thách thức. 
Nếu trong nội bộ các nước ASEAN không có sự đoàn kết hợp lực trong quan hệ với 
Trung Quốc thì ASEAN sẽ khó có thể đạt được những lợi ích chung đó, thậm chí 
còn kìm hãm sự phát triển chung của cả khu vực này. Vì vậy, trong quá trình xây 
dựng ACFTA, các nước ASEAN cần phải đẩy mạnh đoàn kết nhất trí hơn nữa, 
đứng trên lập trường chung trong giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như chính trị, 
cùng hợp lực để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp tác với Trung 
Quốc, cùng giúp đỡ nhau phát triển, khắc phục những khó khăn trong việc thực hiện 
các cam kết trong ACFTA. Đặc biệt là đối với những nước ASEAN mới, trong đó 
có Việt Nam, cần có sự giúp đỡ của các nước khác trong ASEAN để theo kịp trình 
độ phát triển của các nước phát triển hơn trong ACFTA và để hạn chế bớt những 
tiêu cực do việc thực hiện ACFTA đem lại. 
 Nhất thể hóa thị trường và cơ sở sản xuất của các nền kinh tế thành viên thông 
qua tự do hóa các yếu tố của sản xuất giữa ASEAN và Trung Quốc là một trong nhân 
tố quan trọng quyết định thành công trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, để thực hiện 
thành công việc xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN tạo 
thuận lợi cho tự do hàng hóa và các yếu tố sản xuất các quốc gia ASEAN, Việt Nam 
cùng với các nước ASEAN phải tiến hành đồng bộ các giải pháp sau: 
 - Thực hiện tối đa các hoạt động tự do hóa thương mại hàng hóa, tự do hóa 
thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, thiết lập quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa 
thương mại, hợp tác hải quan, hài hòa hóa và nhất thể hóa hàng rào tiêu chuẩn và kỹ 
thuật trong thương mại. 
 - Tiếp tục tự do hóa thương mại dịch vụ, xóa bỏ các hạn chế đối với thương 
mại dịch vụ, xây dựng các thỏa thuận công nhận lẫn nhau, tăng cường phát triển 
nguồn nhân lực và xây dựng năng lực trong dịch vụ. 
 - Tăng cường tự do hóa đầu tư, mở cửa đầu tư và dành chế độ đãi ngộ quốc 
gia cho các nhà đầu tư ASEAN và các nhà đầu tư bên ngoài, bảo hộ đầu tư, các 
chương trình hoạt động, xúc tiến đầu tư. 
 - Bên cạnh đó tập trung vào phát triển vốn thông qua việc tự do hóa dòng vốn, 
tăng cường hội nhập và phát triển thị trường vốn của khu vực và cho phép di chuyển 
các khoản vốn lớn, có ý nghĩa kinh tế quan trọng giữa các nước thành viên ASEAN. 
 Ngoài ra, các nước ASEAN cần đơn giản hóa thủ tục nhằm tự do di chuyển lao 
động ngành nghề, cho phép nhập cảnh và tạo điều kiện thuận lợi trong cấp thị thực, di 
chuyển các lao động có ta nghề cao tham gia vào thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu 
 141 
tư. Tăng cường hợp tác giữa các thành viên mạng lưới đại học ASEAN tạo thuận lợi 
cho sinh viên và cán bộ trường đại học học tập, làm việc trong khu vực. Phát triển các 
năng lực cốt lõi, trình độ và kỹ năng của các giảng viên đại học các nghề nghiệp liên 
quan đến lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN. Tăng cường khả năng nghiên cứu của 
các quốc gia thành viên về nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động. Phát triển 
mạng lưới thông tin thị trường lao động giữa các nước thành viên. 
 Đối với các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên hội nhập nhằm tăng nguồn lực cho 
các trung tâm, trọng điểm trong hợp tác kinh tế ASEAN, Việt Nam cần rút ngắn lộ 
trình hội nhập của các lĩnh vực ưu tiên, tiến hành đánh giá định kỳ 2 năm 1 lần để theo 
dõi và giám sát tình trạng, tiến độ, hiệu quả của các lĩnh vực ưu tiên hội nhập. Xác định 
các dự án hoặc các sáng kiến khu vực cụ thể thông qua đối thoại thường xuyên. 
 Lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp với việc xây dựng một “Thị trường và 
cơ sở sản xuất chung” là yếu tố thế mạnh của Việt Nam trong cộng đồng ASEAN, vì 
vậy để phát huy lợi thế trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc với tư 
cách thành viên ASEAN chúng ta cần tăng cường khả năng cạnh tranh thương mại 
nội bộ và với bên ngoài trong dài hạn đối với các sản phẩm lương thực và các mặt 
hàng lâm nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác, chuyển giao công nghệ và xây dựng phương 
pháp tiếp cận chung về lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp cho các nước ASEAN và 
với các quốc gia khác. Phát triển hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình Việt - GAB. 
 Không có lý do gì để Việt Nam chỉ chú ý xuất khẩu sang các thị trường bên 
ngoài mà bỏ ngỏ chính thị trường ASEAN để cho hàng hóa Trung Quốc xâm nhập 
trong khi nếu thực hiện thương mại nội khối ASEAN, Việt Nam sẽ có ưu thế hơn 
hẳn Trung Quốc vì những cam kết cắt giảm hàng rào thương mại và thuế quan trong 
khu vực. Để tăng cường thương mại nội khối ASEAN, Việt Nam cần tiến hành 
đồng bộ các biện pháp sau. 
 - Đẩy mạnh việc thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan theo Chương 
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA. Lợi ích 
cơ bản nhất của AFTA đối với Việt Nam là hàng hoá sẽ tăng thế cạnh tranh về giá 
cả, giao dịch thương mại tiến hành trên cơ sở không có thuế quan. Lúc đó, Việt 
Nam trở thành một thành viên của khu vực thương mại rộng lớn với các dòng hàng 
hóa lưu chuyển tự do. Nhìn một cách tổng quan, có vẻ điều này không liên quan gì 
nhiều tới khả năng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra thị trường quốc tế 
trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn trước sự cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc. 
Tuy nhiên, xét về lâu dài, đây chính là bước khởi đầu cho sự phát triển bình đẳng, 
 142 
của Việt Nam với các quốc gia trong khối ASEAN, tạo điều kiện cho các nước này 
hợp tác toàn diện, cùng tận dụng những lợi thế chung trong khu vực để nâng cao vai 
trò và vị trí trên thị trường thế giới. Việc thúc đẩy buôn bán nội khối cũng sẽ giúp 
hoạt động Ngoại thương các nước này được cải thiện nhiều và do đó, tạo đà cho 
Việt Nam và các nước ASEAN tăng khả năng xuất khẩu những mặt hàng có sức 
cạnh tranh hơn về chất lượng, giá tới thị trường các nước ngoài khu vực. Bởi vậy, 
thúc đẩy quá trình thực hiện AFTA cũng là một phương cách hữu hiệu để giảm 
thiểu khó khăn và nâng cao cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam, ASEAN trong cuộc 
cạnh tranh với Trung Quốc. 
 - Tăng cường hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong các 
lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các nước ASEAN cần đẩy nhanh việc hoàn thành các 
chương trình hợp tác trong nội bộ khối như Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương 
trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN 
(AFAS). Bởi, điều này sẽ tạo tiền đề cho việc tận dụng các lợi thế khi triển khai 
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến 
việc thúc đẩy hoàn thành các chương trình hợp tác trong Khu vực mậu dịch tự do 
này, mà cụ thể là chương trình cắt giảm thuế quan cũng như các biện pháp tạo thuận 
lợi cho thương mại và đầu tư. 
4.2.3.2. Việt Nam trong mối quan hệ thương mại với Trung Quốc 
 Thứ nhất, tăng cường công tác xúc tiến thương mại 
 - Đối với cơ quan quản lý: Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại Việt 
Nam cần nắm bắt kịp thời những thay đổi của bạn để đề ra các giải pháp thích hợp 
phục vụ tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác xuất khẩu hàng sang 
Trung Quốc. Một trong những trở ngại lớn lớn cho việc đẩy mạnh trao đổi hàng hoá 
giữa Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian qua là diện mặt hàng trao đổi chưa vững 
chắc, khối lượng chưa lớn. Do vậy, hai bên cần thoả thuận ký kết một danh mục hàng 
hoá trao đổi có tiềm năng và nhu cầu ổn định, lâu dài. Danh mục này có tính định 
hướng để doanh nghiệp hai bên hợp tác sản xuất và ký kết hợp đồng ngoại thương. 
 Tích cực đề nghị Trung Quốc giải quyết hạn ngạch một số mặt hàng. Đối với 
những mặt hàng Trung Quốc quản lý bằng hạn ngạch như cao su và một số hàng 
hoá khác, đề nghị tăng hạn ngạch nhập khẩu cho Việt Nam. Ngoài ra, cũng đề nghị 
Trung Quốc Trung Quốc tăng mức nhập khẩu từ Việt Nam các mặt hàng sản phẩm 
cây công nghiệp, thuỷ hải sản, rau quả nhiệt đới. 
 Bên cạnh đó, tổ chức các kênh thông tin giao lưu trao đổi giữa doanh nghiệp hai 
 143 
nước thông qua hội chợ triển lãm hoặc trao đổi đoàn quan lại. Các cơ quan quản lý hai 
bên cần tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức kinh tế xã hội, các doanh nghiệp thường 
xuyên trao đổi đoàn qua lại. Hai bên giới thiệu các đối tác kinh doanh có thực lực, có 
uy tín cho nhau để các doanh nghiệp Ngoại thương tiến hành trao đổi, buôn bán. 
 Tổ chức hội thảo: Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề cũng 
như tuần giao lưu thương mại Việt Nam - Trung Quốc tại các địa điểm thuận lợi ở 
khu vực biên giới để đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế thương mại hai nước. 
 Thông tin: Tổ chức xúc tiến thương mại hai nước nối mạng trang web để 
phục vụ cho doanh nghiệp hai bên. Định kỳ hàng năm tổ chức xúc tiến thương mại 
hai bên gặp gỡ nhau luân phiên tại thủ đô mỗi nước Việt Nam hoặc Trung Quốc để 
trao đổi chương trình hợp tác. 
 Ngoài ra, khi liên kết kinh tế, Việt Nam phải kiện toàn lại được bộ máy 
chuyên trách hoạt động xúc tiến thương mại hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp 
Việt Nam trong xuất nhập khẩu hàng hóa vào thị trường Trung Quốc. Bộ máy này 
phải được xác định cụ thể trong văn bản chính thức cả về chức năng, nhiệm vụ, 
thẩm quyền cơ cấu. Trong đó, một trong những nội dung quan trọng trong thiết kế 
chức năng nhiệm vụ cho kiện toàn mô hình bộ máy xúc tiến thương mại mà Việt 
Nam cần quan tâm là: 
 Một, các hoạt động cụ thể của cơ quan thương vụ là tham gia vào việc đàm 
phán và ký kết các hợp đồng thương mại giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ 
nước ngoài. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước trong việc giới thiệu, quảng bá 
sản phẩm đến khách hàng nước ngoài, tạo lập kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm. 
Tham gia vào việc giải quyết và bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước khi 
có tranh chấp thương mại xảy ra. 
 Hai, cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam phải tổ chức mạng lưới các hoạt 
động thành hệ thống văn phòng thúc đẩy xuất khẩu ở từng nước ASEAN và Trung 
Quốc với công việc và nhóm công việc cụ thể như, tư vấn cho các doanh nghiệp từng 
nước trong việc thiết kế sản phẩm lựa chọn đầu vào sản xuất và lựa chọn thị trường 
kinh doanh, tiêu thụ phù hợp đồng thời hỗ trợ cho họ tiếp cận và được hưởng những 
ưu đãi do nhà nước đặt ra khi tham gia vào xuất khẩu. Tiến hành giải đáp những thắc 
mắc về luật pháp và chính sách của các nước có hợp tác thương mại với các nước khu 
vực ASEAN và Trung Quốc cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt 
Nam trong việc đánh giá, phân tích thông tin thị trường để từ đó có quyết định sản 
xuất kinh doanh đúng đắn. Hỗ trợ trong việc thu mua và tiêu thụ sản phẩm. 
 144 
 - Đối với các doanh nghiệp: Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, dưới sự 
hướng dẫn chỉ đạo của Nhà nước, cũng nên chủ động tìm ra những biện pháp hợp 
tác có hiệu quả, đồng thời không ngừng nỗ lực tự đổi mới, tăng cường sức cạnh 
tranh của doanh nghiệp, có thể thông qua một số biện pháp cụ thể như sau: 
 Một, bằng các kênh thông tin của mình hoặc thông qua kênh thông tin của 
Bộ Thương mại, tìm hiểu tình hình thị trường, tình hình cung cầu, đặc điểm, yêu 
cầu, biến động và những tiềm năng phát triển của thị trường Trung Quốc, việc này 
sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam khai thác thị trường, tìm ra và nắm bắt kịp thời 
các cơ hội kinh doanh ở nước bạn. 
 Hai, tìm hiểu chính sách, chủ trương của Nhà nước Trung Quốc một mặt là 
để nắm bắt kỹ hơn về thị trường và kinh doanh có hiệu quả trong thị trường đó, mặt 
khác rất quan trọng là để so sánh các cơ hội kinh doanh giữa thị trường Trung Quốc 
với thị trường các nước khác nhằm lựa chọn thị trường kinh doanh có hiệu quả nhất 
về một ngành nghề cụ thể nào đó. 
 Ba, tìm hiểu chính sách, cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp ở Trung Quốc và 
các nước khác trong khu vực. Đây là điều kiện tiền đề cho sự hợp tác có hiệu quả. Trước 
đây đã có không ít những thất bại trong hợp tác giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và 
Việt Nam mà nguyên nhân chủ yếu là do sự hiểu biết chưa đầy đủ về nhau cho nên dẫn 
đến nhiều bất đồng về quan điểm trong các quyết định và cả trong quá trình hoạt động 
của các doanh nghiệp hợp tác. Thời gian gần đây, cùng với công cuộc cải cách mở cửa, 
hệ thống hoạt động và các nguyên tắc quản lý của các doanh nghiệp Trung Quốc có 
nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu những chế độ sở hữu khác 
nhau, những đặc điểm mới trong thể chế lãnh đạo, hệ thống quản lý, chính sách 
marketing của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau của Trung Quốc. Đặc biệt, sau 
quá trình thành lập ACFTA, trong cơ cấu của nền kinh tế nói chung cũng như của các 
doanh nghiệp hai bên nói riêng còn có nhiều điều chỉnh nữa đòi hỏi các doanh nghiệp 
Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa cho sự hợp tác có hiệu quả trong tương lai. 
 Bốn, tích cực tham gia vào các cuộc triển lãm, khảo sát thị trường nước 
ngoài, tổ chức nhiều đợt xúc tiến thương mại, toạ đàm kinh tế để tìm hiểu thông tin, 
tìm đối tác, tạo cơ hội giao thương, đầu tư và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau cho 
doanh nghiệp hai bên. 
 Năm, thành lập các hiệp hội doanh nghiệp trong một số ngành cùng với các 
doanh nghiệp khác trong khu vực để cùng trao đổi ý kiến, cùng hợp tác sản xuất kinh 
doanh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong khu vực. Ví dụ có thể 
 145 
thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp trong một số ngành vốn là thế mạnh của Việt 
Nam như những ngành hàng nông nghiệp như gạo, hạt điều, cao su, thuỷ hải sản hoặc 
một số ngành công nghiệp điện tử, may mặc để đẩy mạnh những ngành này phát 
triển, hợp tác sản xuất trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng sản phẩm và có thể điều 
tiết giá xuất khẩu những mặt hàng này trên thị trường quốc tế một cách hợp lý. 
 Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực tự đổi mới về 
cách thức quản lý kinh doanh sản xuất, tiếp cận và kịp thời đưa các kỹ thuật mới 
vào sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để 
nâng cao sức cạnh tranh từ nội lực doanh nghiệp cũng như tăng cường sức cạnh 
tranh của hàng hoá vì người tiêu dùng Trung Quốc đã khác nhiều so với mấy năm 
trước đây. Hơn nữa, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiếp cận được nhiều với 
trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, đời sống vật chất của người dân đã 
được nâng cao rõ rệt, họ đòi hỏi hàng hoá có chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn 
thực phẩm, có như vậy thì hàng hoá Việt Nam mới có cơ hội đứng được trên thị 
trường Trung Quốc và tạo ra lợi thế cạnh tranh được với các nước ASEAN khác khi 
xâm nhập vào thị trường Trung Quốc. 
4.2.3.3. Việt Nam trong mối quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc 
 Thứ nhất, thúc đẩy cải cách kinh tế thương mại và hoạt động xúc tiến đầu tư 
 Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN sẽ 
có nhiều tiềm năng để thúc đẩy thương mại và đầu tư cho Việt Nam. Tuy vậy, Việt 
Nam vẫn có thể lâm vào thế bất lợi so với Trung Quốc và các nước ASEAN khác 
do sức ép cạnh tranh. Mặc dù vậy, cơ hội để phát triển vẫn còn nhiều. Chìa khoá để 
mở cửa những cơ hội đó là ở tốc độ cải cách kinh tế và chiến lược xúc tiến đầu tư. 
 - Đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế và tự do hoá thương mại 
 Một, Việt Nam nên tiếp tục chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu 
nhằm đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương mại. Đa dạng hoá xuất khẩu sẽ tiếp tục 
làm giảm sự phụ thuộc nặng nề vào dầu thô, gạo, hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp. 
Đồng thời tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thu 
hút các nguồn lực bên ngoài hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá ở mỗi nước. 
 Hai, cải cách doanh nghiệp và cải cách tài chính phải đi kèm với tự do hoá giá 
cả và tự do hoá thương mại. Hội nhập thị trường trong nước và hội nhập những lĩnh 
vực trên vào thị trường thế giới phải được tiến hành đồng thời để đảm bảo giảm thiểu 
những yếu tố tiêu cực bên ngoài của những nhân tố gây bóp méo còn tồn tại và để tối 
đa hoá lợi ích từ thương mại. Việc tạo ra những thể chế liên quan tới thị trường có vai 
 146 
trò quan trọng trong việc tối đa hoá lợi ích của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào 
nền kinh tế thế giới. Với việc không ngừng nỗ lực phát triển các thể chế và thị trường, 
Việt Nam sẽ nổi lên là một nền kinh tế mạnh hơn sau khi hội nhập. 
 - Đổi mới chính sách Ngoại thương 
 Trong cải cách chính sách ngoại thương Việt Nam cần xây dựng chiến lược 
cải cách cơ cấu xuất nhập khẩu, hạn chế nhập siêu trong quan hệ thương mại Việt - 
Trung. Tích cực triển khai thực hiện tốt các Hiệp định và thoả thuận đã đạt được 
nhằm mở rộng quy mô thương mại song phương. Tăng cường tuyên truyền, có 
chính sách khuyến khích dùng hàng trong nước, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng 
công nghệ thấp từ Trung Quốc mà Việt Nam đã sản xuất được. Khuyến khích đầu 
tư sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Chuyển hướng 
sang nhập khẩu máy móc, công nghệ cao từ các thị trường Nhật Bản, EU, Mỹ. Tăng 
cường kiểm soát chất lượng hàng hoá, an toàn thực phẩm đối với hàng nhập từ 
Trung Quốc, chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên, cửa khẩu giáp với Trung 
Quốc. Các lực lượng hải quan, công an, bộ đội biên phòng cần đẩy mạnh hơn nữa 
việc truy kích các đường dây vận chuyển hàng nhập lậu. 
 - Xúc tiến đầu tư 
 Đầu tư nước ngoài vẫn luôn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy xuất khẩu của 
các quốc gia. Đầu tư nước ngoài đồng nghĩa với việc tăng cường thu hút vốn, kỹ thuật 
và công nghệ hiện đại, tạo khả năng cho nước nhận đầu tư hiện đại hoá các ngành sản 
xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài cũng 
là một nhân tố làm gia tăng các công ty xuyên quốc gia tại nước nhận đầu tư, mà một 
trong những mục đích của các công ty này là lợi dụng giá rẻ ở nước nhận đầu tư để sản 
xuất và sau đó xuất khẩu. Kết hợp hai yếu tố này, có thể thấy đầu tư nước ngoài đóng 
vai trò rất lớn trong thúc đẩy xuất khẩu. Không đi đâu xa, có thể nhìn vào tấm gương 
của Trung Quốc, một trong những yếu tố đưa quốc gia này trở thành “cỗ máy xuất 
khẩu khổng lồ” chính là nhờ có nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài. Do vậy, để tăng 
cường thu hút đầu tư, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau: 
 Một, Việt Nam cần đảm bảo hơn nữa tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. 
Trong những năm bùng nổ kinh tế của ASEAN, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn 
lòng đầu tư vào ASEAN bởi sự phát triển mạnh mẽ của khu vực này đã đem lại cho 
họ niềm tin sẽ thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi Trung Quốc mở cửa thị 
trường thì các nhà đầu tư đã và đang có những thay đổi rất lớn về địa điểm đầu tư 
bởi tại đất nước này, khả năng thu lợi nhuận ngày càng cao và môi trường đầu tư 
 147 
cũng ngày một cải thiện hơn. Dòng đầu tư dang có xu thế dịch chuyển theo hướng 
chuyển dần từ Đông Nam Á nói chung Trung Quốc. Để vượt qua thử thách về sức 
thu hút đầu tư của một thị trường lớn như ở Trung Quốc, Việt Nam cần nỗ lực cải 
thiện môi trường đầu tư bằng việc đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích, tạo ra môi 
trường pháp lý và chính trị thuận lợi, cải thiện cơ sở hạ tầng phù hợp với các tiêu 
chuẩn quốc tế và khuyến khích việc bảo vệ và bảo đảm lợi ích cho sở hữu trí tuệ. 
Chiến lược đầu tư của Việt Nam nên nhằm vào thu hút FDI, trong đó tập trung vào 
chuyển giao công nghệ và bao gồm nhiều ngành từ những ngành công nghiệp 
hướng vào công nghệ cao để khai thác nguyên liệu cũng như những ngành dịch vụ. 
 Hai, hoạt động xúc tiến đầu tư cần được đẩy mạnh hơn nữa. Nhà nước ta cần 
có các chính sách nhằm đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài, thu hút các 
nguồn vốn từ khu vực có trình độ công nghệ cao như Bắc Mỹ, Tây Âu. Các địa 
phương nên tích cực, chủ động hơn trong quá trình tiến hành vận động đầu tư. 
Chính quyền địa phương mỗi nước có quyền cân nhắc các dự án, tập đoàn, các nhà 
đầu tư có tiềm năng trên cơ sở quy hoạch của Nhà nước và danh mục đã được phê 
duyệt để xây dựng cho Việt Nam một chính sách thu hút FDI hợp lý. 
 Ba, để thu hút FDI nhiều hơn, Việt Nam cũng cần cải thiện các điều kiện để có 
thể cung ứng các dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế như lao động, cơ sở hạ tầng Theo 
nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trên thị trường lao động Việt Nam, lao động giản đơn thì 
dư thừa quá nhiều trong khi kỹ sư và các chuyên viên có trình độ cao trong các ngành 
khoa học tự nhiên lại thiếu nên tiền lương phải trả cho họ rất cao, làm cho môi trường 
đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay, Trung Quốc đã đi trước Việt Nam về việc giải quyết 
vấn đề này. Theo điều tra của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại 
Bangkok [10], hàng năm Trung Quốc đào tạo 410,000 sinh viên các ngành khoa học tự 
nhiên như cơ khí, điện tử, vật lý và toán (nghĩa là trung bình 3,000 dân có một sinh 
viên ngành này) trong khi Việt Nam chỉ có 10,000 (6,000 dân mới có một sinh viên 
ngành này). Đặc biệt vấn đề không chỉ là số lượng mà còn là chất lượng sinh viên ra 
trường. Chính vì vậy, Việt Nam cần chú ý cải thiện môi trường đầu tư theo hướng này. 
 Thứ hai, tiếp t c tiến hành đàm phán với Trung Quốc và các nước ASEAN về 
các điều kiện ưu đãi trong thương mại 
 Thực tế cho thấy việc thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc 
được quyết định bởi việc thực hiện nhanh chóng và thu hoạch sớm những lợi ích của 
một thị trường mở rộng được thuận lợi hóa nhờ công khai thừa nhận khác nhau về năng 
lực điều chỉnh. Rõ ràng nhiều thành viên kém phát triển (Việt Nam, Lào, Mianma, 
 148 
Campuchia) trong một ngành hoặc một lĩnh vực cụ thể có thể được kéo dài thời gian 
trong việc mở cửa thị trường, thực hiện nguyên tắc MFN như đối với các thành viên 
của WTO hoặc được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt trong việc tự do hóa những 
ngành bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, Việt Nam cần xác định rằng, những đối xử đặc biệt 
như vậy chỉ nên diễn ra tạm thời và mục tiêu chính của nó là giúp đỡ các nền kinh tế 
đang phát triển và kém phát triển về thời gian và cơ hội để tiến hành sửa đổi luật pháp, 
định hướng lại chính sách và đưa ra các chính sách mới, thiết lập cơ sở hạ tầng hành 
chính và thể chế cần thiết, hạn chế và quản lý có hiệu quả hơn những thiệt hại và biến 
động kinh tế không thể tránh khỏi liên quan đến các nghĩa vụ mới của họ, và quan 
trọng hơn cả là xây dựng năng lực cạnh tranh để tham gia một cách có lợi và lâu dài 
vào hệ thống thương mại đa biên. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục tiến 
hành đàm phán với Trung Quốc và các nước ASEAN khác để được hưởng các điều 
kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên tắc tối huệ quốc. 
 Ngoài ra, đề nghị chính phủ Trung Quốc mở rộng phạm vi sản phẩm ưu đãi đặc 
biệt về thuế quan cho Việt Nam như đối với 3 nước Campuchia, Lào và Mianmar, nhằm 
thu hẹp sự mất cân đối trong thương mại song phương. Để đẩy mạnh xúc tiến thương 
mại, tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc, Bộ Công thương cần cập nhật thường 
xuyên chính sách thương mại của thị trường này về nhu cầu nhập khẩu hàng hóa, chính 
sách hỗ trợ xuất khẩu. Đồng thời chính phủ cần ban hành chính sách khuyến khích xuất 
khẩu đối với các mặt hàng sản xuất trong nước thông qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. 
 Như vậy, từ việc tìm hiểu và phân tích thực trạng mối quan hệ thương mại 
ASEAN - Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, tác giả đã đưa ra triển vọng cho mối 
quan hệ này đến năm 2020 và định hướng phát triển đối với Việt Nam thông qua 
mối quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc. 
 Thứ nhất, đối với triển vọng cho mối quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc 
tác giả tập trung vào việc đưa ra và phân tích cơ hội, thách thức mà hai bên phải trải qua, 
đó lần lượt là cơ hội mở rộng, phát triển quan hệ thương mại và cơ hội tạo ra vị thế mới 
về chính trị, bên cạnh những cơ hội đó là thách thức do những tác động của tổ chức 
ACFTA, của tình trạng phân cực giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN, sức cạnh 
tranh về kinh tế và những thách thức về chính trị giữa hai bên ASEAN - Trung Quốc. 
 Thứ hai, từ việc đánh giá triển vọng mối quan hệ thương mại ASEAN - 
Trung Quốc đến năm 2020 tác giả đưa ra một vài định hướng phát triển đối với Việt 
Nam thông qua mối quan hệ này, trong đó có những định hướng cụ thể cho từng đối 
tượng ASEAN và Trung Quốc. 
 149 
 KẾT LUẬN 
 Qua nghiên cứu, phân tích và đánh giá mối quan hệ thương mại ASEAN - 
Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010 và một số năm sau đó, tác giả cho rằng, về tổng thể, 
cả hai bên đều có lợi khi phát triển mối quan hệ này. Đây cũng là một nguyên lý của 
thương mại tự do. Tuy nhiên, trên một số khía cạnh, tác giả cho rằng, Trung Quốc là 
bên được lợi nhiều hơn, đây là điều mà các nước ASEAN trong đó có Việt Nam phải 
tính đến. Nhận định này không chỉ dựa vào việc Trung Quốc thường xuyên duy trì 
thặng dư thương mại với ASEAN mà còn dựa vào phân tích lợi ích của một số ngành ở 
ASEAN cũng như biến động việc làm trong một số lĩnh vực liên quan đến thương mại 
với Trung Quốc ở một số nước ASEAN. Bên cạnh đó, trong thập niên đầu thế kỷ 21 và 
trong vài năm gần đây, với sự trỗi dậy của mình, Trung Quốc có tiềm năng kinh tế vượt 
trội so với ASEAN. Trong mối quan hệ chính trị, quân sự với ASEAN cũng như với 
từng thành viên ASEAN, trong cách ứng xử, Trung Quốc có nhiều biểu hiện của một 
nước lớn, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại, theo tác giả, chưa đủ bằng chứng để kết 
luận Trung Quốc có sự thay đổi cách ứng xử rõ ràng trong quan hệ với ASEAN. 
 Nhìn một cách khách quan triển vọng quan hệ thương mại ASEAN - Trung 
Quốc những năm tiếp theo là rất lớn, tuy nhiên trong hợp tác luôn có cạnh tranh. Vì 
vậy, các quốc gia ASEAN nếu không muốn trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa 
của Trung Quốc thì cần phải có sự chuẩn bị và những giải pháp phù hợp tận dụng 
lợi thế so sánh của mình thì mới phát huy được hiệu quả trong quan hệ thương mại 
toàn khối ASEAN - Trung Quốc. Trong tương lai lợi thế nhân công giá rẻ và tài 
nguyên thiên nhiên sẽ mất dần giá trị, công nghệ phục vụ cho hoạt động thương mại 
mới là yếu tố đi đầu tạo ra lợi thế cho các bên, vì vậy các nước ASEAN bên cạnh 
nâng cao trình độ cho người lao động, xây dựng kế hoạch khai thác bảo vệ tài 
nguyên thiên nhiên hợp lý cần tích cực đổi mới công nghệ trong sản xuất hàng hóa 
dịch vụ thương mại xây dựng thương hiệu cho hàng hóa để đảm bảo sự cạnh tranh 
của mình có lợi thế bền vững và lành mạnh. 
 Nếu như từ năm 2000 về trước, Trung Quốc còn chủ trương “náu mình chờ 
thời” thì từ thập niên đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc trỗi dậy rất mạnh mẽ, vươn lên 
thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, TQ đã điều chỉnh cách ứng xử của họ. Trong 
một số lĩnh vực như chính trị, quân sự và ngoại giao, Trung Quốc thể hiện rõ các 
chính sách của một nước lớn. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thương mại, theo nghiên 
cứu của chúng tôi, cách ứng xử nước lớn của Trung Quốc trong quan hệ với 
ASEAN cho đến nay chưa thật sự rõ nét. 
 Việt Nam muốn phát huy được lợi thế thương mại của mình việc gắn kết chặt 
chẽ hơn trong hợp tác phát triển kinh tế giữa Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-
 150 
ASEAN trong mối quan hệ ASEAN-Trung Quốc là điều hết sức cần thiết. Đối với 
các nước ASEAN, Việt Nam cần tham gia hợp tác ASEAN theo tinh thần chủ động, 
tích cực và có trách nhiệm như chủ động đề xuất các sáng kiến và ý tưởng mới nhằm 
thúc đẩy hợp tác và tăng cường liên kết ASEAN. Tích cực thực hiện các mục tiêu hợp 
tác giữa ASEAN với Trung Quốc, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế 
của Việt Nam, đề cao hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới và năng động, có đường 
lối đối Ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. 
 151 
 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 
 CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN 
1. Đoàn Thị Thanh Nhàn (2014), “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc: 
 Thực trạng và vấn đề”, Tạp chí Kinh tế và chính trị thế giới, 9 (221). 
2. Đoàn Thị Thanh Nhàn (2014), “Những thách thức trong quan hệ thương mại 
 ASEAN - Trung Quốc hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, 11 (176). 
 152 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 
1. Quốc An (2010), “Trung Quốc mất dần vai trò Công xưởng của thế giới”, Tạp chí 
 Ngoại thương, (30), tr. 29-31. 
2. Ngọc Anh (2010), “Triển vọng ngoại thương Trung Quốc 2010”, Tạp chí Ngoại 
 thương, (2), tr. 36. 
3. Ban thư ký ASEAN - Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế 
 (ASEAN - China Expert Group on Economic Cooperation) (2001), “Xây dựng quan hệ 
 kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21” (Bản tiếng anh - Forging 
 closer ASEAN - China economic relations in the twenty first century), tháng 10/2001. 
4. Bộ Công thương - Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách CN, (2012), Quan hệ kinh 
 tế thương mại của Trung Quốc - ASEAN trong năm 2012, Hà Nội. 
5. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), 
 Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. BIKI (2010), “Đánh giá vị trí của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới”, Tạp chí 
 Ngoại thương, (22), tr. 33-34. 
7. Nguyễn Phương Bình (chủ biên) (2003), Ngoại giao phòng ng a ở Đông Nam Á, 
 Học viện Ngoại giao, Hà Nội. 
8. Hồ Châu, Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2006), Khu vực mậu dịch tự do 
 ASEAN- Trung Quốc, quá trình hình thành và phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
9. Chương trình Việt Nam (2008), Lựa chọn thành công, bài học của Đông Á và Đông 
 Nam Á cho tương lai của Việt Nam, Đại học Havard. 
10. Lý Hướng Dương (2002), “Tính khả thi của việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do 
 giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc”, Tạp chí Kinh tế Trung Quốc và thế giới 
 (China and World Economy), (1), tr. 5-7. 
11. Ellen H. Palanca (2001), “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và ASEAN”, Báo cáo 
 nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines - (Philippines 
 APEC Study Center Network - PASCN), Manila. 
12. Eng Chuan Ong, Bộ Ngoại giao Singapore (2003), “Gắn thương mại tự do Đông Á 
 vào ASEAN”, Washington Quarterly 2003, Tài liệu dịch số TL 2922, Trung tâm 
 thông tin tư liệu, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM). 
13. George Manzano (2002), “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc: Phải chăng đây 
 là một giải pháp thắng - thắng?”, Tham luận đại diện Khoa Kinh tế, Đại học Châu Á Thái 
 Bình Dương, Manila, Philippines tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức 
 của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” tại Hà Nội, ngày 30/8/2002. 
 153 
14. Minh Hiếu (2005), “Tác động của đồng Nhân dân tệ tăng giá đối với cán cân thương 
 mại Việt Nam”, Tạp chí Thương mại, 05 (30), tr. 16. 
15. Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc phiên bản điện tử (2012), Kinh tế ASEAN năm 
 2011: Đi lên trong hợp tác. 
16. Đại sứ quán Việt Nam (2002), “Japan Times nói về ASEAN - Trung Quốc”, Tài liệu 
 báo cáo tại Osaka, ngày 15/11/2002. 
17. Nguyễn Anh Hồng (2003), “Trung Quốc: Ngoại thương tăng 30 lần”, Thời báo Kinh 
 tế Việt Nam, (12), tr. 18. 
18. Hội thảo quốc tế (2007) ASEAN - China trade relations: 15 years development and 
 prospects, Ha Noi Dec. 
19. Vũ Dương Huân (2007), Quan hệ đối tác đối thoại ASEAN - Trung Quốc , Tạp chí 
 Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, 5 (147), tr. 3-12. 
20. Trần Quốc Hùng (2003), Trung Quốc và ASEAN trong hội nhập: Thử thách, cơ hội 
 mới, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
21. Trương Mai Hương (2001), “Trung Quốc gia nhập WTO và ảnh hưởng đối với các 
 nước ASEAN”, Chuyên đề Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, (Trường Đại học Ngoại 
 Thương), số quý IV/2001, tr. 63. 
22. Inkyo Cheong (2002), Viện chính sách kinh tế Hàn Quốc (KIEP), “Luận đàm về việc 
 thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Á và các hệ quả của nó” - Tham luận tại Hội 
 thảo “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung 
 Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ 
 Hanns Seidel, CHLB Đức đồng tổ chức ngày 30/8/2002, Hà Nội. 
23. Trần Khánh (2005), “Tác động của sự gia tăng hợp tác ASEAN - Trung Quốc đến 
 quan hệ Việt - Trung thời kỳ hậu chiến tranh lạnh”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam 
 Á, (1), tr.3-12. 
24. Nguyễn Đình Long, Phạm Quang Diệu (2006), “Quan hệ thương mại và đầu tư Trung 
 Quốc - ASEAN vẫn trong xu thế gia tăng”, Tạp chí Thương Mại, 3 (113), tr. 7-8,25. 
25. Tùng Lâm (2010), “Đánh giá vị trí của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới”, Tạp 
 chí Ngoại thương, 22 (89), tr. 33-34. 
26. Tùng Lâm (2011), “Trung Quốc đang mất dần ngôi vị hấp dẫn số 1 về đầu tư”, Tạp 
 chí Ngoại thương, 16 (102), tr. 23-25. 
27. Nguyễn Văn Lịch (chủ nhiệm) (2004), Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực 
 hành lang kinh tế Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh trong bối cảnh hình thành khu 
 vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện Nghiên cứu 
 Thương mại, Bộ Thương mại, Hà Nội. 
 154 
28. Lim Chong Yan (2002), Đông Nam Á, chặng đường dài phía trước, Nxb thế giới, Hà Nội. 
29. Li Wei (2002), “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, 
 Tham luận - Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc tại Hội 
 thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do 
 ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam 
 và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chứ ngày 21/6/2002, Thành phố Hồ Chí Minh. 
30. Phương Mai (2012), “Chiến tranh thương mại hay đơn thuần chỉ là chiến tranh Mỹ trừng 
 phạt Trung Quốc vì cớ gì?”, Tạp chí Ngoại thương, 6 (81), tr. 18-19. 
31. MQ (2009), “Trung Quốc 30 năm cải cách và mở cửa”, Tạp chí Ngoại thương, (34), tr. 30-32. 
32. Nguyễn Thu Mỹ, “Quá trình phát triển quan hệ ASEAN - Trung Quốc”, Tạp chí 
 Nghiên cứu Đông Nam Á, (5), tr 3-12, 2006. 
33. Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên) (2008), Hợp tác ASEAN + 3 quá trình phát triển, thành 
 tựu, triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
34. Minh Nga (2003), “FTA ASEAN - Trung Quốc: Ai được lợi nhất?”, Kinh tế quốc tế 
 tham khảo, Thông tấn xã Việt Nam, (036), tr. 1. 
35. Văn Nghĩa (2002), “Dư luận xung quanh Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung 
 Quốc”, Thời báo Tài chính Việt Nam, (134), tr. 14. 
36. Hà Phương (2011), “Những thay đổi chính sách ngoại thương Trung Quốc sau khủng 
 hoảng tài chính toàn cầu”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 11 (123), tr. 9-12. 
37. Thanh Phương (2003), “Thuận lợi và khó khăn của xu thế hình thành các Khu vực 
 mậu dịch tự do”, Tạp chí Thương mại, (22), tr. 18. 
38. Phạm Thái Quốc (1999), “Mất cân bằng trong quan hệ thương mại Trung-Mỹ, tác 
 động đối với mỗi bên và triển vọng”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, 13 (06), tr. 12-14. 
39. Phạm Thái Quốc - Vũ Anh Dũng (2011), “Thương mại Trung Quốc 10 năm gia nhập 
 WTO”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, 10 (122), tr. 11-23. 
40. Nguyễn Hoài Sơn (20020, “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung 
 Quốc”, Tham luận của tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của 
 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, 
 Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ 
 Chí Minh, ngày 21/6/2002. 
41. Đỗ Tiến Sâm (2008), Hợp tác ASEAN - Trung Quốc trong bối cảnh mới, Nxb Khoa 
 học xã hội, Hà Nội. 
42. N.T. (2003), “Trào lưu ký kết các hiệp định FTA”, Tạp chí Ngoại Thương, (21), tr. 33. 
 155 
43. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt 
 Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
44. Thông tấn xã Việt Nam (2003), “Tính cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa kinh tế 
 ASEAN và Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, (190), tr. 16. 
45. Thông tấn xã Việt Nam (2013), “Kim ngạch thương mại Trung Quốc-ASEAN đạt 
 hơn 105 tỷ USD” Tài liệu tham khảo đặc biệt, (20), tr. 1-2. 
46. Hoàng Thế Thoả (2012), Kinh tế thế giới năm 2012 và triển vọng 2013 , Tạp chí tài 
 chính, tapchitaichinh.vn, tr.1. 
47. Nguyễn Thế Tăng (2009), “Hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội và thách 
 thức”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, (6). 
48. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2006), Quan hệ thương mại Việt-Trung trước và sau khi 
 Trung Quốc gia nhập WTO, Khoá luận tốt nghiệp, Trường đại học Kinh tế, Đại học 
 Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
49. Lê Tuấn Thanh (2007), Tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc 
 tới quan hệ Việt - Trung", Tạp chí Ngoại thương, 4 (74), tr. 47-55. 
50. Lê Tuấn Thanh (2008), Một số giải pháp liên quan đến nhập siêu của Việt Nam từ 
 Trung Quốc , Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, 10 (205), tr. 29-35. 
51. Lê Thị An Thái (2006), Quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc, Khoá luận tốt 
 nghiệp, Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
52. Nguyễn Vĩnh Thành (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam 
 trong hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 
53. Phạm Đức Thành (chủ biên) (2009), Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI, 
 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
54. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên) (2006), Chênh lệch phát triển và anh ninh kinh tế ở 
 ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
55. Thitapha Wattanapruttipaisan, Chuyên viên cao cấp, Bộ phận dịch vụ công nghiệp, Ban 
 thư ký ASEAN (2002), “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội, thách 
 thức và tác động đối với các nước thành viên mới của ASEAN”, Tham luận tại Hội thảo 
 khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - 
 Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns 
 Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/6/2002. 
56. Trịnh Thủy (2005), “Khai thác lợi ích thương mại từ chương trình Thu hoạch sớm của 
 khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tạp chí Cộng Sản, (20), tr 68-72. 
57. Đỗ Ngọc Toàn (2012), “Tìm hiểu chính sách kinh tế đối ngoại Trung Quốc từ 2010-
 2020”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, 4 (128), tr. 3-12. 
 156 
58. V. Trân (2002), “Quan hệ kinh tế ASEAN - Nhật Bản - Trung Quốc” - Tạp chí Ngoại 
 Thương, (19), tr. 29. 
59. V. Trân (2003), “Vai trò tương lai của Trung Quốc ở Châu Á”, Tạp chí Ngoại 
 Thương, (3), tr. 32. 
60. Trung tâm dự báo kinh tế xã hội quốc gia (2010), Trung quốc nâng giá đồng Nhân 
 dân tệ và tác động đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, Nxb Văn hóa 
 Thông tin, Hà Nội. 
61. Trường Đại học Luật Hà Nội, Lê Minh Tiến (Chủ nhiệm đề tài) (2009), Tự do hóa 
 thương mại trong ASEAN, APEC, WTO và thực tiễn hội nhập của Việt Nam, Đề tài 
 nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. 
62. Hoàng Tùng (2013), “ASEAN năm 2013: Thời điểm cất cánh”, Hà Nội mới, Thứ 
 Bảy số thứ 16/02/2013. 
63. Cổ Tiểu Tùng (2003), “Trung Quốc - Chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ 
 ”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, (2). 
64. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc thế (DEI) (2006), Tác động của Khu vực 
 Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, Nxb Hà Nội. 
65. Viện Nghiên cứu Thương mại (2011), Tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của Trung 
 Quốc và các nền kinh tế lớn Đông Á: Tác động khu vực và khuyến nghị chính sách, 
 Dự án nghiên cứu ARC giai đoạn 2009-2011, Hà Nội tháng 12/2011, Hà Nội. 
66. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Chính sách phát triển kinh tế kinh 
 nghiệm và bài học của Trung Quốc, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội. 
67. Viện nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (1) - tháng 2/1999; 
 (6) - tháng 12/1999; (3) - tháng 6/2001; (6) - tháng 12/2001; (1) - tháng 2/2002; (2) - 
 tháng 4/2002; (6) - tháng 12/2002; (1) - tháng 2/2003; (4) - tháng 8/2003. 
68. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2002), Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, 6 
 (89), tr. 3-5, 6-11. 
69. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Trần Khánh (chủ 
 nhiệm) (2008), Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC): Nội dung, lộ trình, triển vọng và 
 tác động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. 
70. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Nguyễn Thị Mỹ 
 (chủ nhiệm) (2008), Phản ứng chính sách của các nước Đông Nam Á với tiến trình 
 hình thành AC, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. 
71. Vụ hợp tác kinh tế đa phương (Bộ ngoại giao), Vụ chính sách thương mại đa biên 
 (Bộ thương mại) (2003), Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương 
 (APEC), Nxb CTQG Hà Nội. 
 157 
72. Vụ thị trường Châu Âu - Bộ Công thương, 2013, "Cán cân thương mại dịch v giữa 
 Việt Nam và Pháp trong tương quan với 6 nước ASEAN năm 2011”, Tạp chí nghiên 
 cứu Châu Âu, (29), tr. 1. 
73. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2011), “Kinh nghiệm của Trung Quốc trong điều chỉnh chính 
 sách ngoại thương sau khi trở thành thành viên của WTO”, Tạp chí Nghiên cứu Trung 
 Quốc, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, 1 (113), tr. 65-77. 
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH 
74. Address of his excellency Dato’ Seri Abdullah Bin Haji Ahmad Badawi, the Prime 
 Minister of Malaysia "Towards an ASEAN Community"at the national Colloqium 
 on ASEAN day, 7 August 2004, UiTM Hotel, Shah Alam. 
75. ASEAN Secretariat (2002), Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN 
 (Extended Data Set), World Investment Report 2001. 
76. ASEAN Secretariat (2002), Summary Report, ASEAN - China Dialogue: “The 
 Challenges of Cooperation”, 15 & 16/2/2002. 
77. ASEAN - China trade relation: 15 years of development and prospects, Nxb Thế 
 giới, 2008. 
78. ASEAN Secretariat, Annual Report 2006 - 2007, 2007 - 2008, 2008 - 2009, 2009 - 2010. 
79. ASEAN Secretariat, ASEAN Investment Guiebokk, 2009. 
80. ASEAN Secretariat, ASEAN Regional Guidelines on Competition Policy, 2010. 
81. ASEAN Secretariat (2011), Term of Reference of ASEAN Intergovermental 
 Commission on Human Rights. 
82. CAFEF (2011), “RMB as a Regional International Currency: Cost-benefit-Analysis 
 and Roadmap”, January 2011. 
83. CAFTA (2013), Annual Report for ASEAN - China trade relation. 
84. Centre for ASEAN and China Studies (2007), ASEAN - China: How to improve 
 cooperation effectiveness?, The gioi Publisher, Hanoi. 
85. China-ASEAN Free Trade Area (CAFTA) - Implications for Hong Kong’s 
 Merchandise Exports, 8 March 2010). 
86. MIANMAR World Factbook and UN estimate for year (2013). 
87. Dong, D.Z (2007), The impact of China’s growth on ASEAN countries, 
  (accessed March 15, 2010). 
88. Hill, Char W.L (2009), Global business today, 6th.ed., Mc Graw - Hill/Irwin Press, New York. 
 158 
89. IMF (2013), World trade Report 2013. 
90. Jose T. Almonte (2006), Community Building in Southeast. Bringing ASEAN 
 Closer to People. ASEAN Lecture at the 39th Founding Anniversary of the 
 AssoMianmartion of Southeast Asian Nations (ASEAN) and the Philippines' 
 Chairmanship of the ASEAN Standing Committee (ASC).The Foreign Service 
 Institute, Bulwagang Blas Ople, DFA Building, Roxas Boulevard, Pasay City17 
 August 2006. 
91. Saw S.H., Sheng L., Chin K.W. (2014), ASEAN-China Relations: Realities and 
 Prospects, Institute of South Dast Study, Singapore. 
92. Thai’s FTA Watch 2005 
93. Tang Yihong and Wang Weiwei (2005), “An Analysis of Trade Potential between 
 China and ASEAN within China-ASEAN FTA” University of International Business 
 and Economics (UIBE), China. 
94. Walden Bello, Asia Times, 12/04/2010; Walden Bello, China lassoes its neighbors, 
 China Business, Mar 12, 2010). 
95. WTO, World trade Report 2011. 
96. WTO, World trade Report 2012. 
97. WTO, World trade Report 2013. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 quan_he_thuong_mai_asean_trung_quoc_giai_doan_2001_2010.pdf quan_he_thuong_mai_asean_trung_quoc_giai_doan_2001_2010.pdf