Trong cơ chế cũ, nhà nước quản lý và điều hành nền kinh tế đất nước theo phương thức mệnh lệnh, hành chính, bao cấp, vì vậy, các giao dịch dân sự hầu như không phát triển, các giao dịch này chủ yếu dựa trên sự tin cậy, các thỏa thuận được thực hiện phần lớn bằng lời nói, viết tay hoặc do cơ quan hành chính nhà nước thị thực. Vì vậy, quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về công chứng nói riêng, chưa được quan tâm một cách thấu đáo, làm ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động giao lưu dân sự, kinh tế và xã hội.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng các giao dịch dân sự, đòi hỏi nhà nước phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý các giao dịch dân sự, kinh tế, cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội.
Cùng với sự ra đời của Luật Công chứng là sự xuất hiện của các Văn phòng công chứng (VPCC). Điều này đã khắc phục được những hạn chế đáng kể như sự quá tải của các Phòng Công chứng, cũng như việc phân định giữa công chứng và chứng thực, vấn đề phân cấp, phân quyền trong quảm lý nhà nước (QLNN) về công chứng Sự ra đời của VPCC đã góp phần chuyên nghiệp hóa và xã hội hóa hoạt động công chứng được coi là bước đột phá trong cải cách hoạt động công chứng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc ra đời của VPCC bên cạnh Phòng Công chứng cũng đặt ra những vấn đề cấp bách trong quản lý, mà Luật Công chứng không thể tiên liệu hết được những vướng mắc, khó khăn khi triển khai thực hiện trên thực tế với rất nhiều biến động. Từ đó có thể thấy, công tác QLNN về hoạt động công chứng là rất quan trọng và nhạy cảm trong xu hướng “xã hội hóa dịch vụ công”, rất cần thiết phải hoàn thiện trên cơ sở định hướng đúng với mục tiêu chính trị, xã hội, kinh tế lâu dài, đảm bảo lợi ích tối cao cho người dân, đảm bảo hiệu quả trong công tác QLNN, đồng thời đề cao tính tự chịu trách nhiệm cá nhân của công dân.
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 5
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 5
1.1.1. Tổng quan về các mô hình công chứng trên thế giới 5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm công chứng. 8
1.1.2.1. Khái niệm về công chứng. 8
1.1.2.2. Đặc điểm của công chứng. 12
1.1.3. Khái quát chung về Văn phòng công chứng. 14
1.1.3.1. Khái niệm Văn phòng công chứng. 14
1.1.3.2. Đặc điểm của Văn phòng công chứng. 17
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 19
1.2.1. Khái niệm quản lý, quản lý nhà nước. 19
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng 23
1.2.2.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng. 23
1.2.2.2. Đặc điểm của Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng 24
1.2.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với Văn phòng công chứng 28
1.2.3.1. Nguyên tắc bảo đảm sự quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng. 28
1.2.3.3. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong quản lý hoạt động của Văn phòng công chứng. 28
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với Văn phòng công chứng. 29
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 35
2.1. KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, TÌNH HÌNH DÂN CƯ, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 35
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 40
2.2.1. Về ban hành văn bản quản lý. 45
2.2.2. Về tổ chức thực hiện quản lý. 55
2.2.3. Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các Văn phòng công chứng 61
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 68
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG 68
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 78
3.2.1. Các giải pháp chung. 78
3.2.1.1 Thống nhất chỉ đạo từ trung ương đến địa phương trong lĩnh vực công chứng 78
3.2.1.2 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động công chứng 80
3.2.2. Các giải pháp cụ thể của quản lý nhà nước với mô hìnhVăn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội 83
3.2.2.1 Nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá 83
3.2.2.2 Xây dựng bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. 85
3.2.2.3 Thành lập Hiệp hội công chứng. 88
3.2.2.4 Xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng. 90
3.2.2.5 Xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho thành phố. 92
KẾT LUẬN . 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .97
104 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7617 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý Nhà nước đối với các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác giải pháp chung
3.2.1.1 Thống nhất chỉ đạo từ trung ương đến địa phương trong lĩnh vực công chứng
Thống nhất được hiểu là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đây là một điểm mang tính đặc thù rất riêng của Việt Nam. Đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta là một đảng duy nhất cầm quyền; xã hội hoá công chứng là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, vì thế không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết, nhằm định hướng, bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân trong suốt quá trình thực hiện xã hội hoá công chứng.
Nhà nước quản lý chủ yếu bằng pháp luật, tạo môi trường pháp lý, khung pháp luật cho quá trình xã hội hoá công chứng. Thông qua pháp luật, nhà nước bảo đảm quá trình xã hội hoá giữ đúng định hướng, bảo đảm ổn định trật tự, công bằng xã hội, tránh tình trạng tự phát, tự do, vô chính phủ, tuỳ tiện, vô nguyên tắc, gây mất ổn định, trật tự, công bằng xã hội. Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp (tổ chức quản lý nghề công chứng) đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực quản lý nghề công chứng, giúp cho Nhà nước giảm tải các công việc không thuộc chức năng quản lý, tạo ra các chuẩn mực chung về đạo đức, phong cách, nghiệp vụ Công chứng viên. Tổ chức này sẽ giúp Công chứng viên tự tin trong nghề nghiệp, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của Công chứng viên trong xã hội cũng như đối với các cơ quan QLNN, cơ quan xét xử, nâng cao chất lượng hoạt động và trách nhiệm phục vụ khách hàng của Công chứng viên.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cải cách hành chính trong đó có lĩnh vực công chứng nói chung, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã tiến hành cải cách hành chính từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Thủ tục hành chính liên quan không chỉ đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền, mà còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp hay ở các văn bản pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, về cơ bản, đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước quy định và trực tiếp giải quyết. Nhận rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ tục hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết tốt hơn các công việc của công dân, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Yêu cầu của Nghị quyết là "nhằm tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội và giữa cơ quan nhà nước với công dân". Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính, cải cách trong hoạt động tư pháp, cải cách thủ tục của công chứng, sự ra đời VPCC ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thể chế hoá đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính và cải cách tư pháp về những nội dung liên quan đến hoạt động công chứng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2005 về chiến lược xây dựng pháp luật đến năm 2020. với mục tiêu Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN;
Nghị quyết số 49 là một bước nhấn của Nghị quyết số 08 về cải cách tư pháp của Việt Nam, khẳng định lại quyết tâm xây dựng một Nhà nước pháp quyền.
Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc;
Với mục tiêu cụ thể như sau: Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan tư pháp, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân; Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp; Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Trong hoạt động của lĩnh vực công chứng, sự ra đời của VPCC là một trong những định hướng phát triển dịch vụ công. Đặc thù của hoạt động tư pháp là duy trì và bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, thúc đẩy quan hệ kinh tế, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Do vậy, nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật phải được tuân thủ đầy đủ.
3.2.1.2 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động công chứng
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo một hành lang pháp lý an toàn trước hết là cho các giao dịch dân sự nói chung, hơn thế tiên liệu được hướng phát triển để có thể có xây dựng được 1 hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn, điều chỉnh tất cả các mặt liên quan đến các tổ chức hành nghề công chứng và các hoạt động công chứng. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật về công chứng phải xác định phạm vi, nội dung phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết định đối với tính khả thi, sự thành công của quá trình xã hội hoá công chứng ở Việt Nam.
Có thể nói ở nước ta hiện nay, xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá công chứng nói riêng là vấn đề mới và khó, chưa có tiền lệ, chưa có kinh nghiệm nên phải tiến hành thận trọng, tránh chủ quan, duy ý chí, tránh sự sao chép, vay mượn bất cứ một hình mẫu công chứng nào để áp đặt vào Việt Nam. Cần phải thấy rằng, mô hình công chứng hiệu quả nhất có thể không phải là mô hình tiên tiến nhất, hiện đại nhất trên thế giới, mà phải là mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam, đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi không chỉ có điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đặc điểm tâm lý, truyền thống dân tộc mà cả xu thế hội nhập quốc tế và khu vực cũng đang tác động mạnh mẽ đến quá trình xã hội hoá công chứng ở nước ta; đặt ra yêu cầu “quốc tế hoá” lĩnh vực công chứng, khắc phục những “dị biệt” của thiết chế công chứng Việt Nam so với các hệ thống công chứng trên thế giới hiện nay.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48/NQ-TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; và hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW trong ba năm qua cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ và sự nhận thức có lúc còn chưa đầy đủ về giá trị to lớn của Nghị quyết này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Một số định hướng, đặc biệt là “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” chưa được triển khai một cách toàn diện và triệt để. Yêu cầu hoàn thiện thể chế công chứng phải gắn liền với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi (pháp luật về hợp đồng, pháp luật về sở hữu, pháp luật về thuế, lệ phí và phí...).
Như vậy, chủ trương xã hội hóa và ban hành các văn bản pháp luật của Nhà nước ta điều chỉnh các quan hệ về công chứng trong thời gian qua đã thể hiện được tính ưu việt của nhà nước trong việc nhìn nhận, nắm bắt quy luật khách quan, xử lý các vấn đề xã hội theo hướng vì dân. Đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho tổ chức, cá nhân, nâng cao chất lượng phục vụ.
Trong quá trình xây dựng chính sách và truyền tải ý chí đổi mới của Nhà nước, chúng ta cũng còn gặp những hạn chế, bất cập đặc biệt là trong việc truyền tải nội dung của văn bản pháp luật đến nhân dân - đối tượng, người thực hiện các quy phạm pháp luật, đưa các quy phạm đó vào thực tiến, để luật của nước ta thực sự có tính ổn định, lâu dài.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể của quản lý nhà nước với mô hình Văn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội
3.2.2.1 Nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá
Nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá. Công chứng viên không phải chỉ là người được đào tạo cơ bản về luật pháp, về nghề công chứng, tinh thông nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm, vốn sống mà còn phải có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp (trung thực, vô tư, khách quan, liêm khiết, nhiệt tình, trách nhiệm...). Đồng thời, họ phải có kiến thức về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với công chứng.
Các văn phòng đều có một hệ thống bộ máy nhân sự hoạt dộng trong các lĩnh vực trợ giúp cho hoạt động của Công chứng viên và hoạt động chung của văn phòng đó là cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, kế toán, thủ quỹ, nhân viên lưu trữ, nhân viên văn phòng, bảo vệ, lái xe. Về cơ bản, các văn phòng đều đã thực hiện việc thiếp lập một bộ máy làm việc đúng như đề án Đăng ký thành lậpVăn phòng công chứng. Đây được coi là yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động công chứng. Công chứng viên phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp hóa.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên làm việc ở các Văn phòng công chứng: Phần lớn các VPCC đã tuyển dụng, đào tạo, nhân viên có trình độ phù hợp với vị trí công tác tại văn phòng và làm việc độc lập như: Chuyên ngành kế toán tài chính đối với nhân viên kế toán, chuyên ngành văn thư lưu trữ đối với nhân viên lưu trữ, chuyên ngành luật đố với các cán bộ trợ giúp về mặt hướng dẫn khách hàng, tiếp nhận hồ sơ, soạn thảo văn bản công chứng... Có một số văn phòng đã đặc biệt coi trọng công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của văn phòng bằng cách thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt trao đổi kinh nghiệm, mời các chuyên gia trong lĩnh vực hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm cho cán bộ, nhân viên của văn phòng, cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ do Sở Tư pháp, Cục thuế Hà Nội tổ chức như các VPCC: Hà Nội, Thăng Long, A1, Phạm Nguyễn, Đào và đồng nghiệp. Tuy nhiên, thực trạng ở một số văn phòng vẫn có sự kiêm nhiệm trong hoạt động của nhân viên như: Lưu trữ kiêm kế toán; lưu trữ kiêm công tác văn phòng...
Về trình độ chuyên môn của Công chứng viên, cũng như các thành viên khác trong văn phòng là một vất đề nan giải. Nhiều văn phòng hồ sơ sai rất nhiều. Bởi số lượng đang là Công chứng viên ra lập văn phòng không nhiều, mà phần lớn từ các luật sư, kiểm sát viên, cán bộ tòa án nghỉ hưu chuyển sang làm Công chứng viên. Về số lượng cán bộ Công chứng viên hiện này vừa thiếu, vừa thừa, thực tế với các văn phòng ở Hà Nội, chủ yếu các Công chứng viên hoạt động trong các Văn phòng công chứng là luật sư chuyển sang, là các công chức công tác pháp luật tại các ngành khác đã nghỉ hưu về làm công chứng. Về nghiệp vụ pháp lý các công chứng viên này rất giỏi, trình tự thủ tục để chứng nhận một việc công chứng nắm vững, nhưng để nhận biết đâu là giấy tờ thật để công chứng, đâu là giấy tờ giả thì không phải đơn giản, cần có kinh nghiệm, thời gian làm quen công việc. Vì thế bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho đội ngũ Công chứng viên, cũng như tăng cường công tác giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động công chứng giữa các Phòng Công chứng và các VPCC là việc nên làm thường xuyên và cần thiết để nâng cao trình độ nghiệp vụ chung cho Công chứng viên.
Trước mắt, cần sớm rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ quan công chứng, đánh giá chất lượng đội ngũ Công chứng viên trên phạm vi cả nước để có giải pháp tăng cường, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ quan công chứng và có chính sách đào tạo, đào tạo lại đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp. Cần đánh giá kịp thời hiệu quả QLNN đối với tổ chức hoạt động công chứng, chứng thực. Xác định rõ thẩm quyền và phân cấp quản lý, làm rõ trách nhiệm của ngành, cấp đối với lĩnh vực công chứng. Nghiên cứu thành lập tổ chức tự quản nghề công chứng để tách bạch thẩm quyền QLNN và thẩm quyền quản lý nghề công chứng, giảm bớt gánh nặng quản lý cho nhà nước.
Trước các yêu cầu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá, cần xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo toàn diện. Trước mắt, làm tốt công tác đào tạo nghề công chứng với việc xây dựng chương trình, giáo trình chuẩn và đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành. Đồng thời, cần phải xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Công chứng viên; bảo đảm các nguyên tắc bổ nhiệm Công chứng viên với điều kiện bổ nhiệm và quy trình bổ nhiệm chặt chẽ. Đổi mới chế độ chính sách đối với Công chứng viên, tạo động lực để Công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, đề cao trách nhiệm phục vụ trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
3.2.2.2 Xây dựng bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đang được xã hội hoan ngênh, ủng hộ. Sau gần 3 năn thực hiện Luật Công chứng đã mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận và hiệu quả. Việc quy định về đạo đức hành nghề công chứng là một trong những vấn đề cần thiết trong hoạt động công chứng. Bởi vì, hoạt động công chứng trong đó Công chứng viên là người được Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng, Công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch tại tổ chức hành nghề công chứng. Do vậy, việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành nghề công chứng của Công chứng viên. Chính vì vậy, mà tính cấp thiết khi bàn về đạo đức hành nghề công chứng phải được xây dựng thành Bộ Quy tắc đạo đức hành nghề là vô cùng cấp bách. Với những lý do sau:
- Trước hết phải hiểu tính đặc thù của nghề công chứng, công chứng gắn liền với giao dịch dân sự, kinh tế thị trường, công chứng là việc xác định mối quan hệ giữa các bên tham gia vào hợp đồng, giao dịch. Do vậy, đòi hỏi tính chuẩn mực, độ tin cậy, tính hợp pháp cao. Một xã hội muốn xác định nền kinh tế có lành mạnh hay không phải được thể hiện qua các giấy tờ Công chứng viên đã chứng nhận. Trách nhiệm của Công chứng viên trong hoạt động công chứng rất lớn vì phải độc lập tác chiến trong hành nghề. Công chứng viên tuy hành nghề cá nhân nhưng việc làm của Công chứng viên mang tính chất công nên được pháp luật quy định gọi tên cho công việc này là “công chứng”. Từ “công” ở đây là lấy danh nghĩa xã hội không phải lấy danh nghĩa “tư”. Hành vi công chứng mang tính tập thể nhưng không phải một tập thể làm mà chỉ một cá nhân làm nhưng phải mang tính đại diện cho Nhà nước. Do vậy, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng phải mang tính đặc thù của nghề nghiệp, phải có tính khách quan, vô tư, phải có độ tin cậy và tính xác thực trong nội dung của quy tắc. quy tắc được ban hành với tính chất pháp lý như thế nào? Đây là vấn đề đặt ra nếu là văn bản pháp luật xử lý thì cần quy định cụ thể, khác với quy định nghề nghiệp là mang tính chất hướng dẫn. Về nội dung của quy tắc có nên quy định đạo đức hành nghề công chứng cho hai loại hình là Công chứng viên hiện đang là viên chức nhà nước và loại hình Công chứng viên không phải là viên chức nhà nước không?
- Với tính cách là một nghề, công chứng đòi hỏi phải có các tiêu chuẩn đạo đức về nghề nghiệp phù hợp với đặc thù của mình để bảo đảm cho hoạt động công chứng ngày càng phát triển tốt hơn. Đạo đức hành nghề công chứng là sự thể hiện việc đáp ứng yêu cầu công chứng một cách đầy đủ, nhanh chóng và phù hợp các quy định của pháp luật.
- Đạo đức hành nghề công chứng phải thể hiện trong giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp, với người yêu cầu công chứng và sự vận dụng, áp dụng các quy định của pháp luật vào việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch.
- Nội dung Quy tắc Đạo đức Hành nghề công chứng phải quy định để bắt buộc Công chứng viên thực hiện đúng pháp luật khi hành nghề, phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá nhân, sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác, không công chứng hợp đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Công chứng viên phải luôn coi trọng uy tín của mình đối với công việc chuyên môn, không thực hiện những hành vi làm tổn hại đến danh dự cá nhân, thanh danh nghề nghiệp, không sử dụng trình độ chuyên môn, hiểu biết của mình trong công việc để trục lợi, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng.
- Việc xây dựng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng là một trong bốn vấn đề quan trọng của nguyên tắc hành nghề công chứng. Luật Công chứng quy định, Công chứng viên phải tuân theo đạo đức hành nghề công chứng, khi xã hội hóa hoạt động công chứng được đưa vào thực hiện thì đạo đức hành nghề công chứng là vấn đề đang được xã hội quan tâm. Hiện nay một số địa phương chưa thật sự quan tâm đến hoạt động của Công chứng viên nên việc ban hành Quy tắc Đạo đức Hành nghề Công chứng là rất cần thiết để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động công chứng, tính tự quản của Công chứng viên, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng cần mang tính quy phạm pháp luật.
- Đạo đức hành nghề công chứng là phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín, thanh danh nghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự tôn trọng và tin cậy của nhân dân.
- Việc ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, tên gọi phải tuân theo quy định tại Điều 11 Luật Công chứng. Đạo đức nghề hành nghề công chứng cần có quy định về việc phấn đấu trau dồi phẩm chất, thường xuyên học tập nâng cao trình độ, tìm tòi nghiên cứu kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động nghiệp vụ chuyên môn; tích cực tham gia các hoạt động trao đổi kiến thức, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
- Đạo đức hành nghề công chứng phải bắt buộc được Công chứng viên luôn thể hiện sự văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc công chứng, Công chứng viên cần có thiện chí và phải tư vấn cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về hệ quả pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công chứng. Công chứng viên phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người yêu cầu công chứng lựa chọn hình thức văn bản công chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.
- Đạo đức hành nghề Công chứng viên là sự tận tình, hòa nhã giải đáp thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp luật, ý chí của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của pháp luật. phải giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch.
- Công chứng là dịch vụ công nên trong hoạt động hành nghề công chứng thì việc ban hành Quy tắc Đạo đức Hành nghề Công chứng là cần thiết. Việc hướng dẫn cho người dân thực hiện đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội cần đưa vào trong nội dung quy tắc. Cần bổ sung thêm quy định về xử phạt, việc tổ chức thực hiện.
Qua buổi tọa đàm do Bộ Tư pháp chủ trì tổ chức ngày 1 tháng 11 năm 2010 với mục tiêu là lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Quy tắc Đạo đức Hành nghề Công chứng đã thu nhận được nhiều ý kiến bổ ích cho việc xây dựng bộ Quy tắc này. Đây sẽ là chuẩn mực để Công chứng viên hành nghề công chứng tuân theo, điều này cũng là một tiêu chí đã được thể hiện ngay trong Luật Công chứng (Điều 11).
3.2.2.3 Thành lập Hiệp hội công chứng
Với tốc độ phát triển như vũ bão, là một trong những nơi đầu tiên áp dụng quy định mới trên của Luật Công chứng, hơn 3 năm từ khi Văn phòng công chứng đầu tiên ra đời (tháng 7/2008), Hà Nội có 42 văn phòng, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Nhờ có những hoạt động của các văn phòng mà khối lượng công việc của 9 Phòng Công chứng Nhà nước đã giảm đáng kể, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội chung của một thủ đô, đơn vị kinh tế đầu tầu cho cả nước, tốc độ phát triển các văn phòng của Hà Nội như vậy là quá nhanh, trong khi ở Tp. HCM hiện mới chỉ có 8 địa điểm. Sau vài tháng triển khai (tháng 3), Bộ Tư pháp đã yêu cầu Hà Nội tạm dừng cấp phép thành lập Văn phòng công chứng mới để thực hiện lại một số quy định theo yêu cầu.
Tại Hội nghị về tổ chức và hoạt động của Tổ chức hành nghề công chứng được Sở Tư pháp Hà Nội tổ chức sáng (28/5), nhiều công chứng viên từ 42 Văn phòng công chứng bày tỏ mong muốn tăng cường sự liên kết chia sẻ thông tin và tiến tới thành lập Hiệp hội Công chứng của thành phố. Đây là điều mà rất nhiều các trưởng Văn phòng công chứng đưa ra trong Hội nghị hành nghề công chứng tại Hà Nội. Ví dụ: Nguyên trưởng Phòng Công chứng số 3, ông Nguyễn Đình Tú, hiện là Trưởng VPCC Nguyễn Tú bức xúc: "Chúng ta đã đông rồi, đã đến lúc phải có sự liên kết bởi giữa các VPCC rất cần chia sẻ thông tin. Nếu bây giờ của ai người ấy dùng thì còn gì nữa!". Một điều "rất nguy hiểm" là ngay 9 Phòng Công chứng (Nhà nước) hiện cũng không chia sẻ với nhau những thông tin thiết thực như văn bản ngăn chặn về thi hành án, tranh chấp...
Đề nghị trước mắt, Sở Tư pháp cần yêu cầu 9 phòng công chứng phải liên kết với nhau, sau đó nếu có các thông tin ngăn chặn gì thì có thể cung cấp cho các VPCC. Từ phía các nhà quản lý cũng nhìn nhận được đây là một nhu cầu chính đáng nhằm đảm bảo. Sự liên kết này sẽ đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch không bị trùng lặp. Thêm vào đó, chia sẻ thông tin cũng giúp ngăn chặn được các hành vi sai phạm như trường hợp đã xảy ra là một hợp đồng lại được thực hiện giao dịch ở hai nơi khác nhau đặc biệt với tầm quan trọng của vấn đề, Sở Tư pháp sẽ xây dựng một mạng cơ sở dữ liệu chung, tuy nhiên việc này đòi hỏi kinh phí không nhỏ. Sở cũng sẵn sàng giữ vai trò là đầu mối chính tích cực chuẩn bị về tổ chức và nhân sự cho việc xây dựng đề án thành lập Hiệp hội Công chứng Hà Nội trước năm 2010.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên trong việc thành lập VPCC cho phù hợp vị trí địa lý cũng như khả năng cạnh tranh lành mạnh, Sở Tư pháp sẽ thực hiện việc xây dựng bản đồ quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng từ nay đến năm 2015, trên địa bàn Hà Nội mở rộng. Thành phố sẽ ưu tiên phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại các huyện vùng sâu, vùng xa với các biện pháp hỗ trợ cụ thể như giảm thuế cho các VPCC mở tại những vùng này.
Hà Nội hiện có 9 phòng công chứng và 41 Văn phòng công chứng đang hoạt động với tổng cộng hơn 120 Công chứng viên, tập trung chủ yếu ở nội thành. Cần tạo điều kiện cho phép thành lập Hiệp hội Công chứng viên để có một tổ chức bảo vệ quyền lợi cho Công chứng viên và thống nhất các hoạt động cho các tổ chức hành nghề công chứng. Hiệp hội Công chứng sẽ đóng góp vai trò to lớn trong việc chia sẽ thông tin nghiệp vụ giữa các tổ chức hành nghề công chứng, giải quyết các mối quan hệ nội bộ trong cácVăn phòng công chứng. Hiệp hội Công chứng được thành lập và hướng dẫn nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho công chứng viên thì chắc chắn sẽ thuận lợi hơn, mặt khác, vì sự uy tín của cả Hiệp hội Công chứng đối với người yêu cầu công chứng, Hiệp hội phải có trách nhiệm hơn đối với Công chứng viên, khi Công chứng viên gặp khó khăn về nghiệp vụ cần có sự giúp đỡ của Hiệp hội.
Do vậy, cần thiết phải thành lập Hiệp hội Công chứng, trước hết là phải thành lập tại từng địa phương rồi tiến tới thành lập ở phạm vi toàn quốc. Một mặt, đây là cầu nối vừa là diễn đàn sinh hoạt chung của các tổ chức hành nghề công chứng để chia sẻ kinh nghiệm, thông tin. Mặt khác, đây là nơi tập hợp tiếng nói chung để đóng góp cho Nhà nước những sáng kiến về quản lý, những phát hiện về vướng mắc nảy sinh trong thực tế để tìm giải pháp khắc phục. Hơn nữa, những người thường trực của hiệp hội công chứng phải là những người xuất thân từ các tổ chức hành nghề công chứng và do các tổ chức hành nghề công chứng cử ra nên rất am hiểu về công chứng, vì vậy, Nhà nước có thể thông qua Hiệp hội Công chứng để gián tiếp thực hiện vai trò QLNN đối với công chứng. Mặt khác, Hiệp hội Công chứng có thể chia sẻ phần nào với Nhà nước về trách nhiệm quản lý.
Sự thành lập nhiều tổ chức hành nghề công chứng mà không có qui hoạch mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng trên cùng một địa bàn tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành nghề công chứng. Hiệp hội Công chứng được thành lập sẽ là cơ quan điều hoà lợi ích giữa các thành viên, hạn chế được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành viên.
Lập Hiệp hội là nguyện vọng chung lâu nay của các Phòng Công chứng và VPCC để bảo vệ quyền lợi cho Công chứng viên. Với những nguyên nhân trên, yêu cầu đặt ra với việc thành lập Hiệp hội Công chứng là cần thiết và tất yếu. Điều này đảm bảo cho các VPCC một tiền đề phát triển bền vững, lâu dài, ổn định.
3.2.2.4 Xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng
Cùng với việc thành lập Hiệp hội Công chứng, thì một việc không kém phần quan trọng đó là xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng. Đây được coi là một hình thức liên kết khác giúp hạn chế rủi ro trong hoạt động công chứng, đồng thời Sở Tư pháp sẽ triển khai và hoàn chỉnh đề án Trung tâm quản lý các giao dịch ngăn chặn.
Kể từ khi Luật Công chứng được thông qua, bên cạnh mô hình Phòng Công chứng còn có các VPCC. Giữa các Phòng Công chứng có mối quan hệ chặt chẽ hơn do đều cùng thuộc Sở Tư pháp, sự chia sẽ thông tin, kinh nghiệm cũng tốt hơn. Các VPCC thì hoàn toàn độc lập với nhau và độc lập với cả các Phòng Công chứng, vì vậy, việc phối hợp, chia sẽ kinh nghiệm, thông tin với nhau gặp khó khăn. Theo Giám đốc điều hành VPCC Thăng Long Trần Quang Sơn, đây phải là ưu tiên số 1 của Sở, bởi một "kho" thông tin chung ra đời sẽ giúp Công chứng viên và người dân tránh được rủi ro khi thực hiện các hợp đồng giao dịch, như đối với tài sản đang có tranh chấp... "Bản thân các VPCC sẵn sàng ủng hộ cả vật chất lẫn con người cho đề án". Như một cơ chế phòng ngừa rủi ro rất cần thiết đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tổ chức hành nghề công chứng và cho những người yêu cầu công chứng thì Luật lại chưa hề quy định, đó là cơ chế chia sẻ thông tin trong hoạt động công chứng.
Hiện nay việc công chứng hợp đồng, giao dịch có liên quan đến bất động sản, cũng như một số lĩnh vực mang tính nhạy cảm có tình trạng khá lộn xộn, thiếu sự gắn kết giữa các tổ chức hành nghề công chứng, thậm chí là sự đối lập nhau trong hoạt động nghiệp vụ thể hiện ở hiện tượng nơi này từ chối vì có thông tin ngăn chặn giao dịch, giấy tờ không hợp lệ nhưng nơi kia lại công chứng vì không được chia sẻ thông tin. Nghiêm trọng hơn là hiện tượng một tài sản được công chứng ở nhiều tổ chức hành nghề công chứng với những chủ thể khác nhau không phải là hiếm gặp. Chính thực trạng này đã tạo điều kiện cho những Công chứng viên hạn chế về trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trục lợi, sự nghi ngại của người yêu cầu công chứng cũng như các cơ quan hữu quan đối với các tổ chức hành nghề công chứng sau khi xã hội hoá cũng vì thế mà không dễ gì thay đổi.
Để chấm dứt tình trạng trên đây và nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động công chứng trong thời gian tới đây, Luật Công chứng cần bổ sung quy định bắt buộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải xây dựng cơ sở dữ liệu chung và chia sẻ thông tin ngăn chặn giao dịch trong hoạt động công chứng của địa phương mình, trên cơ sở đó tiến dần tới việc xây dựng mạng thông tin công chứng trên phạm vi toàn quốc như đã có dự án từ những năm trước đây.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên trong việc thành lập VPCC cho phù hợp vị trí địa lý cũng như khả năng cạnh tranh lành mạnh, Sở Tư pháp sẽ thông qua đề án quy hoạch và phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội. Thành phố sẽ ưu tiên phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại các huyện vùng sâu, vùng xa với biện pháp hỗ trợ cụ thể như giảm thuế cho các VPCC ở những vùng này.
Với lĩnh vực công chứng là một lĩnh vực rộng, nó bao trùm nhiều lĩnh vực như tư pháp, đất đai, xây dựng, nhà ở, dân sự, ngân hàng… có thể nói là hầu hết các lĩnh vực. Vấn đề đặt ra nhiều người dân còn nhầm lẫn công chứng với chứng thực, cơ quan nào thực hiện, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan như thế nào? Qua một thời gian rất dài, nước ta tồn tại cơ chế xin cho, việc xếp hàng dài tại Phòng Công chứng thì ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được. Câu hỏi đặt ra, việc xã hội hóa công chứng, để công chứng được coi là một loại hình dịch vụ công, trách nhiệm của Công chứng viên tại các VPCC là giải thích để người dân khi tham gia vào các giao dịch có thể hiểu được trách nhiệm và quyền lợi của mình đến đâu. Nâng cao nhận thực của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng và lợi ích của hoạt động công chứng đối với việc phát triển kinh tế xã hội và an toàn giao dịch bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người dân.
3.2.2.5 Xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho thành phố
Gắn liền với việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng thì chúng ta phải xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho thành phố. Đây là một điều kiện về cơ sở vật chất để VPCC có thể hoạt động được, các VPCC là những đơn vị sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách và được thành lập theo Luật Công chứng. Sự ra đời của Văn phòng công chứng đã góp phần làm giảm thiểu sự quá tải của các Phòng Công chứng trước đây. Các VPCC có trụ sở riêng, đảm bảo diện tích làm việc, đặc biệt là nơi lưu trữ hồ sơ được bảo quản chặt chẽ với các thiết bị chống cháy nổ, thiết bị chốn mối mọt... theo quy định tại điều 4 - Nghị định 02 hướng dẫn Luật Công chứng thì trụ sở VPCC được quy định như sau:
1.Văn phòng công chứng phải có trụ sở riêng với địa chỉ cụ thể và bảo đảm về diện tích làm việc cho Công chứng viên, nhân viên, tiếp người yêu cầu công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp trụ sở là nhà thuê, mượn thì ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản 1 điều này trong hồ sơ làm thủ tục đăng ký hoạt động VPCC phải kèm theo bản sao Hợp đồng thuê, mượn nhà có thời gian tối thiểu là ba năm kể từ ngày làm thủ tục đăng ký hoạt động VPCC.
Tuy nhiên một vấn đề nan giải, nếu Nhà nước không có một giải pháp thì những điều kiện về vật chất sẽ để lại một hậu quả vô cùng lớn. Không phải VPCC nào khi ra đời, Công chứng viên của các VPCC đã có đủ điều kiện vật chất. Ví dụ việc thuê văn phòng, có mấy Công chứng viên có được nhà để kinh doanh mà phần lớn phải thuê mướn, nhất là trụ sở ở Hà Nội với giá trị hàng nghìn đô cho một tháng, thì diện tích mới đủ điều kiện để làm việc. Chưa kể việc lưu giữ hồ sơ, đây là một vấn để vô cùng quan trọng liên quan đến ngân hàng hồ sơ lưu. Lưu giữ hồ sơ, giấy tờ là một trong những vấn đề then chốt của công chứng, qua hồ sơ có thể biết được giao dịch được thực hiện lần thứ mấy, tình trạng của giao dịch đó như thế nào? Thời gian vừa qua, qua công tác kiểm tra nhiều văn phòng còn chưa đáp ứng được điều kiện vật chất, hồ sơ lưu còn thiếu sót nhiều, đây có thể nói là mầm bệnh tiềm ẩn để bùng phát. Thực tế, nhiều đối tượng đã lợi dụng sự yếu kém về việc lưu hồ sơ để thực hiện lừa đảo như vụ tại Văn phòng công chứng Việt Tín có đến 200 hồ sơ bị làm giả và một ngôi nhà bán cho nhiều người, hoặc không có đất vẫn mua bán được. Dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến những giao dịch dân sự được nhà nước cho phép. Đây là một khó khăn chung của các VPCC, vì thế nên chăng nhà nước, Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp nên tìm ra một giải pháp để có thể đảm bảo an toàn cho các giao dịch được nhà nước bảo vệ. Tránh tính trạng là hậu quả xảy ra, khôi phục vô cùng khó, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của người dân. Nhà nước lập ra một trung tâm lưu trữ để tất cả các văn phòng có thể nộp hồ sơ qua trung tâm, thông tin được nối mạng giữa các văn phòng sẽ hạn chế được những rủi ro. Thời đại của công nghệ thông tin mà còn rất nhiều văn phòng còn quản lý hồ sơ một cách thủ công, thiếu khoa học đơn giản vì điều kiện vật chất có hạn, trên tinh thần xã hội hóa, nhà nước sẽ hỗ trợ để giải quyết các vấn đề xã hội đặt lợi ích của người dân nên trên hết. Khách quan, thì tâm lý khách hàng vẫn còn e dè, hoài nghi phân biệt giữa công chứng nhà nước và loại hình VPCC. Trong khi đó VPCC mới ra đời còn gặp nhiều khó khăn về tài chính, về tìm kiếm khách hàng, xây dựng thương hiệu.
Với nét riêng của thành phố Hà Nội, để có được một văn phòng hoạt động, có kho lưu trữ hồ sơ lưu là một vấn đề lớn. Bản thân những Công chứng viên có được diện tích theo quy định để được thành lập VPCC đã là rất khó. Trên thực tế, nếu kiểm tra thì số lượng đáp ứng được tiêu chí về điều kiện văn phòng để thành lập ở thành phố Hà Nội là không nhiều. Đây có thể nói là khó khăn chung của các VPCC. Điều này là nguyên nhân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lưu giữ hồ sơ công chứng của khách hàng - đây là những giấy tờ, tài liệu, chứng cứ vô cùng quan trọng, nó là bằng chứng cho thấy hồ sơ có hợp lệ hợp pháp hay không. Mà thời gian lưu giữ tối thiểu phải là 5 năm, chưa kể những hồ sơ mà theo luật lưu trữ thì phải lưu đến 10 năm. Với lượng giao dịch nhiều như hiện nay, thì việc có được kho lưu trữ hồ sơ công chứng là rất khó, xong hậu quả là vô cùng nghiêm trọng, mà không thể lương hết được hậu quả xảy ra. Nhất là khi mà QLNN đang có quá nhiều việc đáng bàn. Nên chăng, Sở Tư pháp là đầu mối về hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến các vấn đề tư pháp, đứng ra thành lập kho lưu trữ hồ sơ chung để thuận tiện cho việc kiểm tra, thanh tra hoạt động của các VPCC. Hơn nữa hồ sơ được thống nhất về một mối. Vấn đề này không dễ thực hiện, xong khi mà Việt Nam tham gia vào sân chơi chung của thế giới thì bản thân chúng ta phải tự bảo vệ mình, phải xây dựng dữ liệu lưu trữ một cách khoa học sẵn sàng cho việc bước vào sân chơi chung. Đây là vấn đề mà chúng ta hoàn toàn có thể lường trước được hậu quả. Bản thân Nhà nước cần có giải pháp tạo trụ sở, cũng như kho lưu trữ hồ sơ chung cho các tổ chức hành nghề công chứng nói, nếu có sự hỗ trợ từ phía nhà nước bản thân các loại hình dịch vụ này thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa trụ sở, khiến cho hoạt động này vừa bảo đảm chất lượng, vừa thuận lợi cho người dân khi tiếp cận loại hình dịch vụ này. Và đây cũng là cách mà Nhà nước có thể phân bố được mạng lưới VPCC đến tận người dân, nhất là những vùng dân còn khó khăn, cũng là thực hiện bảo an cho toàn hệ thống công chứng.
KẾT LUẬN
Văn phòng công chứng ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng, phát triển và ổn định của mọi nền kinh tế tuy nhiên đi kèm theo đó là những ảnh hưởng tiêu cực mà bất kể một quốc gia phát triển nào cũng nhận ra. Do vậy, vai trò QLNN đối với VPCC là cần thiết và cấp bách cho sự phát triển lâu dài ổn định bền vững của toàn xã hội.
Với chủ trương xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá các dịch vụ công chứng nói riêng là vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam hiện nay.
Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Như vậy, xã hội hoá công chứng chính là sự xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước. Điều này đã góp phần phân biệt rõ chức năng QLNN và quản lý nghề công chứng. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Mô hình VPCC ra đời đã tạo điều kiện để mọi người dân, với mọi địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với công chứng. Có thể nói VPCC ra đời được coi là cuộc cách mạng đối với lĩnh vực công chứng. Đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử phát triển và hình thành công chứng của Việt Nam. Mô hình VPCC được hầu hết các nước có nền kinh tề chuyển đổi đang đi theo hướng này đó là chuyển từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tư do như với Trung Quốc, Liên Bang Nga, Cu Ba, ... Còn với các nước trên thế giới thì mô hình này đã phát triển từ rất lâu đời. Cũng bắt đầu từ khi có Luật Công chứng năm 2006 cho đến năm 2008 chúng ta mới triển khai thực hiện, thừa nhận song song tồn tại hai hệ thống: bên cạnh các Phòng Công chứng nhà nước đã thành lập, với các công chứng viên nhà nước là các VPCC mới thành lập, dần được nhân rộng với các công chứng viên hành nghề tự do, đặt trước sự quản lý bằng pháp luật của nhà nước.
Bằng những phương pháp nghiên cứu đúng đắn, dựa trên cơ sở những căn cứ khoa học và thực tiến của hoạt động công chứng nước ta trong những năm qua, tham khảo những quy định, mô hình hoạt động công chứng của một số nước trên thế giới, luận văn đã làm sáng tỏ những vẫn đề còn hạn chế trong quy định của pháp luật cụ thể là Luật Công chứng 2006, thực tiễn tại địa bàn thành phố Hà Nội đưa đến cho những người quan tâm đến lĩnh vực công chứng nói chung và quan tâm đến mô hình VPCC nói riêng một tổng quan về loại hình VPCC. Sự phát triển của hệ thống công chứng gắn chặt chẽ với sự phát triển QLNN đối với công chứng, đến nay một mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng đã được hình thành và triển khai rộng khắp trên toàn quốc, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá nhân, tổ chức. Hoạt động VPCC từng bước được chuyên nghiệp hóa, người dân tiếp cận dịch vụ công chứng ngày càng thuận tiện, nhanh chóng, số sai phạm trong hoạt động công chứng dẫn đến tranh chấp không nhiều, đặc biệt bước đầu VPCC đã trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều người dân. Điều đó, chứng tỏ công tác quản lý của nhà nước đối với công chứng, VPCC đã thực hiện tốt chủ trương, theo kịp sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nếu so với công chứng của các nước đã có hàng trăm năm phát triển thì ngành công chứng, mô hình VPCC còn quá non trẻ, phải tích cực quan tâm nghiên cứu hoàn thiện để kịp thời với sự vận động của thực tiễn Việt Nam, đồng thời trình độ phát triển của công chứng không thể tách rời với trình độ phát triển của xã hội hiện tại. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn “Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện quy chế QLNN đối với mô hình VPCC, nâng cao hiệu quả QLNN trong việc ban hành, văn bản quản lý, tổ chức thực hiện quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, ... Đồng thời đặt cơ sở về mặt lý luận cho các bước nghiên cứu chuyên sâu và mở rộng về lĩnh vực công chứng và góp phần hoàn thiện thể chế công chứng của Việt Nam trong gia đoạn mới, giai đoạn then chốt của Việt Nam trên chính trường quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vũ Huy Bằng (1999), Những cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà nội
Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Luật Công chứng năm 2006
Tạp chí Thông tin khoa học pháp lí: Chuyên đề: Phân cấp chứng thực bản sao tiếng Việt tại thành phố Hồ Chí Minh và mô hình tổ chức, hoạt động của các Phòng Công chứng
Bài báo “Công chứng Nhà nước thành phố Hà Nội, những vấn đề cần quan tâm” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên tạp chí QLNN số 11 tháng 6 năm 1995;
Bài “Công chứng Nhà nước - công cụ hưu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức” của tác giả Dương Đình Thành đăng trên tạp chí Pháp luật số chuyên đề tháng 7 năm 1995
“Một số nhận xét về pháp luật hiện hành về công chứng Nhà nước và hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Thất và Đặng Văn Khanh đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 4/1998
Luật công chứng và vấn đề xã hội hoá hoạt động công chứng / TS.Lê Quốc Hùng // Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng quốc hội, Số21(158) tháng11/2009, tr.52 – 55
Xã hội hoá hoạt động công chứng và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về công chứng / Nguyễn Ngọc Bích // Tạp chí Dân chủ pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 6/2008, tr. 5 – 8
Một số bất cập về cấp bản sao, chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký / Hà Linh // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 8/2008, tr. 60 – 61
Tránh nhầm lẫn việc công chứng với chứng thực / Phan Thuỷ // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 9/2008, tr. 47 - 50
QLNN về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra / ThS.Đặng Văn Tường // QLNN. Học viện hành chính. Số168 tháng 1/2010, tr. 47 - 50
Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn : Luận án thạc sỹ / Nguyễn Quang Minh; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồi . - Hà Nội, 2009. - 66 tr. ; 28 cm
Công chứng quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình để vay vốn nơi chứng, nơi ... không? / Bùi Đăng Vương // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 2/2010, tr. 42 - 43, 47
Kết quả hai năm thực hiện Luật công chứng và một số kiến nghị / Đỗ Hoàng Yến // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số chuyên đề 2/2010, tr. 2 - 7
Hà Nội với việc thực hiện xã hội hoá công chứng / Phạm Xuân Phương // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số chuyên đề 2/2010, tr. 13 -15
Cần có quy định và hướng dẫn cụ thể một số thủ tục công chứng / Lê Thị Bích Hạnh // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số chuyên đề 2/2010, tr. 23 - 25, 32
Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay: Luận án tiến sĩ Luật học / Tuấn Đạo Thanh; Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng, TS. Đặng Văn Khanh . - H., 2008. - 215 tr. ;
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay: Luận án TS Luật học: 5.05.05 / Đặng Văn Khanh. - H., 2000. - 205tr ;
Một số ý kiến về việc thực hiện yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch của doanh nghiệp / Trịnh Duy Hưng // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số chuyên đề 2/2010, tr. 30 - 32
Công chứng hợp đồng kinh tế và các thoả thuận biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế - thực trạng và giải pháp : Luận án thạc sĩ luật học / Nguyễn Thị Hạnh . - H. : Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998 . - 117 tr.
Luật công chứng năm 2006 và văn bản hướng dẫn thi hành . - H. : Chính trị quốc gia, 2008 . - 81 tr.
Một số văn bản pháp luật về chứng thực : Nghị định số 110/2004/NĐ-CP về công tác văn thư. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Thông tư liên tịch số 04/2006 TTLT/BTP-BTNMT hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất. các quy định khác có liên quan . - Chính trị quốc gia, 2008 . - 366 tr.
Tính toán theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009; và TBKTVN: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2009-2010.
Tổng hợp từ
Tính toán theo Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2009-2010
Cục Thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Tp. Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 5
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 5
1.1.1. Tổng quan về các mô hình công chứng trên thế giới 5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm công chứng 8
1.1.2.1. Khái niệm về công chứng 8
1.1.2.2. Đặc điểm của công chứng 12
1.1.3. Khái quát chung về Văn phòng công chứng 14
1.1.3.1. Khái niệm Văn phòng công chứng 14
1.1.3.2. Đặc điểm của Văn phòng công chứng 17
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG 19
1.2.1. Khái niệm quản lý, quản lý nhà nước 19
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng 23
1.2.2.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng 23
1.2.2.2. Đặc điểm của Quản lý Nhà nước đối với Văn phòng công chứng 24
1.2.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với Văn phòng công chứng 28
1.2.3.1. Nguyên tắc bảo đảm sự quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng 28
1.2.3.3. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong quản lý hoạt động của Văn phòng công chứng 28
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với Văn phòng công chứng 29
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 35
2.1. KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, TÌNH HÌNH DÂN CƯ, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 35
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 40
2.2.1. Về ban hành văn bản quản lý 45
2.2.2. Về tổ chức thực hiện quản lý 55
2.2.3. Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các Văn phòng công chứng 61
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 68
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG 68
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 78
3.2.1. Các giải pháp chung 78
3.2.1.1 Thống nhất chỉ đạo từ trung ương đến địa phương trong lĩnh vực công chứng 78
3.2.1.2 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động công chứng 80
3.2.2. Các giải pháp cụ thể của quản lý nhà nước với mô hìnhVăn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội 83
3.2.2.1 Nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá 83
3.2.2.2 Xây dựng bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng 85
3.2.2.3 Thành lập Hiệp hội công chứng 88
3.2.2.4 Xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng 90
3.2.2.5 Xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho thành phố 92
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................97
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý Nhà nước đối với cácVăn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội.doc