Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội Những năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa quá nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Lượng chất thải phát sinh tại các đô thị và khu công nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp.Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp. Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị. Ở nước ta, quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng theo hướng bền vững là một trong 7 chương trình ưu tiên cao nhất được xác định trong Chiến lược Bảo vệ môi trường Quốc gia 2001 - 2010 và Định hướng đến năm 2020 và cũng là một nội dung thuộc lĩnh vực ưu tiên trong chính sách phát triển của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Gần đây nhất, ngày 17/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 (dưới đây gọi tắt là Chiến lược quốc gia về chất thải rắn) trong đó xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản cho việc thực hiện. Chất thải là sự đồng hành tất yếu trong mọi hoạt động kinh tế và phát triển. Trong điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ hiện nay và trong tầm nhìn dài hạn (vài thập kỷ tới), lượng chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng có xu hướng gia tăng cùng với sự gia tăng của sản xuất và tiêu dùng trong quá trình phát triển của xã hội. Sự gia tăng của chất thải đã, đang và vẫn tiếp tục là một nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường và suy giảm chất lượng môi trường, đe dọa tính bền vững trong quá trình phát triển cả ở tầm vĩ mô (quốc gia) cả ở tầm trung mô (địa phương, khu vực) và cả ở tầm vi mô (cơ sở sản xuất kinh doanh). Tác nhân này được kìm hãm và khắc phục đồng thời theo cả hai hướng: một là bằng các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu, hạn chế lượng chất thải thải ra môi trường và hai là bằng các giải pháp quản lý đối với chất thải trong suốt quá trình phát sinh và vận động của chất thải.
Quản lý chất thải: là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005)
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý chất thải trong hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sơ lược chung về vấn đề quản lý chất thải
Sơ lược về tình hình chất thải của Việt Nam và một số thực tiễn trong nhưng năm qua
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội.. Những năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa quá nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Lượng chất thải phát sinh tại các đô thị và khu công nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp.Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp. Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị. Ở nước ta, quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng theo hướng bền vững là một trong 7 chương trình ưu tiên cao nhất được xác định trong Chiến lược Bảo vệ môi trường Quốc gia 2001 - 2010 và Định hướng đến năm 2020 và cũng là một nội dung thuộc lĩnh vực ưu tiên trong chính sách phát triển của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Gần đây nhất, ngày 17/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 (dưới đây gọi tắt là Chiến lược quốc gia về chất thải rắn) trong đó xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản cho việc thực hiện. Chất thải là sự đồng hành tất yếu trong mọi hoạt động kinh tế và phát triển. Trong điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ hiện nay và trong tầm nhìn dài hạn (vài thập kỷ tới), lượng chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng có xu hướng gia tăng cùng với sự gia tăng của sản xuất và tiêu dùng trong quá trình phát triển của xã hội. Sự gia tăng của chất thải đã, đang và vẫn tiếp tục là một nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường và suy giảm chất lượng môi trường, đe dọa tính bền vững trong quá trình phát triển cả ở tầm vĩ mô (quốc gia) cả ở tầm trung mô (địa phương, khu vực) và cả ở tầm vi mô (cơ sở sản xuất kinh doanh). Tác nhân này được kìm hãm và khắc phục đồng thời theo cả hai hướng: một là bằng các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu, hạn chế lượng chất thải thải ra môi trường và hai là bằng các giải pháp quản lý đối với chất thải trong suốt quá trình phát sinh và vận động của chất thải.
Quản lý chất thải: là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005)
Pháp luật môi trường Việt Nam liên quan đến quản lý chất thải
Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều quy định về quản lý chất. Những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Quyết định 256/2003/ QĐ- Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược bảo vệ mội trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Bộ luật bảo vệ môi trường năm 2005, Nghị định 81/2006/NĐ- CP về xở lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Quyết định số 12/2006 / QĐ- Bộ tài nguyên và môi trường ngày 8/9/2006 về việc ban hành danh mục phế liệu được nhập khẩu làm nguyên liệu trái phép, Nghị định 59/ NĐ- CP ngày 9/7/2007 về quản lý chất thải rắn, Nghị định 174/NĐ- CP ngày 29/11/2007 về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, Nghị định 21/NĐ- CP ngày 28/2/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 80/2006/ NĐ- CP ngày 9/8/2006.
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Dựa trên các quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy hại và Luật bảo vệ môi trường 2005, khái niệm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại có thể được hiểu như sau: Đó là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại đối với cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và với nhau trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất thải nguy hại, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực chất thải nguy hại, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể này tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong phạm vi cả nước, cần kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ nguồn thải đồng thời thực hiện tốt các bước trong quy trình quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã đưa ra một quy trình để triển khai và thực hiện một cách lần lượt từ việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại. Đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại, từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ chức, cá nhân.
Pháp luật về chất thải rắn thông thường
Các vấn đề điều tương tự như pháp luật về chất thải nguy hại, ngoài các quy định chung về trách nhiệm quản lý chất thải rắn trước hết thuộc về chủ phát sinh chất thải ( là những tổ chức, cá nhân có cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác có phát sinh chất thải) hoặc bên tiếp nhận quản lý chất thải ( là những tổ chức, cá nhân khác có đủ điều kiện và năng lực quản lý chất thải) theo hợp đồng chuyển giao trách nhiệm quản lý chất thải, pháp luật còn quy định riêng về từng loại chất thải: yêu cầu đặt ra đối với chủ phát sinh chất thải thông thường để phục vụ mục đích tái chế, tái sử dụng, xử lý hoặc thải bỏ phù hợp (quy định tại điều 78,79 Luật bảo vệ môi trường 2005). Bên cạnh đó, việc xử lý nguồn nước thải cũng được quy định tại điều 80, 81 Luật bảo vệ môi trường 2005. Chủ quản lý hệ thống nước thải phải thực hiện quan trắc định kỳ nước thải trước và sau khi xử lý. Quản lý và kiểm soát bụi, khí thải phải đạt được tiêu chuẩn môi trường. Ngoài ra, pháp luật còn có các quy định về hạn chế tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ…
Tác động của hội nhập kinh tế đến lĩnh vực pháp luật bảo vệ môi trường
Pháp luật về bảo vệ môi trường trước khi nhà nước Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế
Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thực sự quan tâm bắt đầu từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 và đặc biệt là năm 1993, Luật bảo vệ môi trường đã được ban hành. Có thể nói đây là văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Đây là lần đầu tiên các khái niệm cơ bản có liên quan đến bảo vệ môi trường đã được định nghĩa, xác định làm cơ sở cho việc vận dụng vào hoạt động quản lý môi trường. Trong đó, bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên". Ngoài ra, các khái niệm về thành phần môi trường, chất thải, chất gây ô nhiễm, ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường, tiêu chuẩn môi trường, công nghệ sạch, hệ sinh thái, đa dạng sinh học, đánh giá tác động môi trường. Đồng thời, đây cũng là lần đầu tiên quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường được pháp luật quy định. Việc bảo vệ môi trường không những được quy định trong Luật bảo vệ môi trường, mà còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hoạt động của con người khi tác động vào thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sống. Ngoài văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp việc bảo vệ môi trường như Luật Bảo vệ môi trường, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường, Nhà nước ta cũng ban hành văn bản pháp luật chung và văn bản pháp luật chuyên ngành khác quy định nghĩa vụ bảo vệ môi trường đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân hữu quan, đã quy định chế độ pháp lý trong việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời các văn bản pháp luật này cũng quy định các nguyên tắc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước với tư cách là bảo vệ sinh thái, môi trường. Ngoài ra, còn có quy định xác định rõ bảo vệ môi trường là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kinh tế - xã hội và được kế hoạch hoá đồng bộ với kế hoạch hoá của các ngành kinh tế quốc dân khác.
Tác động của hội nhập kinh tế đến pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật về bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải nói riêng
Sau ba năm kể từ ngày Việt Nam chính thức gia nhập WTO (ngày 11 tháng 01 năm 2007), môi trường pháp lý của Việt Nam đã có những thay đổi trên nhiều lĩnh vực. Nhìn một cách tổng thể thì môi trường pháp lý Việt Nam ngày càng mở rộng về lĩnh vực xã hội được điều chỉnh.
Tác động tích cực
Báo cáo của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Lê Xuân Bá, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ba năm qua. Theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 02/12/2003 về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 thì phát triển kinh tế xã hội phải được gắn liền với bảo vệ môi trường. Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua đã hết quan tâm đến hoạt động bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc xây dựng một hành lang pháp lý, làm cơ sở cho hoạt động bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Các quy định về bảo vệ môi trường nói chung cũng như các quy định về quản lý chất thải đang ngày càng được hoàn thiện, thể hiện những ưu điểm nổi bật, góp phần quan trọng cho công cuộc bảo vệ môi trường ở nước ta gắn liền với việc phát triển kinh tế và phù hợp với công cuộc hội nhập hiện nay.
Các quy định pháp luật về chất thải rắn thông thường
Thứ nhất, pháp luật đã xác định được các khái niệm làm cơ sở cho hoạt động quản lý chất thải rắn thông thường. Hiện nay, pháp luật đã quy định rõ các khái niệm về các hoạt động với tính chất là một bộ phận của quản lý chất thải rắn thông thường như: thu gom chất thải rắn, vận chuyển chất thải rắn, xử lý chất thải rắn chủ nguồn thải, chủ xử lý chất thải rắn, cơ sở quản lý chất thải rắn … ( Điều 3 Nghị định 59/ NĐ – CP ngày 09/04/2007). Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng những khái niệm pháp lý liên quan đến quản lý chât thải rắn thông thường về cơ bản đã phản ánh đúng bản chất của quá trình quản lý chất thải, tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường nói riêng, nhận thức rõ giới hạn phạm vi hoạt động của mình qua đó góp phần bảo đảm hiệu quả công tác quản lý
Thứ hai, các quy định quản lý chất thải rắn thông thường đã kết hợp một cách hợp lý yêu cầu bảo vệ môi trường với việc tân dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường. Bên cạnh những đặc tính có thể gây ảnh hưởng tới môi trường thì chất thải rắn thông thường cũng chứa đựng những giá trị kinh tế nhất định mà nếu con người biết tận dụng để tái chế, tái sử dụng một cách hợp lý thì chẳng những vừa góp phần bảo vệ môi trường tích cực mà còn góp phần đem lại lợi ích kinh tế đáng kể cho đời sống con người, ví dụ như việc tân dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế chất thải thành phân bón hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp…Trong quá trình xây dựng pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường, nhà làm luật đã phản ánh khá đầy đủ các yêu cầu về sự kết hợp giữa bảo vệ môi trường với tận dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường trong quá trình quản lý chất thải này, nội dung này được thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước khuyến khích việc tái chế, tái sử dụng chất thải. Một trong những chính sách của Nhà nước về BVMT hiện nay là “đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải” ( Khoản 3 Điều 5 Luật BVMT 2005 ) đồng thời khuyến khích việc “tái chế sử dụng chất thải” ( Khoảng 5 Điều 6 Luật BVMT 2005). Mặt khác, trong chính sách ưu đãi, hỗ trợ đất đai cũng như chính sách miễn giẩm thuế, phí đối với các hoạt động BVMT thì hoạt động tái chế chất thải rắn thông thường luôn được coi là một họat động nằm trong danh mục được ưu đãi, hỗ trợ ( Điều 117 Luật BVMT 2005 ). Chính những sự khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ này của Nhà nước sẽ góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tích cực thực hiện các họat động tái chế chất thải nhằm tận dụng tối đa lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường.
- Nhà nước cho phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất kinh doanh. Hiện nay trong QĐ số 12 ngày 8/9/2006 Bộ trưởng Bộ tài nguyên môi trường quy định khá rõ ràng các loại phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, đi kèm với quyền được nhập khẩu phế liệu để phục vụ sản xuất thì các chủ nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện khắt khe khác như phải có đủ năng lực để xử lý chất thải đi kèm, có hệ thống cơ sở hạ tầng phù hợp để bảo đảm quá trình nhập khẩu phế liệu không gây ô nhiễm môi trường, phế liệu nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện nhất định về môi trường … Chính những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu giá rẻ để phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời phải biết kết hợp đáp ứng đúng các yêu cầu BVMT cụ thể vì lợi ích chung của cộng đồng.
Thứ ba, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã góp phần xã hội hóa công tác quản lý chất thải rắn thông thường. Chất thải rắn thông thường là loại chất thải phổ biến trong đời sống con người với nguồn thải đa dạng ở nhiều nơi, mọi lúc, khối lượng nhiều nhưng có sự khác biệt lớn về mức thải của các nguồn thải khác nhau. Bên cạnh đó đây là loại chất thải không chứa những đặc tính nguy hại nên các chủ thể tham gia quản lý loại chất thải này có thể phong phú, không bị giớ hạn bởi các điều kiện khắt khe mà vẫn có thể quản lý hiệu quả. Do vậy, việc xã hội hóa quản lý chất thải cầu khách quan, bảo đảm cho quản lý chất thải rắn thông thường đạt hiệu quả. Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường đã tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các đoàn thể và các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình quản lý chất thải rắn thông thường với các haọt động khác như:
Tổ chức cá nhân có thể đầu tư cho công tác thu gom vận chuyển, xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn bằng cách đầu tư xây dựng toàn bộ các hạng mục công trình thuộc cơ sở xử lý chất thải rắn, mua sắm trang thiết bị vật tư phục vụ cho hoạt động xử lý chất thải rắn, thành lập các hợp tác xã, hộ kinh doanh hoặc các hình thức khác để thực hiện việc thu gom, vân chuyển xử lý chất thải rắn ở các làng nghề, điểm dân cư nông thôn chưa có dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn ( Điều 13 NĐ 59/NĐ – CP 09/04/2007)
Mọi tổ chức các nhân là chủ nguồn thải chất thải rắn thông thường đều phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định để quản lý chất thải này ( Điều 22 Nghị định 59/ NĐ – CP ngày 09/ 05/2007)
Các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư có trách nhiệm giám sát quá trình thu gom, vận chuyển chất thải rắn trên địa bàn của mình, có trách nhiệm phát hiện ngăn chặn hoặc thông báo kịp thời cho chính quyền địa phương những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý chất thảo rắn ( Khoản 2 Điều 28, Khoản 3 Điều 38 Nghị định 59/NĐ – CP ngày 09/04/2007).
Những quy định nói trên đã góp phần quan trọng trong lĩnh vực xã hội hóa công tác quản lý chất thải rắn thông thường, thu hút được nhiều nguồn lực tham gia công tác quản lý loại chất thải này, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải nói riêng, công tác BVMT nói chung.
Thứ năm, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã tạo tiền đề thu hút các nguồn đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn thông thường. Quản lý chất thải rắn thông thường đòi hỏi phải thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và có sự đầu tư đúng mức về nguồn tìa chính cũng như các trang thiết bị khoa học kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả của hoạt động này. Hiện nay, pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường ở Việt Nam đã quy định khá rõ ràng các nội dung về đầu tư quản lý chất thải rắn. Những nội dung này thể hiện khá rõ trong nghị định 59/2007 về quản lý chất thải rắn. Nhà nước khuyến khích mọi hình thức đầu tư cho lĩnh quản lý chất thải rắn, hợp đồng hợp tác kinh doan ( BCC), xây dựng – khai thác chuyển giao ( BOT), hoạt động xây dựng – chuyển giao – khai thác ( BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao ( BT), mua lại doah nghiệp, mua trai phiếu đầu tư chứng khoán và các hình thức đầu tư khác theo Luật Đầu tư: đầu tư cho thu gom, vận chuyển, xây dựng trạm trung chuyển và cơ sở xử lý chất thải rắn được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng. Mặt khác, pháp luật cũng quy định rõ các nội dung của đầu tư quản ly chất thải rắn như đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn, đầu tư cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn; xã hội hóa việc đầu tư quản lý chất thải rắn … Đồng thời, pháp luật cũng xác định các nguồn đầu tư và ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn… Những quy định này là hết sức quan trọng và cần thiêt, tạo điều kiện cho việc phát triển cơ sở sản xuất – kỹ thuật để quản lý chất thải rắn, qua đó góp phần bảo đảm tính hiệu quả, tính khả thi của hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường nói riêng.
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại là bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nườ về môi trường: quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như môi trường sống. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí nghiệp, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể..
Biện pháp kinh tế: Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc bắt buộc các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý chất thải. Biện pháp này thực hiện thông qua hình thức thu phí chất thải đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế lượng chất thải có thể phát sinh ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe con người ở mức độ cao. Đó còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường, ... Biện pháp kinh tế rất cần thiết và có hiệu quả phòng ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp.
Biện pháp khoa học công nghệ: Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến vào việc quản lý chất thải. Biện pháp này giúp hạn chế được lượng chất thải, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt để chất thải.
Các quy định của pháp luật ngày càng rõ ràng và cụ thể đã làm cho người dân hiểu pháp luật, nâng cao ý thức của họ. Người dân sẽ tự giác thực hiện những hành vi có ích cho môi trường.
Tác động tiêu cực
Pháp luật bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong khi các nước phương Tây đã có những tiêu chuẩn môi trường cao thì Việt Nam vì mục đích thu hút đầu tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh đã đưa ra tiêu chuẩn môi trường thấp. Điều này gây ra sự ô nhiễm môi trường trầm trọng sau hơn 20 năm đổi mới và Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành bãi rác của thế giới. Với tiêu chuẩn môi trường thấp thì công nghệ lạc hậu tiếp tục được nhập vào Việt Nam và đẩy chất lượng hàng hoá Việt Nam vào thế bất lợi so với hàng hoá các nước sử dụng công nghệ hiện đại. Do đó, nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường cũng góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá của Việt Nam để có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới.
Thứ nhất, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy định về bảo vệ môi trường. Yếu tố môi trường chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá trình xây dựng và ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác bảo vệ môi trường không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân thiện với môi trường”.
Thứ hai, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, các biện pháp chế tài nói chung chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn de những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức, các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Thứ ba, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Vì vậy, mặc dù Điều 183 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng khó có thể thực hiện trong thực tiễn được vì chưa bị xử lý vi phạm hành chính... Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.
Thứ tư, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung, thiếu cụ thể, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường.
Hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải thông thường
Thứ nhất, các khái niệm về quản lý chất thải được sử dụng trong các văn bản không thống nhất. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thỉa loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005). Trong nghị định 59/2007/ NĐ- CP lại định nghĩa: “Hoạt động quản lý chất thải rắn bao gồm các quy hoạch quản lý , đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động đối với môi trường và sức khỏe con người” (Khoản 2 Điều 3 Nghị định 59/2007/ NĐ- CP ngày 9/4/2007). Như vậy, hai khái niệm trên có sự không thống nhất với nhau. Chúng ta đều biết quản lý chất thải rắn là một bộ phận của quản lý chất thải nói chung, song trong quản lý chất thải nói chung không có hoạt động quy hoạch quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải, nhưng quản lý chất thải rắn đã mở rộng thêm hai hoạt động này, sự mở rộng khái niệm đó là hiệu quả và cần thiết, nó xác định nhữn hoạt động cần thiết gắn liền với hoạt động trực tiếp quản lý chất thải, góp phần đảm bảo hiệu quả của hoạt động này. Như vậy, chúng ta vẫn chưa có quy định một cách cụ thể thế nào là chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại, cho nên hầu hết các quan điểm chung cho rằng chất thải rắn thông thường là chất thải rắn không nguy hại.
Thứ hai, pháp luật chưa có quy định cụ thể về phân loại các nhóm đối tượng thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường. Trong thực tế các chủ thể tham gia thu gom, vận chuyển chất thải rắn rất đa dạng, song có thể chia thành hai nhóm chính đó là: Nhóm các cơ sở kinh doanh, dịch vụ thực hiện chức năng vận chuyển với quy mô lớn, mang tính chuyên nghiệp, (ví dụ như: Công ty môi trường đô thị, các hợp tác xã dịc vụ về môi trường) và nhóm thứ hai là các cá nhân thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, mang tính tự phát, quy mô nhỏ, và không chuyên nghiệp (ví dụ như cá nhân thu mua ve chai). Rõ ràng hai nhóm đối tượng trên khác nhau rất lớn về quy mô và phương thức hoạt động trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, đồng thời mức độ, hoàn cảnh và khả năng ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình hoạt động của hai nhóm này là rất khác nhau. Song hiện nay, pháp luật chưa có sự phân loại cụ thể của hai nhóm này, dẫn đến các quy định về bảo vệ môi trường trong thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường là chung chung, khó áp dụng cho từng đối tượng hoặc áp dụng cho cả hai đối tượng này, dẫn đến có nhiều bất cập.
Thứ ba, pháp luật chưa có quy định chi tiết về các điều kiện đối với cơ sở tái chế, tiêu hủy, khu chôn lấp chất thải rắn thông thường, dẫn đến thiếu căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xử lý các cơ sở này trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ tại điểm 3 khoản 1 Điều 79 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 quy định cơ sở tái chế không được gần khu dân cư, nguồn nước mặt nhưng chưa có quy định cụ thể về khoảng cách an toàn giữa cơ sở tái chế và khu dân cư. Do vậy, ở các làng nghề hiện nay, do các cơ sở tái chế chất thải rắn thông thường đã hoạt động tự phát từ lâu đời thì việc làm rõ điều kiện gần khu dân cư và gần nguồn nước là rất khó khăn.
Thứ tư các quy định về xủ phạt hành chính đối với quản lý chất thải rắn còn chung chung, thiếu rõ ràng, Khoản 1 Điều 14 Nghị định 81/ NĐ –CP ngày 9/8/2006: “phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000- 500.000 đồng đối với hành vi thải chất thải không đúng quy định về bảo vệ môi trường”. Đây là quy định rất chung chung, thiếu cụ thể bởi lẽ hành vi “thải chất thải rắn không đúng nơi quy định về bảo vệ một trường” là không rõ ràng, thiếu cụ thể, rất đa dạng và khó xác định chính xác trên thực tế hoặc có thể là quá rộng, dẫn tới chồng chéo với hành vi khác. Quy định này gây quá nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Thứ năm, một số quy định trong Nghị định 81/NĐ- CP ngày 9/8/2006 liên quan tới chất thải rắn không có tính khả thi, ví dụ với quy định về tước giấy phép môi trường, thì hiện nay nhiều cơ sở dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường không cần phải có giấy phép môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành cho nên vấn đề tước giấy phép môi trường của các cơ sở này hầu như không có giá trị.
Hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải nguy hại
Thứ nhất, việc quy định của pháp luật về quản lí chất thải là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế những quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại còn rất nhiều bất cập. Chính những hạn chế trong pháp luật về quản lí chất thải nguy hại đang làm ảnh hưởng xấu đến công tác quản lí chất thải nguy hại. Một thực tế đã bôc lộ và gây nhiều khó khăn cho công tác quản lí chất thải hiện nay là hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại của chúng ta vẫn còn chưa đầy đủ chưa hoàn thiện, thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện và nhất là thiếu các chế tài xử phạt. Như chưa có các quy đinh về quản lí khí thải, các quy đinh về chất thải nguy hại từ sinh hoạt và nông nghiệp chưa được quản lí chặt chẽ, quy định về lưu giữ chất thải chờ thiết bị công nghệ không mang tính khả thi, chưa có quy định của pháp luật về phân loại các chất thải nguy hại trong sinh hoạt. Chế tài xử phạt còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm: Thiếu các quy định liên quan đến mua bán chất thải, kinh doanh chất thải. Người bán chất thải nguy hại chỉ bị xử lí kỉ luật, không bị xử lí về phương diện môi trường. Người mua cũng không bị xử lí về phương diện môi trường mà chỉ bị xử lý kỷ luật. Việc xây dựng các quy định về quản lí chất thải mới chỉ căn cứ chủ yếu vào kết quả của một dự án mà chưa mang tính tổng thể vì vậy nội dung của quy chế chỉ tập trung tới các hóa chất ở ba dạng: chất thải chứa kim loại, chất thải chứa chất hữu cơ vô cơ, chất thải chứa hợp chất nhưng bản chất chất thải có tính đa dạng hơn nhiều so với các hóa chất thuần túy và vì thế quy chế đã được ban hành nhưng thiếu tính khả thi vì nó chưa bao trùm hết các dạng chất thải nguy hại. Để các văn bản pháp luật liên quan đến quản lí chất thải phát huy hiệu lực cần có sự hướng dẫn cụ thể và chi tiết, ví dụ cần chỉ rõ các yêu cầu thiêu đốt chất thải y tế và chỉ ra cụ thể diện tích tối thiểu mà một bãi chôn lấp hợp vệ sinh cần có hay chí tiết hóa mục tiêu với phần trăm phạm vi thu gom. Tuy nhiên cho đến nay mặc dù quy chế quản lí chất thải nguy hại và sau đó là quy chế quản lí chất thải y tế đã được ban hành khá lâu nhưng điều bất cập là chưa có đầy đủ các thông tư hướng dẫn cụ thể. Việc thực hiện quy chế cho các đối tượng là các cơ quan quản lí nhà nước về chất thải ở địa phương các nguồn chất thải chủ thu gom vận chuyển, chủ xử lí tiêu hủy chất thải. Việc ban hành các văn bản quy định về các tiêu chuẩn bãi chôn lấp hợp vệ sinh tiêu chuẩn xe chuyển tải, tiêu chuẩn thiết bị vận hành xử lí cũng còn chậm trễ và chưa đồng bộ. Một vấn đề nữa đang gây rất nhiều khó khăn trong công tác thực hiện pháp luật về quản lí chất thải hiện nay là chúng ta chưa thể thể chế hóa được các chế tài xử lí cụ thểd việc vi phạm các quy định về quản lí chất thải trong quy chế mới Điều 30 đề cập tới vấn đề này nhưng rất chunh chung chưa cụ thể. Việc xây dựng các tiêu chuẩn hiện nay dựa tên giả định trước rằng đã đầy đủ cơ quan giám sát các hoạt động người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những người vi phạm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống thanh tra môi trường ở các địa phương còn yếu, chưa có đủ chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết. Từ góc đọ khác có thể thấy những người tham gia xây dựng các tiêu chuẩn thường có tham vọng và đưa ra các tiêu chí tương đối nghiêm ngặt thường quá cao so vói trình độ phát triển chung toàn quốc và do đó khó có đủ cơ sở để thực thi hiệu quả.
Thứ hai, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sản sinh chất thải nguy hại nhìn chung là đã đáp ứng được thực tiễn đặt ra nhưng vần còn những hạn chê đó là việc quy định rất chung chung. Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể. Đối với việc giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn là rất phù hợp, là một biện pháp giải quyết tiến bộ nên quy định những biện pháp rõ ràng cụ thể vì nếu các chủ thể tiến hành xử lí chất thải từ nguồn mà áp dụng không đúng các biện pháp thì có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho môi trường nên cần quy định rõ các biện pháp cụ thể. Chất thải rất đa dạng phong phú, mỗi loại lại có những biện pháp xử lí riêng nên công việc này khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn nữa. Phải tổ chức lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải nguy hại theo chủng loại theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an toàn kĩ thuật” Nhưng bên cạnh đó còn một vấn đề nảy sinh một vấn đề là việc lưu giữ tạm thời với các đối tượng sản sinh là rất tốn kém. Vì việc lưu giữ chất thải là một vấn đề khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo một quy trình kĩ thuật xử lí công phu đòi hỏi phải có chi phí kinh tế lớn mà với cơ sở sản sinh thì rất khó để những đối tượng này chi ra một khoản tiền lớn như vậy. Trên thực tế thì các cơ sở này cũng khó có thể đáp ứng được đúng các tiêu chuẩn kĩ thuật. Khu vực lưu giữu chất thải của nơi sản sinh có một vai trò quan trọng, cần có thêm quy định về vấn đề này.
Thứ ba, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người vận chuyển chất thải. Pháp luật quy định chỉ được vận chuyển khi có giấy phép vận chuyển chất thải nguy hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Quy định này nhằm giúp các cơ quan quản lí tốt nhất quá trình vận chuyển chất thaỉ nguy hại. Song trên thực tế vấn đề xin cấp giấy phép còn gặp nhiều khó khăn, phải qua nhiều khâu xem xét, thẩm định...Vậy nếu lượng chất thải ứ đọng quá lớn mà giấy phép vận chuyển đi tiêu hủy chưa xin được thì cần phải có biện pháp cụ thể xử lí. Do tính chất của việc vận chuyển chất thải nguy hại có tính chất đặc thù nên pháp luật phải quy định cụ thể hơn nữa về người vận chuyển chất thải nguy hại vì người này gắn liền với quá trình vận chuyển và là người chủ yếu đảm bảo an toàn cho quá trình vận chuyển. Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu trách nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ. Việc quy định về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy định bằng phương tiện chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện đủ tiêu chuẩn để vận chuyển chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu chuẩn cụ thể
Thứ tư, đối với người xử lý chất thải nguy hại. Chỉ được thực hiện những hoạt động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt động do cơn quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. Đây là một quy định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy phép lại gây ra những khó khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý vô hình chung làm ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình này. Pháp luật quy định phương pháp xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc thù hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy hại đểm đảm bảo đạt được tiêu chuẩn môi trường. Trường hợp trong nước không có công nghệ thiết bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải được xử lý. Nhưng trên thực tế công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước vể kiểm định và xử lý chất thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí để đổi mới và bổ sung các thiết bị khoa học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn đầu tư, bởi vậy nếu không có công nghệ thiết bị phù hợp với đặc tính của chất thải nguy hại mà phải lưu giữ để chờ mua được thiết bị.
Ngoài ra, còn một số khó khăn khác làm ảnh hưởng tới quản lý chất thải nguy hại như: Hệ thống pháp luật liên quan tới chất thải nguy hại tại Việt Nam còn chưa đồng bộ và đầy đủ. Những quy định của pháp luật chính là cơ sở pháp lí để thực hiện nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức trong việc quản lí chất thải.Công tác này đã có sự quan tâm và đầu tư nhất định từ phía Nhà nước nhưng trên thực tế thì hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này còn thiếu nhiều văn bản hướng dẫn về chất thải gây khó khăn cho quá trình quản lí chất thải. Các văn bản hiện hành phần lớn đề cập tới việc quản lí chất thải rắn, chất thải y tế… các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải lỏng, chất thải trong công nghiệp, chất thải phóng xạ… chưa được quan tâm thích đáng. Việc điều chỉnh những hành vi quản lí chát thải trong lĩnh vực trên thường được dẫn chiếu từ những văn bản khác nhau, do đó các cơ quan có thẩm quyền thường không có cơ sở để áp dụng. Vấn đề vốn công nghệ và trình độ công nghệ còn gập nhiều khó khăn. Về cơ bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải đặc biệt là xử lí chât thải còn hạn hẹp, trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có đầu tư lớn và tập trung. Hơn thế nữa công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu là nguyên nhân khiến chất thải không được xử lí triệt để. Hiện nay ngân sách nhà nước dành cho công tác bảo vệ môi trường và quản lí chất thải là 1% và dự kiến đến năm 2010 là 2 %. Công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu. Theo Bộ Tài nguyên và môi trường hiện nay có trên 193 đội thuộc các ngành như chế biến thực phẩm và dược phẩm… cho thấy có 118 nhà máy đã đầu tư xây dựng trạm xử lí nước thải. Tuy nhiên có tới 21/118 trạm không hoạt động. Các trạm xử lí nước thải hoạt động thường xuyên là của đơn vị đầu tư nước ngoài nhưng cũng chỉ là đối phó với cơ quan chức năng. Mặt khác, lại thấy hầu hét các trạm xử lí chất thải đều không có các cán bộ kĩ thuật chuyên trách về môi trường đề điều chính các thông số tối ưu trong xử lí nên hệ thống vận hành không đúng theo hướng dẫn kĩ thuật, làm giảm tuổi thọ hệ thống. Nhận thức của cộng đông về công tác bảo vệ môi trường và xử lí chất thải còn yếu kém. Người dân hầu như không nhận thức được tác hại của rác thải và sự ảnh hưởng của rác thải với sức khỏe và môi trường sống, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao. Người dân thường quan niệm quản lí chất thải là công việc của nhà nước, pháp luật, chính vì vậy tình trạng xả thác tràn lan bừa bãi còn phổ biến. Nếu cứ tiếp tục xả rác như hiện nay thì phải sống chung với rác thải của chính mình.
Hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải phù hợp với hội nhập phát triển kinh tế
Việc xây dựng cơ chế quản lý chất thải ở nước ta phải quán triệt quan điểm: kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng một hệ thống pháp luật “cứng” với các chính sách quản lý “mềm” phù hợp với đặc thù của Việt Nam nhằm đảm bảo sự cân bằng hai lợi ích - vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế và vừa ngăn ngừa, giảm thiểu tác hại đến môi trường. Một hệ thống pháp luật “cứng” là việc xây dựng một hệ thống các văn bản pháp lý quy định chi tiết và đầy đủ trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại như: các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý tiêu huỷ chất thải nguy hại cũng như các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải biết “mềm” hoá việc thực thi pháp luật bằng các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện kích thích cho việc đầu tư phát triển nền kinh tế nhưng vẫn kiểm soát và ngăn ngừa được ô nhiễm do việc phát sinh các chất thải nguy hại gây ra. Để cụ thể hoá cho quan điểm trên, theo nhóm em cần thực hiện một số biện pháp sau:
Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể: Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành các hướng dẫn về phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại. Ban hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (trong đó có quy định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được phép nhập khẩu dùng trong sản xuất công nghiệp
Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm: Hiện nay, các mức phạt theo các quy định tại Nghị định số 26/CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16 Nghị định 26/CP, mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000đ áp dụng đối với hành vi chôn vùi, thải các chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối lượng lớn, thời gian khắc phục hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh tại Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định tội phạm về môi trường cho thấy các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5 – 10 năm là tối đa). Ở đây, chúng ta thử một phép so sánh một cá nhân nếu phạm tội cố ý giết người trong Luật hình sự có thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên, chủ một doanh nghiệp cố ý thải chất thải nguy hại gây ô nhiễm nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, gây nên nhiều căn bệnh nan y dẫn đến tử vong cho nhiều người trong một thời gian dài thì chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù ở mức độ thấp – đây là một điều chưa hợp lý. Trong thời gian qua có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định này và vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao so với việc phải đầu tư trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì vậy, sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra trong thời gian tới là: chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác quản lý chất thải nguy hại nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề này.
Ban hành một số chính sách quản lý nhà nước phù hợp:
Chính sách về tài chính: Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm:Các phí này là loại thuế hoặc phí trực tiếp đánh vào các chất thải nguy hại tại điểm được sản sinh ra hay tại điểm đổ bỏ. Mục tiêu chính của những thuế này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy nhiệt điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng...Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch và tạo điều kiện cho việc hình thành các công ty vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại từ những nguồn vốn khác nhau (vốn liên doanh, vốn cổ phần hoặc vốn tư nhân) bằng các cơ chế tài chính như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay tín dụng ưu đãi...).
Các chính sách về quản lý hành chính và đầu tư khoa học công nghệ: Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường. Cần tổ chức đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn cũng như luật pháp đề đội ngũ này có khả năng thực thi có hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất để có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng biệt cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực khác nhau. Khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại.
Công tác tuyên truyền, giáo dục: Khuôn khổ pháp lý là cần thiết nhưng ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường cũng đóng góp một vai trò quan trọng, phù hợp với quan điểm chung: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân”, tất cả cùng hướng đến mục đích vì một sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai cho đất nước. Vì vậy, chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chất thải nguy hại và pháp luật về chất thải nguy hại, phân tích làm cho nhân dân hiểu được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan tâm và “tai hoạ sẽ đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu hay nghèo” nếu không ý thức được điều này.
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế: Để thúc đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình hội nhập chúng ta cần:
Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và các quốc gia trên thế giới trong vấn đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp, các chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đạt kết quả cao hơn. Thông qua các hoạt động như trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ về tài chính, chúng ta sẽ có điều kiện triển khai giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong công tác quản lý chất thải nguy hại, nhất là vấn đề vốn và công nghệ.
Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại cũng cần coi là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách bảo vệ môi trường bởi nói không chỉ thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ sự phát triển bền vững của riêng đất nước chúng ta mà còn là trách nhiệm chung đối với sự tồn tại và phát triển của toàn nhân loại.
Kết luận
Môi trường là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là nền tảng của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, bất cứ hoạt động gì của con người cũng diến ra trong môi trường và vì thế nó có những tác động nhất định tới môi trường. Hiện nay với sự bùng nổ dân số trên toàn cầu và tốc độ công nghiệp hóa cao đã gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường. Những tốn thất này đang là mối đe dọa cho toàn nhân loại. Chính vì vậy một trong những vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay là những biện pháp bảo vệ hiệu quả nhất cho môi trường của trái đất. Việt Nam cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải về môi trường. Trong đó, vấn đề quản lí chất thải là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp giải quyết. Xuất phát từ tấm quan trọng của chất thải, Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của những quy định về quản lí chất thải không tránh khỏi những bất cập, những thiếu sót. Việc hoàn thiện những quy định về quản lí chất thải nguy hại sẽ góp phần không nhỏ cho công tác bảo vệ môi trường của nước ta đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong thời kì phát triển kinh tế như hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý chất thải trong hội nhập kinh tế quốc tế.doc